TRƯỜNG CA ĐỒNG LỘC
Tượng đài Ngã ba Đồng Lộc- ảnh Internet
Đồng Lộc mang giấc mơ hoa Tím
Tuổi thơ em quăng quật ngọn gió lào
Áo khô cứng như bánh đa đem nướng
Những cành Mua không bán giữa đồi cao
Tuổi thơ em lộng cánh diều bát ngát
Giớ thì xanh – Diều giấy bỗng chòng chành
Trời thổi rỗng tháng ba ngày giáp hạt
Hoa Sầu Đông nhợt nhạt nước da xanh
Mẹ thủng mủng quay bốn bề dang dở
Con tép, con tôm búng thót chợ chiều
Đời mẹ thắp ngọn đèn con trước gió
Ruột đèn dầu hút cạn bóng đêm sâu
Mẹ phơi áo, phơi nổi niềm để ngỏ
Cây sào cong uốn cong cả trưa nồng
Xếp vạt nắng vào sau áo Cọ
Khép chân trời âm ỉ những cơn giông
Đời Mẹ nghèo: Biết thương cùng bầu bí
Vấn vít đời con, ủ bếp nhà mình
Canh ngọt riêu Cua, tròn thơm quả Thị
Củ khoai vùi sượng cả mùa đông
Vâng, con biết trái sinh ra để chín
Bao chắt chiu sỏi đá địa tầng
Một đời Mua rưng rưng để tím
Đời tập tàng hoa cũng nở lang thang….
Trăng quê ta – tăng quầng tháng hạn
(Mắt mẹ quầng trũng cả đêm thâu)
Mẹ gánh nước sông chân bấm vào bến vâng
Khỏa bao nhiêu nước vẫn chẳng đổi màu
Con thương mẹ nối dây gàu giếng cạn
Mo cau úp vào ruột đất khơi khơi
Tiếng gàu vét đêm lên từng mảng
Gặp mảnh trăng hao khuyết bên trời
Áo tơi mẹ chằm rồi lại lợp
Những tháng ngày bền bỉ mái nhà tranh
Bánh đúc tránh xương, lát giò thêm quế
Kẹo lạc giòn ngấm chuyện nước chè xanh
Đồi Đồng Lộc chỉ toàn đá sỏi
Con bò già thèm cỏ nhấm vào mưa
Tóc con gái he vàng khép nắng
Chỉ tiếng cười trong trẻo trong mơ…
Núi quê ta vẫn dáng núi Giăng Màn
Bốn tao nôi mẹ dựng lên Đất Nước
Câu ví dặm chắt từ trong bão cát
(Luyến láy nào cũng dáng dấp song quê)
Tuổi thơ con giăng mắc cánh đồng
(Cây gạo đầu làng không làm ra hạt gạo)
Châu Châu , Cào Cào nhịp chày giã trấu
Bài thuộc lòng quay chong chóng cối xay
Vòng đê trầm níu ngọn cỏ May
Song La bổng chảy cồn cào ruột Hến
Cây Mía bấm thời gian đốt dày thêm lận đận
Em hong tóc trước thềm giàn giụa ánh trăng quê
Mẹ đặt tên con: Xuân, Xanh, Rạng, Cúc, Tần…
Mẹ mơ mướt ngọn rau, mẹ khát khao sữa lúa
Cả đời mẹ chưa một lần ướm lụa
Vải Đồng Môn mẹ nhộm mấy lượt bùn
Mẹ như Sen nở gữa ao đồng
Tâm Sen đắng từ lòng mẹ ấm
Hoa Sen nở vì ai (vì ai Sen rủ xuống)
Bát hương trầm nhang khói cũng cong theo
Một đời cha đi suốt dải đất nghèo
(Cha gieo chữ như mẹ từng gieo mạ)
Khói thuốc lào mang hồn cây, hồn lá
thong thả rít xuống chiều vợi đi nỗi gieo neo
Em lớn lên bằng khúc hát “ ầu ơ …”
Nửa đời cha quen nằm trên võng bạt
Hoa Chạc Chìu thơm ngây ngây cơn sốt
Chim “bắt cô trói cột” buộc vào trưa …
Truông Bát
Khe Giao
Bãi Vọt
Cầu Treo
Những cái tên mang dáng người tất bật
Áo cà sa thấm hết kinh thoát tục
Ước làm sao thắm thêm được sắc vàng
Cả đời Cha chưa vượt nổi tam quan
Mẹ lặng lẽ lần theo tràng hạt
Chỉ có ngọn đòng đòng trồ bông vào hao khuyết
Chỉ hoa Mua không mọc ở sân đình
Sông làng mình dáng thắt đáy lưng ông
Cứ đẩy mãi câu hò xuôi ra biển
Núi thì vẫn ngàn trùng Thiên Nhẫn
Gió lào thổi khô cong cả mái chùa làng …
Chương II
Áo xanh – Nón trắng
Áo xanh, nón trắng
Lợp nắng vào mưa
Lợp non vào cỏ
Lợp vỏ vào cây
Bấm đốt ngón tay
Ngón dài, ngón ngắn
Áo xanh thì thắm
Nón trắng thì mềm
Lật đá san nền
Tay chồng tay búa
Đêm hay nói mớ
Ngày hay dỗi hờn
Ngọn khói thổi cơm
Vòng vèo qua ngỏ
Thèm nghe tiếng chợ
Thèm tiếng trẻ con
Thèm trái chanh non
Thèm hương bồ kết.
Chiều ba mươi tết
Xuống đường phá bom
Chợt nghe pháo tét
Giật mình khói sương …
Khúc I: Áo xanh
Áo thanh niên xung phong
Mang hình hài con gái
Cây sào phơi vít cong
Hong nổi niềm trống trãi
Tóc dài cắt ngắn lại
Dày ba – ta rộp phòng
Những ngón chân mền mại
Bấm vào tầng đất nung
Lán thanh niên xung phong
Lan rừng treo phấp phỏng
Dù trắng nhuộm ngày xanh
Nhuộm xanh làn da mỏng
Chiếc lược bằng vỏ đạn
Chải tuổi mình dần thưa
Chải vào ngày nón trắng
Chải vào đêm gió lùa …
Áo thanh niên xung phong
Vắt qua bao mưa nắng
Túi áo may chéo nghiêng
Đựng cả trời lửa đạn
Em vò bên giếng cạn
Giặt áo chẳng xà phòng
Vắt lên cây phơi tạm
Nếp áo hằn nếp sông
Bao nhiêu gái chưa chồng
Cùng có chung cỡ áo
Chiếc cúc – lúm đồng tiền
Đính vào ngày giông bão
Trãi vạt áo ra nằm
Vuốt ve làn da mỏng
Chuốt vải mềm uốn lượn
Thắt một dáng lưng ong
Em thèm mang áo trắng
Cho đêm bớt oi nồng
Bớt cái nhìn khô cứng
Của cánh lính đàn ông
Nằm úp thìa bên nhau
Giọng nói ngày thêm đậm
Áo mõi ngày mỗi ngắn
(Em tự quên tuổi mình)
Cái tuổi mơ đến trường
Áo dài bay mền nắng
(Sông La bao nhiêu sóng
Em một mình bão giông …)
Khúc II : NÓN TRẮNG
Nón là chớp trắng của mây
Thả mưa về với rừng cây đại ngàn
Đong đưa nón trắng ánh vàng
Đỗ trăng về bến lỡ làng của duyên
Lần tay chắp nối đường viền
Tơ tình xe chỉ luồn kim hỡi người!
Bây giờ nón trắng khơi khơi
Làm sao che được Mồng Tơi cuối vườn
Bây giờ nón trắng ra đường
Lấp ngày bom đạn khói vương cay xè …
Trả trời một nỗi xanh kia
Bao nhiêu nón trắng
Về
Chia sẽ
Mình!
Chớp bom còn giấu rập rình
Thả chùm sấm
Cứ ú tim trêu người
Tuổi hai mươi
Tuổi ba mươi
Gác bom nổ chậm bời bời trông ra
Vườn ai để tím hoa Cà
Ở đây nón trắng kết hoa treo tường
Úp vào bao nỗi nhớ mong
Cơn mưa thắt ngọn đòng đòng ra phơi …
Tuổi ba mươi đã dần trôi
Võng đưa để mắc ru hời vào cây
Cây không lá
Đá không mài
Suối trơ cạn cả nguôi ngoai nỗi mình!
Bao nhiêu nón trắng xa đình
(Em xinh chưa biết tỏ tình cùng ai?)
Thôi dành mượn nón nghiêng vai
Nữa che ánh mắt
Nối dài đường tơ.
Lợp vào sợi nắng, sợi mưa
Một mình cứ chuốt mộng mơ cho mình
Lời cầu bắc nhịp trái tim
Con đường nối với nghĩa tình sâu xa.
Ở đây chỉ một ngã ba
Nào xe
Nào pháo
Nào phà
Nào anh …
Ơ này nón trắng
Có bao nhiêu vành
Tre làng vốn thẳng
Thương mình uốn cong
Cong cả vầng trăng
Mắt quầng tán hạn
Cong cánh Chuồn Chuồn
Thiu Thiu giấc nắng.
Nón em thì trắng
Khói đạn thì đen
Bào thai chiến dịch
Ôm tròn bóng đêm.
Nón trắng cọc tiêu
Xe qua ngầm đá
Nóng bừng đôi má
Thả câu nói đùa:
-Bên nớ ở mô?
-Đồng hương cùng tỉnh
Chao ôi chất lính
Trẻ lại cung đường
Ngắn lại khúc vòng
Dài thêm miền nhớ
Nếu không có lửa
Làm gì có nhau
Nón trắng bắc cầu
Vai trần con gái
Bàn tay mềm mại
Nâng đoàn xe đi …
CHƯƠNG III: HY SINH
Ngày 24 tháng 7 năm 1968
Một ngày bình thường như mọi ngày
Tiếng gà gáy cong vòi như lưỡi hái
Hái một trời sao đổ thóc vào đêm
Mẹ xay giã giần sàng
Đời bao nhiêu hạt lép
Các con mẹ chắc như hạt thóc
Hạt thóc khoác vỏ trấu màu rơm
Hạt thóc khoác nguỵ trang màu lá
Hạt thóc nằm ngủ ngon
Trên những tấm ni lông phơi vội vã
Quần xắn gối lấm bụi đường đỏ quạch
Hạt thóc nằm mơ mùa vàng thao thức
Hạt thóc nằm mơ cổ tích
Đêm quả thị màu vàng
Nở ra bao điều lạ
Rạng, Xuân, Xanh, Hợi, Cúc, Tần…
Tiểu đội 10 cô gái
Mười ngón tay đan vào nhau
Vương vương 10 mái tóc
Vương vương 10 khuôn mặt
Ai rủ rỉ cuối nhà
Ai luồn tay rúc rích
Bóng cây cọ đổ liêu xiêu trăng vàng trên mái tóc
Cọ- ngọn lửa màu xanh
Gấp lại thành áo tơi
Gấp lại thành quê hương máu thịt
Quê hương lần theo sợi lạt mây chằm qua mưa nắng
Chiếc áo tơi bền bỉ những con đò chở hoàng hôn về chợ
Chợ họp như nỗi phập phồng
Bánh đa tròn dễ vỡ
Miếng trầu mẹ têm
Thấm một vệt vôi dài theo tuổi tác
Ăn chắc, mặc bền…
Nào cuốc
Nào choòng
Sấp ngửa
Ngổn ngang dọc dáng người
Xe cút kít lách qua tháng bảy
Bánh xe tròn định mệnh
Xe đêm về đắp ký ức đầy vơi
Tiểu đội 10 người
Mười chiếc bát ăn cơm
Bát B52 úp mặt vào sàn nứa
Mười chiếc bát như mười phím đàn
Em có thể gõ
Và hát bâng quơ…
Rằng hết giận thì thương
Hoa đến thì thì hoa phải nở
Mười chiếc bát mười bông hoa loa kèn
Rung âm đàn về đất
Ngân âm đất về trời
Mười đội đũa xếp hàng như đội ngũ
(Xin hãy đừng thiếu hụt một đôi)
Tiểu đội 10 người
Mười miền quê cùng chung giọng nói
Tiếng Hà Tĩnh qua mưa chan nắng dội
Vẫn trong veo như mạch giếng làng
- Quê choa nhiều khoai lang
Những củ khoai vùi trong cát bỏng
Dây khoai vòng mơ mộng
Qua cái đói giêng hai buộc sượng cả người
- Quê mi bên Sông Cụt
Con sông như khúc ruột làng
Gánh những cầu Cày
Chợ Voi
Cửa Sót
Ôi những cái tên đọc lên đã thầm rơi nước mắt
Thương cha ông nghèo
Núi cũng hòn côi cút
Đẻ bao ông cử, ông nghè
Câu Kiều hát trong đêm phường vải
Chín mươi chín đỉnh non Hồng cũng thấp thỏm đứng nghe…
Tiểu đội 10 người
Mười con cò nón trắng
Mười cánh chim áo xanh
Hoa sim nói về em
Cánh tím mỏng manh
Sông La nói về em
Cong vòng lưng thiếu nữ
Mười ngôi sao không đêm nào ngủ
Bữa cơm một mâm tròn
Cả tiểu đội xúm quanh
Một chiếc dù pháo sáng
Chia đều 10 tấm khăn
Một mảnh vỏ máy bay
Chia đủ 10 chiếc lược
Tiểu đội hàng ngang
Nỗi niềm hàng dọc
Cao thấp, nhỏ to
Chung một dáng người
Mười chiếc áo
Chung một dây phơi
Mười tâm tình chung niềm vui để ngỏ
Cái Hợi hay cười
Cái Xuân hay dỗi
Lúm đồng tiền cũng muốn chia đôi
Lúm đồng tiền lấp dần thời son trẻ
Mười cô gái cùng khát khao làm mẹ
Khát khao làm vợ
Khát khao nhớ
Khát khao thương
Khát khao một tấm ngực trần
Một giọng đàn ông
Vuốt ve mái tóc
Ôi mái tóc ngỡ không xanh thêm được
Sương gội ban đêm
Khói gội ban ngày
Bầu ngực ngỡ không còn vú ngọc
Nằm ép mình xuống chai sạn đất đai
Mười cô gái trinh nguyên
Xâu cỏ May thêu gối
Hoa xấu hổ vẫn mọc bên mầm khói
Em mơ gì
Nụ cười thêm tuổi
Đôi lúc ngồi nói một mình
Đôi lúc muốn hét lên thật to
Cho ngã ba âm âm vọng lại
Rằng: chúng tôi vẫn còn thời con gái
Sao có lúc bần thần chẳng lẽ hóa con trai !
Tháng 7 ngày 24 năm 1968
Một ngày định mệnh
Mười chị em nối nhau ra trọng điểm
Vừa đi vừa vấn tóc
Vấn lại một ngày thường
Vấn lại đêm ký ức
Vấn lại cuộn len vun mùa đông một góc
Cuộn len chảy ra lăn theo hy vọng
Rằng: thêm một ngày biết mình đang sống
Rằng: thêm một giờ biết mình bên nhau
Rằng: thêm một phút
Trời xanh trên đầu
Rằng: thêm một giây
Ngã ba yên tĩnh !
Không gian giãn ra rỗng như vòm trống
Im lặng lạ lùng
Im lặng toát mồ hôi !
“Chú ý ngã ba
Còn nhiều bom nổ chậm”
Tấm biển như tay người nhắc nhở
“Chú ý ngã ba
Giờ này là cao điểm”
Tấm biển như mắt người nhức nhối
“Chú ý bom từ trường
Kim loại trong người để lại”
Giếng nước vẫn trong
Căn hầm vẫn ấm
Trang sức của em là chùm sim tím
Hái vội bên đường
“Chú ý bom tọa độ
Có thể bất thình lình”
Tiếng ai đó giật mình trong gió
Sao trời vẫn xanh
Sao đất vẫn đỏ
Sao áo vẫn mềm
Sao tiếng vẫn quen
Chúng con mười chị em
Ngủ chung đội hình
Đi cùng đội ngũ
Mười cọc tiêu bên hố bom chờ nổ
Mười dáng thắt lưng ong
Mềm cả nắng khô giòn
Trưa
Mười vắt cơm mở ra
Khúc cá
Quả cà
Mười bi đông nước
Tiếng bi đông va vào nhau
Khô khốc
Thèm một gáo nước giếng làng
Chảy rười rượi xuống bờ lưng con gái
Trời xanh quá
Xanh đến thót lòng
Đất êm quá
Êm đến bâng khuâng
Không gian bỗng vỡ òa
Loạt bom tọa độ
Khói bỗng trùm lên
Không còn nghe tiếng nổ
Không còn nghe tiếng người
Không còn nghe đất rơi
Mười nón trắng bay lên
Mười vạt áo bay lên
Đất
rơi về với đất
Người
rơi về xương thịt
Tần ơi!
Hà ơi!
Cúc ơi!
A trưởng Võ Thị Tần
Viết thư về cho mẹ:
“Mẹ ơi! Mẹ đừng lo
Con gái mẹ không còn bé nhỏ
đêm chúng con san đường
Có pháo sáng quân thù soi tỏ
Ngày chúng ném bom xuống sông
Cá nổi lên nhiều lắm
Bữa ăn chúng con cải thiện
Lấy sức để làm đường.
Bom đạn có thể làm rung chuyển núi rừng
Nhưng không thể bẽ gãy ý chí chúng con sắt đá
Thằng Mỹ hung hăng thật ngu mẹ ạ!”…
Và anh đang ở xa
Nhớ hôm lên đường chia tay bịn rịn
Em dấu vào ba lô người lính
Chiếc khăn thêu
Tầm ảnh
Món tóc thề.
Cau nhà mình vẫn úp bẹ vào cây
Nắng đã chín sum vầy hó hẹn
Lời dạm ngõ chính thành lời đưa tiễn
Đêm Thiên Lộc cánh đồng trăng sóng sánh
Mái tóc dài không chuốt hết lời yêu
Người con gái có dáng người tròn lẵn
Nụ cười tươi bừng sáng cả nắng chiều…
Hà ơi!
Em là người trẻ nhất
Tuổi mười bảy bẽ gãy sừng trâu
Sừng trâu cong như trăng đầu tháng
Đên đèn ông sao
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
Em lò cò chân sáo
Buổi trưa rình bắt ve dấu vào túi áo
Mùa hạ thơm như chùm quả
Mùa hạ thơm như má em
Mùa hạ chín khi trời còn xanh vỏ
Bỏ ngỏ một phong thư
Bỏ ngỏ cánh chim trời…
Cô gái lọ lem dấu chân vào dép lốp
Chờ cơm thì gõ bát
Ngồi nhặt thóc giúp bà
Hạt lép thì thương
Hạt đầy thì ngắn
Đôi bím tóc
Chú chìa vôi nhóng nhánh
Chim khách ơi!
Chim khách đến chơi nhà
Trưa tu hú
Ngọt chùm vải chín
Sông bần thần ôm dạ nặng phù sa.
Tên em là sông
Em lớn lên con sông nào cũng rộng
Đời éo le bên lỡ vá bên bồi
Rút ruột Hến nuôi cuộc đời mơ mộng
Vỏ tấp vào bến bãi
Vỏ nung vôi!
Mía bãi soi đã ngọt dần lên ngọn
Cây lúa cong như chỉ đòng đòng
Lúa con gái dậy thì
Hoa sầu đông chớm rụng
Em một mình mắc võng tập chao nôi
“ạ ru hời…”
Em ru cái ngủ
Cái ngủ ríu mắt rồi
Thương con cò lặn lội
Suốt một đời mang áo trắng ra phơi.
Trích trường ca của Nguyễn Ngọc Phú