Tác phẩm và dư luận

15/7
5:28 PM 2016

Sáng tác của các học viên Lớp bồi dưỡng viết văn Khóa X, năm 2016

Do Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du tổ chức

Nguyễn Thúy Quỳnh

ƠI HÀNG CÂY


Em theo anh về lại phố xưa 
Hàng cây cũ còn đâu rợp bóng 
Dòng nhựa tứa ,con tim nhỏ máu
Cành tả tơi 
Quằn quại ,lá héo khô
Cạnh hàng cây một lũ giang hồ
Mình săm trổ 
Những hình thù vằn vện 
Những búa rìu ,
Những máy cưa thừng bện
Bầy giết thuê ,
Một lũ chặt thuê
Thôi ………còn đâu bóng mát ,
Những trưa hè
Gánh hàng rong
Oằn mình trong nắng gắt 
Mắt u buồn thương hàng cây ứa nước
Mùn vãi đầy hè phố ngập tang thương
Những xe hơi 
Bóng lộn cao sang
Những văn phòng máy lạnh quên tắt điện 
Thì anh ơi họ làm sao hiểu được    
Tình dân mình tha thiết với hàng cây

 



LÊ TẤT SƠN 

TRONG MƠ

Chiều nhạt phai hoàng hôn chầm chậm tối
Phố đìu hiu chấp chới những ánh đèn
Đêm buông màn sương giăng lối đan xen
Nghe phảng phất tiếng ho hen của gió

 

Anh một mình buồn xo trong nỗi nhớ
Thương về em ngày tháng lệ hoen mờ
Nhốt tình yêu trong im lặng đợi chờ
Nơi sâu thẳm ruột đau như muối xát

 

Tình đầu xưa nguyện thề không trôi dạt
Dù lên non hay băng thác xuống ghềnh
Cùng dìu nhau trong khoảng tối chênh vênh
Luôn ấp ủ mối tình không bờ bến

 

Em hãy tin hạnh phúc rồi sẽ đến
Sợi tơ hồng gắn chặt tình đôi ta
Tình yêu xưa thêm ấm áp mặn mà
Trong bóng tối sẽ tìm ra ánh sáng

 

Đón bình minh một trời thu sáng lạng
Cặp tình nhân bao năm tháng đợi chờ
Ôi! Hạnh phúc đến thật hay là mơ
Đây! Khát vọng thiên đường trong bể khổ...

 


 

Kim Oanh

Lung linh Luy Lâu

 

Luy Lâu!

Một miền đất cổ

Lung linh

Tỏa sáng ngàn năm

Lưu danh

Bao điều huyền thoại

Linh thiêng

Vạn kiếp không nhòa

Dừng chân nơi đây

Lòng ta nao nao

Vào câu ca xưa

Nỗi niềm Kinh Bắc

Nối câu quan họ

Cho người sang thăm

Bắc cầu dải yếm

Đón người về đây

Một miền dân ca

Đằm trong hoài cổ

Chìm trong câu ca

Chìm trong cổ tích

 

 

 

Y Mùi

 

          Rồi một ngày

 

Rồi một ngày mẹ chẳng thể đứng lên

Cây gậy sẽ rất buồn

Lối sỏi mòn rỗng không vạt nắng

Vắng dáng mẹ còng

Vắng tiếng gậy chiều hôm

Mẹ cúi thấp để con lớn khôn

Cho con biết nhìn xa phía trước

Mặt đất bao la con vững vàng chân bước

Giông gió cuộc đời luôn có mẹ chở che

 

Rồi một ngày mẹ chẳng thể nghe

“Con dế hồng”* sẽ buồn lắm đấy

Tiếng chuông reo mẹ không còn nghe thấy

Cả nhạc chờ và cuộc gọi sẽ lặng im

Rồi một ngày mẹ chẳng thể nhìn

Thế giới quanh ta muôn màu rất đẹp

Bóng mẹ hiền bên khuôn cửa hẹp

Vẫn muôn đời thôi thúc bước chân con

Rồi một ngày….

Nức nở miếng trầu khô!

 

Chú thích:

*- Chiếc điện thoại di động mẹ thường dùng

 

 

 

ĐINH SỸ MINH           

                                                                           

LỜI MỘ GIÓ

 

Chiều cuối năm trầm mặc 
Gió ngậm ngùi khói hương
Mộ chú cỏ mãi xanh* 
Linh hồn trắng lẫn cùng mây trắng.
 

Hai mươi tuổi chú đi kháng chiến
Chú trở về cũng chừng ấy xuân xanh.
Khúc quân hành lận lưng
Trái tim dài cùng đất nước
Không giấy thông hành
Không cả bằng chứng tử
Không mối tình đầu, tình cuối 
cũng không!
 

Xác chú gửi Trường Sơn
Linh hồn chú, con lạy xin Người, 
ở trái tim Tổ quốc

Xin nhập về đây mộ gió nghĩa trang làng.

 

Trong lảng vảng khói hương

Con nghe như tiếng gió vẳng lên từ ngôi mộ:
“Chiến tranh mà con...
Chú đã về!”.

 

*Đức Thanh, 27 tháng Chạp Ất Mùi.

* Tưởng nhớ chú Đinh Sỹ Đạt, hy sinh và mất xác tại mặt trận Bình Trị Thiên vào năm 1947.

 

 

Quách Thị Mười

THÀNH CỔ SƠN TÂY

Tiếng chim  hót trên cánh bằng lăng
Hoa nở tím cả một miền nhung nhớ
Tím góc phố tím con đường nhỏ
Lối tan trường xao xuyến ve ngân...


Đây Xứ Đoài  xanh xanh miên man
Mây chiều buồn lang thang từ thuở ấy
Chợ Nghệ vắng anh thành trống trải
Cánh bằng lăng mơ mộng tím mặt hào...


Sơn Tây  mình ơi yêu mến biết bao
Màu tím của mối tình dang dở
Dẫu nắng mưa quay cuồng giông bão
Chẳng phai màu dãy phố tím bằng lăng....


Em đi trong Thành Cổ rêu phong
Hàng dừa xanh soi mình in đáy nước
Chiều vội nắng sợ ngày lay lắt bóng

Một miền yêu tha thiết đợi anh về.

 

 

 

Trần Thị Ngọc Mai.

NGÀY CỦA MẸ

Tôi lặng nghe gió khóc

Khi thổi qua vai gầy

Tiếng rao bình minh thức

Sương chao ngàn đâu đây...

 

Gió Lào rạc hàng cây

Bỏng bàn chân mẹ bước

Gia tài gánh quà vặt

Đổ tròn trưa bóng gầy...

 

Ráng vàng xuyên bóng mây

Trĩu mùa trên vai mẹ

Ngày nối ngày như thế

Bế bồng ước mơ con...!

 

Vũ Xuân Thao

GIỌT NẮNG MÙA VUI

Mẹ gieo giọt nắng xuống đồng
Chắt chiu hương đất ươm mầm cây tươi
Giọt nắng nhòa giọt mồ hôi
Thơm nồng tình mẹ gọi chồi lúa xanh
À ơi giọt nắng lớn nhanh
Ấm bàn tay mẹ nắng thành mùa vui

 

 

 

                   SINH NGHỀ TỬ NGHIỆP

                                                                Truyện ngắn của Nguyễn Trí

 

      Lớp ba trường làng chưa xong thì Bảy Bền đã xếp bút bi phụ mẹ lo cho hai em có cái tọng vô mồm. Bà má nói học cho nhiều cũng vậy thôi con ơi, cái mả nhà mình không phát đường chữ nghĩa. Vô rừng theo cha mày cho chắc.

     Hai cha con đi lấy đặc sản rừng. Mùa nào thức nấy. Rừng miền đông trái cây thôi thì vô thiên vô lũng. Nào Xay, Cám , Bù lộp, Gùi… đến mùa măng thì bà má ngày nào cũng có mặt ở chợ bán đủ loại măng khô măng tươi. Đúng là nghề dạy nghề. Mùa chính mưa ở miền Đông dầm dề không thua chi mùa mưa ở Huế trong thơ Nguyễn Bính mà cha của Bảy Bền thừa tài để cho ra măng sấy là quá xá hay. Nghề không cao dễ chi được. Chưa kể bẫy cò ke còn cho bà má có thu nhập thêm từ thịt rừng. Ngày nào ông cha cũng khề khà vài ly ba xi đế bên một đĩa thịt tú hụ không Cheo, Chồn thì cũng Nhím, Sóc hay Gà rừng.  Hai cha con còn tham gia lấy cây về bán cho những trại mộc. Ai làm nhà cần loại cây chi cứ gặp cha con Bảy Bền là xong tuốt. Nhờ chí thú nên mười lăm tuổi Bảy Bền đã có một cặp bò kéo xe chiến đấu. Trên cổ xe bò Bảy đi sâu vô những cách rừng lồ ô đem loại cây nầy về xóm nhỏ dựng nghề chẻ tăm nhang cho bà con cô bác kiếm thêm.

     Với rừng, Bảy Bền tinh thông hơn cả căn nhà của mình.

     Nhờ cái tinh thông nầy mà những năm khốn khó sau chiến tranh rất nhiều các ông các bà có của nương theo Bảy Bền mà ăn nên làm ra, lên luôn cả hàng tỷ phú xứ ta chứ triệu phú thì khỏi nói. Đặc biệt những năm rừng bị nghiêm cấm, ai vào rừng không giấy phép là tù không cãi cọ lôi thôi. Kẹt cái lúc đó kinh tế còn khó quá, cấm thì dân nghèo lấy chi sống? Thôi thì gỗ thì cấm triệt chứ mây tre lá ta cho qua. Cấp giấy phép cho họ và ta thu thuế nuôi rừng. Nhưng quý vị thị thành muốn biết đâu đó trong nguyên sinh có tre có mây có lá thì phải thông qua thằng chưa tốt nghiệp lớp ba là Bảy Bền, còn gọi nó là anh nầy anh nọ nữa mới là ngon hung. Bảy hoá thành thần tài cho các vị có giấy phép.

     Mỗi chủ khai thác chí ít trong tay năm mươi lính lác. Họ giao hết cho Bảy. Bảy đưa thợ vào những cách rừng nơi ngự trị toàn lồ ô. Người ta đưa lồ ô cây về nhà máy để sản xuất đũa. Mỗi cây người thợ rừng hưởng bẩy trăm đồng. Zin 130 đưa về nhà máy là hai nghìn đồng. Mỗi cây chủ thầu lời một ngàn ba, cho chung chi thuế má xăng cộ hết một ngàn ta còn ba trăm. Mỗi xe sáu trăm cây ta có một trăm tám mươi nghìn lãi. Mỗi ngày ta có năm xe về nhà máy thì không tỷ phú thì là chi? Ngoại trừ lồ ô cây ta còn cho ra niền để chế biến tăm nhang, mỗi bó niền thợ rừng ăn bốn ngàn về đến chỗ bán là bốn mươi ngàn, cho chi phí tối đa ba mươi ngàn. Mỗi Kamax chở bốn trăm cục niền, ngày đi hai xe. Mẹ cha ơi vàng để đâu cho hết nói chi tiền.

     Về sau một đại gia rất am tường thiên thời địa lợi và lòng nhân ái bao trùm không chừa một khoản trống nào ở vùng rừng X. Vợ của Bảy Bền nhờ ông ta mà thoát chết, cảm tạ cái ơn nầy nên Bảy kính cẩn gọi đại gia là anh Sáu và nghiêng mình dưới trướng anh trong nghiệp khai thác độc quyền mây tre lá. Anh Sáu lên Bảy cũng lên theo và anh Sáu nâng Bảy Bền như nâng trứng. Chao ôi Bảy hay lắm. Lồ ô dưới lũng sâu mới là loại nhiều năm tuổi. Muốn ra một cặp đũa không bị toè đầu phải lồ ô ba năm tuổi đi lên, cây non là bỏ. Tăm nhang cũng vậy, chẻ xong đem đánh bóng thì cây tăm non sẽ gãy, nếu may mắn còn nguyên chúng sẽ bị cong vòng khi cắm lên bát hương. Bọn nhiệm thu rút lên một nắm chỉ cần một cây bị oằn là chúng bỏ cả kiện. Hàng xuất khẩu đang nằm ở bến cảng mà bị trả là chết, nên chi bước khai thác thô phải tuyệt đối cây già. Muốn cây già thì xuống lũng. Nhưng lũng trong rừng miền Đông không thua chi dốc cao khúc khuỷu dốc thăm thẳm trong thơ ông Quang Dũng tí nào. Nhưng với Bảy Bền thì không sao. Anh ta điều trị tốt.

      Thợ rừng cứ cho ra sản phẩm bất kỳ nơi đâu, đèo cao hay suối sâu. Khó khăn cỡ nào cũng không qua được Bảy. Xét cần hai ba chiếc Zin sẽ vào bốc hàng một chỗ để cùng nhau hợp lực mà qua truông qua đèo. Bảy sẽ cùng một tốp công nhân chuyên xẻ đường luôn có mặt trên từng cây số với cuốc chim và xẻng trên vai. Bọn tài xế Zin ba cầu và Zin 130 phong Bảy lên hàng kỹ sư cầu đường luôn. Còn nói vầy:

  • Mấy thằng kỹ sư thời nay phải gọi Bảy Bền bằng sư phụ.

    Khai thác mây tre tạm gián đoạn khi mùa Đười ươi đến. Mẹ cha ơi. Dân rừng Miền Đông lên hay không nhờ loại trái cây nầy. Tháng giêng là thợ đã xuyên rừng tìm cây và dánh dấu. Cây nào có tên là xin đừng rờ vào, thợ rừng nói chuyện với nhau bằng cú đấm là chuyện nhỏ. Dao rựa cũng nhỏ luôn. Cây tao mà mày dám tra búa vô hạ là bao nhiêu tao lấy hết. Luật rừng đã định rồi. Cây đã khắc tên ai biểu mày đụng vô? Tháng hai là túa ra đi lượm Ươi bay. Loại trái nầy trị được bách bệnh đa nghe. Nóng trong người, thiệt đó, đang xỉn rượu tối mặt mà chơi một ly hai trái ươi là nhẹ liền, cả táo bón kinh niên cũng chào thua đàn anh Ươi. Nghe đâu nó còn trị được tiểu đường và thấp khớp. Nhưng nếu chỉ vậy thì không thể trả lời cho câu hỏi vì sao Ươi đắt như vàng. Đến mùa đầu nậu thu mua để xuất khẩu. Chả ai cần biết xuất để làm chi chỉ biết nó cao giá lời nhiều là em làm cái đã tính sau.

      Nhưng mà đi lượm Ươi bay thì một ngày được mấy trái? Cơn ăn cơm dỡ vô rừng mà đi lượm thì ở nhà đi móc bọc ni lông còn có ăn hơn. Quý ông thợ rừng tra búa tra rìu vô cây hạ hết. Khổ cái là rừng đang được bảo vệ. Cụm rừng anh đang khai thác lồ ô tại sao cây ươi nầy bị đốn? Chỉ một cây bị ngã là anh bị tước giấy phép ngay tức khắc nghe chưa? Dạ nghe.

     Lúc nầy mới thòi ra cái thông minh của thằng chủ soái Bảy Bền. Bảy không đốn mà trèo lên cây để hái. Mẹ ơi. Cây Ươi trái nhiều phải là cây trưởng thành cả hai vòng ôm người lớn và cao tầm hai mươi mét, ông cố nội ai leo cho được thưa quý anh? Ai không được chứ Bảy Bền thì pha. Bảy chả có võ nên nào biết Bích hổ du tường là cái ba láp ba xàm chi, Bảy cũng chả tin cái vụ nhún một phát bay lên như trong phim tàu. Tôn Ngộ Không cũng xạo luôn. Bảy trèo theo kiểu của Bảy và truyền nghề cho anh em thợ chả dấu diếm chi.

          Bảy ra lò rèn đặt đánh bốn mươi cây đinh. Mỗi cây dài bốn mươi phân bằng thép lò xo phuộc nhún của xe Zeep lùn còn sót lại từ thời mồ ma ông cộng hoà. Không có loại thép nầy thì phải tạm sử dụng sắt rằn Pi 12. Thêm một cây búa ba ký mà cái cán cũng được hàn bằng thép trắng. Một sợi đai lưng dùng để trèo trụ điện cao thế là xong bộ đồ trèo cây. Cứ thế Bảy trèo. Cứ lên cao năm tấc nện một cây đinh lút vô hai mươi phân, bốn mươi cây là hai mươi mét. Lên đỉnh rồi tha hồ ta hái. Lưng lửng bao là thả xuống bằng một sợi tời vẫn đeo sau lưng khi chinh phục đỉnh cao. Cái vụ trèo nầy phải gan góc cỡ Phàn Khoái thời Hán Sở tranh hùng bên tàu. Lên cao là gió ngàn lồng lộng thổi. Những ai từng trèo dừa để làm cỏ chắc biết gió ra sao khi trên cao. Nhưng trên một ngọn dừa kẻ  trèo không có cảm giác ngợp bởi bên dưới là nhà và vợ con đang à ơi hát bài quê hương. Cái ngợp của màu xanh đại ngàn cực bí hiểm. Ta có cảm giác như đang một mình trên biển xanh bao la với một mảnh thuyền con. Cái ngợp ấy là niềm cô đơn của một sinh linh bé mọn trước hùng vĩ của cao thâm.

       Dân sống bằng rừng tất nhiên gan dạ có thừa. Đối phó với sốt rét rừng hay hùm beo lợn rừng thậm chí cả ông Bồ cũng không sợ. Con nít mới lớn cũng coi pha. Một thợ rừng thật sự phải dám trèo lên đỉnh cao khi đi Ươi. Mỗi tốp đi Ươi thường bốn nhân mạng, hai trong bốn dám trèo là bảnh lắm, thông thường mỗi tốp chỉ một đại ca. Những đại ca nầy mệt một tí khi khi trèo và hái trái, bù lại khi gùi sản phầm về xuôi đại ca có quyền đi tay không. Về xuôi để bán không dễ đâu thưa quí anh hào. Ươi cao giá nên lắm thằng trời ơi hạ cây lấy trái, kiểu thu một lần là tận tuyệt. Vì vậy bảo vệ và kiểm lâm bắt rạt gáo bất kể anh trèo hay hạ. Thợ phải cắt rừng xuyên sơn không để hàng làm ra bị lấy lại. Lắm khi phải băng sơn cả ngày mới đến nơi.

     Vậy nên Bảy Bền kết nghĩa đệ huynh với một thợ rừng cũng gan góc không thua. Hắn tên Minh Tàn. Tay này một vợ và ba con. Lâm tặc loại chiến. Minh Tàn từng ở tù vị tội trộm gỗ quý trong rừng Cấm. Tù xong hắn nép mình dưới trướng đại gia Sáu làm lồ ô nuôi vợ con. Mùa Ươi có Tàn, Bảy Bền khoẻ re vụ trèo cây. Tàn tuy nhỏ con nhưng khoẻ như con bò, vài chục ký trên vai hắn bước cả cây số mà hơi thở không nặng. Một cục niền năm mươi ký hắn nhấc lên xe bằng hai tay như Trụ Vương bê nàng Tô Đát Kỷ trong phim Phong Thần. Chỉ mùa Ươi mới kéo Tàn và vợ con hắn ra khỏi khổ luỵ của cơm áo gạo tiền. Cho hay nghèo mà ham vui nên khổ thì ráng chịu con ơi. May cho Tàn là biết sống biết chơi nên Bảy lâu lâu cứu trợ bạn hiền vài đồng cho qua thì mưa gió. Không có Bảy e rằng vợ Tàn qua không khỏi cái đận bị hư thai đứa thứ tư. Mẹ cha ơi đêm hôm khuya khoắt mà vợ hắn than đau bụng. Bảy phải đích thân đánh Zin 130 qua mặt đại gia Sáu đưa vợ bạn lên bệnh viện Huyện. Bạn bè vậy chớ sao nữa bây giờ hả ba quân? Tốt quá thì thôi.

      Nhưng có một chuyện mà Minh Tàn nhớ ơn Bảy suốt đời không thể nào quên. Ơn nặng bằng  sinh thành chứ không ít. Số là mùa Ươi năm ấy Tàn bị một tai nạn hi hữu tưởng chết. Sống được thì quả là mạng lớn tầm thái sơn. Tàn trèo lên đỉnh một cây ươi hái trái sao đó không biết mà hắn bị sẩy tay rơi xuống, may thay một cánh tay của thân Ươi giữ Tàn lại bởi xóc vô áo. Áo thợ rừng bằng nilon tốt nên Tàn ta tòng teng. Nó mà toác một phát thì Tàn du địa phủ. Dưới gốc cả bọn toát mồ hôi khi nhìn Bảy Bền bò ra cành cây cứu thằng bạn. May quá cây Ươi ngó vậy mà dai. Ơn cứu mạng nầy đã khiến Tàn và thợ rừng làm mây tre cho chủ Sáu kính trọng Bảy lắm.

      Nói chung về gan dạ và tinh thông rừng Bảy Bền là số một. Sống với bè bạn có tình có nghĩa cúng hết ý luôn.

     Nhưng như vậy đâu đã hết cái ngon lành của Bảy với rừng. Ba cái cây ăn trái và mây tre lá chỉ là chuyện vặt, dù cái vặt nầy là sự sống của vô thiên vô lũng dân dưới đáy cuộc đời. Cái làm nên tên nên tuổi Bảy Bền là một nghiệp khác,  nghiệp nầy có làm vẫn đục đi tí chút tình thân của Bảy và Minh Tàn. Tàn cho rằng trên đời nầy không có chi độc ác hơn là phá nhà cướp của nhà người. Ủa… chớ nghiệp chi mà nghe rỡn ốc vậy kìa? Xin thưa đó là nghiệp ăn Ong. Đúng rồi. Đi lấy mật ong đồng nghĩa với phá nhà cướp của chớ còn chi nữa. Nhưng nói vậy liệu có cực đoan không? Té ra câu vật phải dưỡng nhơn là sai à? Vậy thì lấy mật đâu mà… rơ lưỡi cho trẻ mới sinh?

      - Nói thiệt với mày – Bảy Bền nói với Minh Tàn -  Bọn nhà giàu ăn Tay Gấu, Óc khỉ, Hà nàm(1) cheo chồn nhím thỏ heo rừng có sao đâu? Nói như mày thì hạ một cái cây cũng ác vậy. Ác ác ác cái con khỉ. Tao thấy mấy thằng quyền chức khen cái rượu ngâm ong non quá chừng luôn. Nhất là Vò vẻ hay ong Lỗ.

       - Mày chỉ biết cái trước mắt mà không biết cái nguy hại về sau. Con ong cái kiến hay bất cứ một sinh linh nào có sự sống là có quyền tồn tại như tao và mày. Một cái cây cũng có linh hồn của nó. Trong Truyện Kiều ông Nguyễn Du viết rằng: Cũng là phận cải trôn kim. Nghĩ là một hạt cải, một cái trôn kim bị sứt cũng có số phận của nó…

        - Dẹp mày đi. Tao mới lớp ba chả biết ông Du cô Kiều nào hết. Tao làm gì kệ mẹ tao, rủ mày đi kiếm tiền không đi thì thôi đừng có dạy khôn tao.

         Nói vậy chứ ăn ong đâu phải ai cũng làm được. Không có nghề ong nó đốt cho mất xác chứ chơi sao? Ong ở rừng miền Đông đâu phải như ở miệt U Minh trong Đất rừng phương nam của ông Đoàn Giỏi. Đâu đơn giản đến mùa là vào rừng canh hướng gió đặt kèo chờ ngày lấy mật. Ong mật miền Đông đóng tổ trên cổ thụ cao cả mười lăm mét là thấp. Có tổ to bằng tấm chiếu đơn, chỉ cần xin một nữa là có cả vài mươi lít tinh tuý của rừng. Phải có bí quyết mới dám đụng vô nơi ở của chúa rừng. Xưa nay ai cũng nhầm ông ba mươi là chúa sơn lâm. Xin thưa chúa của rừng xanh phải là Ong mới chính xác. Có những tổ ong đóng trên cao cả Gấu chúa cũng chờn không dám to toe. Chưa leo đến đã bị đánh cho tối mặt còn đâu nữa mà ăn? Riêng cái khoản ong Lỗ thì chúa sơn lâm phải cong đuôi chạy dài. Thậm chí chạy mà vẫn bị đuổi theo đánh cho kỳ chết mới thôi. Thiên hạ nghe đến ong Vò vẻ là đã chờn, Vò vẻ mà so với ong Lỗ thì chẳng ra chi. Đã có người bị ong Lỗ đánh đến thối thịt.

     Có dữ đến mấy vào tay của Bảy Bền là xếp giáo quy hàng. Hôm đó một thợ rừng đang vác lồ ô vào đống thì bị ong Lỗ tấn công. Ba chân bốn cẳng anh ta chạy về chòi. Nghe kể, Bảy Bền liền khoác túi dết rồi thân chinh đến nơi. Chỉ một mồi lửa và một cái chi đó trong túi dết được đốt lên mà Bảy Bền dám bật nắp một tổ ong Lỗ mà vĩ chứa ong non có đường kính những năm mươi phân. Cả chục vĩ như vậy. Bảy Bền khẳng định rằng trong tất cả các loại con non các loài thì ong Lỗ và Vò vẻ là tốt nhất. Hà nàm của thú bốn chân cũng không qua. Con ong non ngâm rượu là một loại phục hồi khí lực của đàn ông tốt nhất trần đời. Cả sâm nhung quy thục bên tàu cũng không dám bì với ong non. Nhìn tổ ong Lỗ bị diệt Minh Tàn lắc đầu:

       - Tổ ong nầy đâu có ghẹo mày mà mày giết nó vậy?

       - Thằng Dũng Giỏi suýt bị giết mày biết không?

       - Đụng đến thì nó cảnh giác vậy thôi, nó đuổi chứ có đánh đâu, nếu nó đánh thằng Dũng chạy lên trời cũng không thoát. Mày coi chừng bị trả quả cho coi.

       - Nhân với chả quả. Mày yên cho tao nhờ cái coi.

   Dữ như ong Lỗ mà Bảy Bền còn trị cái một thì ong Mật là nguồn thu tuyệt vời nhất mà Bảy có. Thời nào cũng vậy gian trá luôn đi kèm. Thấy một thằng chở mật trong rừng ra, mật còn nằm trong vĩ sáp hẳn hoi mà vẫn cứ là nước đường. Chỉ mật của Bảy là tuyệt đối không pha. Và  nguyên chất luôn có giá của nó. Đại gia nào muốn có mật tốt cứ gặp Bảy. Ai mua mật muốn biết thiệt chơn cứ đưa cho Bảy. Ba cái vụ thử lá hành không đáng tin bằng cái lưỡi của chính chúng ta. Mật ong là tinh tuý của hương hoa đương nhiên nó phải nhẹ hơn mật của đường. Một chai mật ong bọn gian trá luôn cho mật thiệt nằm trên. Muốn thử ta rót ra chén. Mật ra trước trong lưỡi ta có vị khác mật giữa chai. Chả một thằng bán mật gian manh nào qua được Bảy.

       Thiên hạ rừng X gọi Bảy là chúa không ngoa tí nào hết.

       Và chúa chết vô cùng thảm khốc.

                                                                                  ***

       Ngày nay hầu hết dân X vẫn còn kể cho nhau và con cháu nghe về cái chết của Bảy Bền. Quả ông bà dạy sinh nghề tử nghiệp không ngoa tí nào hết. Ăn ong lên đến hàng sư như Bảy mà vẫn không thoát sự truy sát của thần rừng. Ai từng mục kích và tham gia chôn cất Bảy Bền đảm bảo tin rằng rừng có thần.

    Mùa Ươi tàn. Dân mây tre trở lại nghiệp chính, tuy vậy vẫn còn một số kiếm cú chót trước khi mùa mưa đến. Những năm tháng ấy rừng còn nhiều nên thời tiết rất ổn định. Giữa tháng ba âm lịch dân nương rẫy đã xuống giống đón mưa, và chắc ăn là chỉ ba ngày sau khi xuống là cây mưa đầu mùa đến tức khắc.

     Hôm ấy thằng Đen chạy về hào hển nói vOi Bảy Bền:

      - Chú Bảy ơi… tui đi mót Ươi gặp một tổ ong Thế to lắm.

      - Ở đâu?

      - Nó đóng tổ trên một cây Ươi ở đồi Tượng.

      - To cỡ nào?

      - Bằng cả tấm chiếu chú ơi. Tui đang lượm nghe ù ù trên đầu, sợ quá chạy về báo cho chú hay 

      - Mày dẫn tao đi lại chỗ đó coi.

    Ngay chiều hôm ấy Bảy Bền theo xe về xuôi. Hôm sau có mặt tại hiện trường thêm thằng em vợ tên Bằng và một đệ tử tên Hoà. Thường thì khi lấy Ươi có thêm Minh Tàn là đủ bộ tứ. Nhưng gì chứ ăn ong thì không có tên Minh. Theo Bảy Bền thì chẳng qua Tàn ta sợ ong đánh nên lên giọng chứ đạo đức cái con mẹ gì thằng tù đó:

       - Mẹ nó – Bảy Bền nói – nó tù thì chớ còn từng làm trong lò mổ heo. Trâu mà nó con lột da sống bằng lưỡi câu  nữa kìa.

    Nói xong ba thày trò lên đường, Đen theo luôn cho đủ bộ:

       - Mày cứ ngồi yên dưới gốc coi tụi tao làm, về tao cho mày năm lít. Được chưa?

     Trước khi nện đinh thép vào thân cây Bảy Bền đốt sáu cây nhang đại. Nhang đại dài tám mươi phân to bằng ngón tay cái. Bảy dắt vô dây lưng ba cây, ba cây còn lại giao cho ba đệ tử. Trước đó bầy ong nghe động đã thả rơi tự do từng tảng ong xuống đầu bộ tứ rồi bay lên nghe ù ù như tiếng máy bay. Vậy mà không biết trong mấy cây nhang Bảy pha chế cái chi mà bầy ong không dám lao xuống. Chúng chỉ bay đen ngòm và đặc sệt bên ngoài ù ù ù ù nghe vô cùng kinh rợn. Không kinh nghiệm lão luyện là đứng tim chết tại trận. Thăng Đen lần đầu nên mặt tái như chàm đổ. Không có cái tỉnh khô của Hoà và Bằng là nó bỏ của chaỵ lấy người.

      Cứ thế Bảy nện đinh đến đâu lần lên đến đó bằng đai lưng trèo trụ điện. Bầy ong tuốt trên cao ù ù hâm doạ chả làm Bảy động tâm. Đóng đến cây đinh thứ ba mươi, nghĩa là độ cao áng chừng mươi lăm mét thì sự cố đến.

  • Trợt chân chăng?
  • Không.
  • Dây thắt lưng bị đứt?
  • Không. Dây cáp dù bẹ ba xịn đứt sao được.
  • Vậy thì cái gì?
  • Trời hại.

       Đúng lúc đó mây đen kéo đến và cây mưa đầu mùa của rừng Miền Đông nhanh chóng tràn qua. Trời hại hay thần rừng lấy mạng thì cũng như nhau. Mưa đủ để tắt sạch mấy cây nhang đại – cái mà – dùng để cho tất cả các loại ong hãi sợ hoàn toàn mất tác dụng. Về sau mấy thằng chuyên ăn ong kể rằng, thông thường khi mưa đến ong sẽ lui về để bảo vệ tổ và ong chúa. Nếu vậy thì Bảy Bền đủ thời gian để tuột xuống và chạy. Nhưng không hiểu sao bầy ong ào vào Bảy và tấn công. Hàng tỷ con ong Thế. Loài ong mật dữ như gấu ngựa, con nào con nấy to bằng ngón tay út tha hồ đánh kẻ đang phá nhà mình. Ba thằng dưới gốc hãi quá ba chân bốn cẳng tuôn theo đường mòn chạy về chòi.

    Sau cây mưa toàn thể thợ rừng ngồi ở chòi nghe báo cáo sự thể. Không một thằng nào dám lên hiện trường xem Bảy sống chết ra sao. Mẹ ơi có nghề có cả đồ nghề còn chết nói chi tay không. Tài xề chở lồ ồ về xưởng báo ngay cho đại gia Sáu. Sáu báo lên chỉ huy lâm trường. Ngày hôm sau các quan rừng và vợ cùng hai đứa con của Bảy có mặt. Cũng chả ai dám thâm nhập hiện trường. Lúc đó đại gia Sáu mới nhớ đến Minh Tàn.

     Minh Tàn đang chăm bà xã hắn ở bệnh viện. Đại gia Sáu phải nhờ môt hộ lý chăm lo người bệnh rồi đưa Tàn lên rừng bằng Min khơ 125 phân khối. Minh đến ngay hiện trường không một chút sợ hãi. Về sau hắn nói với anh em rằng sau hai ngày một đêm cái xác đã lạnh giá. Ong là loài thanh khiết và tinh khôn. Bằng chứng là nó chỉ giết kẻ phá mình chứ tha cho ba thằng ăn theo. Chúng mà cố tình thì cu Đen, Hoà và Bằng lên trời cũng không thoát. Xác chết đã nặng mùi tử khí nên đàn ong phải ra đi.

    Đưa cái xác của Bảy xuống là một kỳ công của Minh Tàn.

    Và rất ngoạn mục.

    Những sợi dây trên những chiếc Zin 130 dùng để cảo cứng lồ ô trước khi rời rừng được tập trung. Tàn nối một sợi dài thăm thẳm rồi theo nhưng ngọn đinh trên cây ươi cứ thế leo lên. Tất nhiên là cũng đai lưng tử tế. Đến bên Bảy Bền, Minh Tàn cột một đầu dây vào lưng anh ta. Lấy cái túi dết đựng đinh và cây búa. Minh tiếp tục nện đinh vô thân cây lên đến cái nhánh mà cái tàng ong trắng như hoa bưởi đang tại vị. Nó to bằng tấm chiếu là có thật. Minh cột sợi dây vào nhánh cây rồi lại bò xuống chỗ xác chết. Hắn ta rút trong túi dết ra một lưỡi dao, thọc mũi nhọn vào cái đai lưng của Bảy Bền. Đai lưng đứt và Bảy Bền tòng teng bởi sợi dây được cột chặt bên trên.

    Thật khủng khiếp.

    Một người chết đang lơ lửng trên không.

    Minh Tàn lại trèo lên nhánh cây. Tháo sợi dây đưa xác chết từ từ xuống đất và Bảy Bền lên xe Jin về nhà để ra nghĩa địa.  

                                                                                                                            N.T      

 

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *