CHÙM THƠ VIẾT DÂNG MẸ CỦA NHÀ THƠ LÊ VĂN VỴ-ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG THƠ HỘI VHNT HÀ TĨNH
THƠ LÊ VĂN VỴ
VỪNG
Ký ức tuổi thơ con cơm trộn vừng vét cối, gói vào mo meo nhỏ dãi
Ký ức tuổi thơ con chờ mẹ chợ về hoe mắt, chút kẹo vừng gói trong lá chuối khô ẩm mốc, nhẩn nha Hạnh phúc vàng thơm
Bỗng bánh đa cả vòm trời quê hương
Ai rắc vừng thành triệu sao nhấp nháy
Con nằm trên chõng tre, ngửa mặt lên trời thấy
Một hạt vừng rơi, hai hạt vừng rơi…
Có hạt nào rơi xuống đất đai bờ bãi
Rớt xuống tuổi thơ con
Hóa thành lộc vừng bay
Bay vào giấc mơ
Trăng! Trăng lộc vừng!
Bè bạn nhớ không?
Vợt bọ vừng, vợt cả ánh trăng, cả tiếng cười vô tư của một thời trẻ nhỏ
Vớt cả được tháng ba hoa gạo cháy đỏ
Mẹ tra vừng thi ca xuống mảnh đất tâm hồn con
Giờ con tập rắc vừng lên từng trang viết
Liệu có hạt nào thảo thơm, mùa vàng đỡ đần cho mẹ?
MỌT
Tựa hồ kẽo kẹt võng đưa
Giật mình thức giấc giữa trưa oi nồng
Lặng nghe ri rỉ phía trong
Ruột kèo tim cột nhìn không thấy gì!
Gặm từ gan óc tứ chi
Nhấm từ xương sống từng li cột rường
Đêm về ngủ ở từ đường
Nghe mọt gặm chạnh lòng thương ông bà
Đại ngàn thăm thẳm non xa
Búa rìu chỉ một mình cha vào rừng
Mẹ giờ bạc tóc còng lưng
Nước mắt đã chảy thấm từng gốc cây
Chú hy sinh thuở chống Tây
Máu anh thấm đỏ rãnh cày đường thôn
U... ơ... gậm nhấm tâm hồn
Ngẫm ra mình mọt gặm xương cốt mình
ĐI QUA NỖI BUỒN
Năm báo tử anh
Mây trắng tuổi thơ tang tóc
Đêm liệm cha
Nhang khói mồ côi
Ngày vĩnh biệt em
Núi lở ngang trời
Ba hồn, bảy vía nỗi buồn
Về đây nhập lượm
Chôn sâu trong lòng
Hay hỏa táng ?
Còn lại nắm tro
Thả sông, thả bể
Vun cho đầy
Cây đắng
Nở hoa ?
Người nói với ta:
Đi qua nỗi buồn bằng nước mắt
Những trận mưa nước mắt hồi sinh cánh rừng sau lửa tình yêu thiêu trụi
Những giọt nước mắt lăn xuống nấm mồ người thân nẩy mầm xanh cỏ
Giá mà ta được khóc
Ta đã nuốt đá, ngậm sỏi, trừng mắt xuyên đêm tối
Cõng con băng qua bãi tha ma
Cả núi đá đè lên lưng, lên ngực.
Ta tru lên như sói rừng hoang
Hát khúc ca lá ngón
Liếm vết thương bằng nước bọt chính mình
Đam mê bước qua nỗi buồn
Sóng thời gian khỏa lấp
Xóa những vết chân hằn trên cát
Những vết thương lòng
Lên sẹo đất đai
Cảm ơn Thơ đã chở ta về tuổi thơ lãng quên ở quê mà hồn đau xa xứ
Cảm ơn mẹ mỗi chiều phên liếp chở che
Cảm ơn em
Đã là chiếc mỏ neo cắm thuyền ta giữa dông bão đảo điên...
Đã có lúc
Vịn vai em vượt thác buồn phiền...
BẠN MẸ
Chiều run lạnh tê tiếng trống
Bần thần mẹ khóc: Bạn đi!
Nhìn vào khoảng không vô vọng
Nhắc con nghĩa tử hết lòng
Mẹ ngồi nhai trầu đến sáng
Thương người nước mắt vào trong
- Hắn nỏ* nhông** con chi hết
Đời toàn lận đận long đong
Kháng chiến dân công hỏa tuyến
Huân chương rạng rỡ danh người
Trở về làm nghề giữ trẻ
Quá lứa lỡ thì, đơn côi…
Rồi khi cao trào hợp tác
Xung phong bạt núi, xẻ đồi
Xin được đứa con chăm bẵm
Lá còn tơ nõn đã rơi!
Bạn bè mời về nhà ở
Chẳng muốn làm phiền lôi thôi
Lưng còng, một mình một bóng
Lắm khi tắt lửa, tối trời
Thương bạn nói chi nhiều lời
Lo toan chăn màn, quần áo
Gạo, cơm, cau thuốc, trầu vôi
Phận bầu ôm phận bí thôi!
Năm ngoái tết còn lởi xởi
Mà nay lạnh lẽo chân đồi
Cuộc đời như mây, như gió
Giật mình buồn chiếc lá rơi
* Nỏ: Phương ngữ có nghĩa: Không;
** Nhông: Chồng
NGÀY MỒNG 8 THÁNG 3 CỦA MẸ
Thời con gái, mẹ buộc ngày mồng 8 tháng 3 trên bím tóc
Rồi lấy chồng, sinh con, xoay tròn ruộng đồng, lợn gà, bếp núc
Hoa chanh, hoa bưởi tặng vật của vườn
Hoa sim, hoa mua tím biếc sườn non
Cứ nở vô tình, cứ thơm vô tình hình như không biết
Mẹ nâu sồng bùn đất lẫn vào trong bùn đất
Rạc thân cò
Bươi đất, lật cỏ, rau cháo xanh xao, ngày 3 tháng 8;
Ngày 3 tháng 8, đeo đẳng mẹ suốt cả một đời
Dai như đỉa đói
Chúng con lớn lên, có tất cả ngày vui
Con trai mẹ, ngày mồng 8 tháng 3 lo tổ chức cho chị em phụ nữ cơ quan
Dâu mẹ với bạn bè đi liên hoan
Cháu trai mua hoa tặng người yêu
Cháu gái nhận quà người yêu tặng
Mẹ một mình ở nhà xoay tròn với lợn gà bếp núc
Rồi ra ngóng cửa chờ con
Chúng con no say, quên mẹ - Người phụ nữ duy nhất
Không có ngày mồng 8 tháng 3.
THƯA MẸ
Con đi công tác xa nhà
Phiền lòng một nỗi mẹ già sao đây!?
(Tuổi già như chuối chín cây
Như trứng đầu gậy, lắt lay ráng chiều)
Chẳng mang được mẹ đi theo
Con xin thưa mẹ mấy điều sau đây:
- Con xin gửi mẹ mấy ngày
Tạm nhà chị gái đủ đầy yêu thương
Em lo rải chiếu, quét giường
Chị lo cơm nước, ngày thường trầu cau
Động trời trở chứng mẹ đau
Cậy cô y tá ở sau nhà mình
Tuổi già đau mỏi thần kinh
Thuốc con gói sẵn, dễ tìm đó thôi
- Ở nhà ngoan nhé mẹ ơi!
Cầu thang đừng bước, sau hồi đừng đi!
LÚC NĂM GIỜ SÁNG
Tất cả còn ngủ say
Mẹ đã xuống giường không sai một phút
Bất chấp lạnh lẽo ngày đông
Bất chấp nóng nực ngày hè.
Con nghe tiếng mở cửa
Bước chân run run xuống bếp
Tiếng phù phù thổi lửa
Hăng hăng mùi khói rạ rơm
Rồi vo gạo nấu cơm
Vò chè xanh, hãm nước
Cháo đứa trẻ
Cơm đứa lớn
Mâm bàn bát đĩa tinh tươm
Chúng con vội vàng
Nhoáng nhoàng
Ăn sáng
Đưa đứa lớn đến trường
Đứa bé dúi vào tay mẹ
Một tay mẹ bế cháu
Một tay dọn dẹp mâm, bàn, bát, đĩa
Lo bữa trưa
Như đã lập trình
Chột dạ, nghe mấy cô cơ quan “buôn chuyện” Ôsin
- Nhà ông Vỵ có Ô sin đặc biệt: Không lương, không đánh cắp, ăn vèn…
Con ở với mẹ thành Vua
Mẹ ở với con, thành Ô sin
Ai chưa tin
Dậy lúc 5 giờ sáng
VỚI MẸ
Bộn bề công việc quanh năm
Chưa ngơi một phút để chăm mẹ già
Sáng nay chủ nhật ở nhà
Tay con đun nước pha trà mẹ xơi
Con mua mấy quả cau tươi
Hái trầu cho mẹ tra vôi vào bình
Một đời tận tụy hy sinh
Miếng ngon nhường nhịn, nghĩa tình mẹ trao
Chắt chiu gom góp từng hào
Quý từng củ sắn cọng rau mẹ bòn
Sáng nay con lại thổi cơm
Rồi con giặt chiếu, quét giường dọn chăn
Rồi con kể chuyện ân cần
Quanh đôi mắt mẹ âm thầm lệ rơi
Giật mình con tuổi bốn mươi
Đi tìm vui thú ở nơi hội hè
Lắm tham vọng, lắm đam mê
Kiếm tiền cứ ngỡ mang về là vui
Biết đâu hạnh phúc ở đời
Được ngồi bên mẹ, thảnh thơi chuyện trò
CÕNG MẸ ĐI CHƠI
Đôi chân run lẩy bẩy
Không bước được nữa rồi
Thôi để con cõng mẹ
Lên lăng Khải Định chơi
- Sao không đi kẻ Mỏ*
- Sang hàng xóm ăn trầu?
- Lại đánh đường vô Huế
- Quan lại đẩu đầu đâu!
Đưa mẹ xuống sông Hương
Nghe đàn ca sông nước
- Tai tau** điếc cả rồi
- Chỉ chộ*** mấp máy môi
Thì đi nhìn Đại Nội
Rồi đến cầu Trường Tiền
Trời chang chang nắng gắt
Bỗng mưa xối ngả nghiêng
Đưa mẹ về Nhật Lệ
Ăn cua, ghẹ dưới thuyền
- Răng tau rụng trơn trụi****
Thèm nhỏ dãi mà thương…
*Kẻ Mỏ: Trang trại hợp tác, ngày xưa mẹ sản xuất
**Tau: Tao;***Chộ: Thấy; ****Rụng trơn trụi: Rụng hết
VÍA
Bát cơm, hạt muối, cái dần
Mẹ chao hồn vía cái lần con rơi
Để cho con được thành người
Qua bao sợ hãi,đường đời gian lao
Anh trai chết trận từ lâu
Nén nhang mẹ thắp nguyện cầu tâm linh
Ba hồn, bảy vía nhẹ tênh
Về đây nhập liệm, trái tim vỡ oà
Đó là ngày vĩnh biệt cha
Hú hồn, lạc giọng con ra bần thần
Đau lòng cách biệt dương âm
Được an ủi, vía người thân trở về
Nhập vào ngọn cỏ ven đê
Nhập vào ruộng lúa, bờ tre vườn nhà
Con mang hồn cốt ông bà
Con mang vía của ruột rà quê hương!
CỤ MẸ, CỤ CON
Bạn mừng:
- Ông đã hưu rồi
Hạnh phúc còn mẹ
trên đời
khát khao
Mẹ tôi trắng tóc hoa lau
Còn tôi
tóc trắng nhuốm màu thời gian
Hôm nay chùa lễ Vu lan
Tôi đưa cụ mẹ vào làng đi chơi
Gặp ai cũng nhỏn nhoẻn cười
xin mời hai cụ vào xơi miếng trầu
..........................................
CẮT MÓNG CHÂN CHO MẸ!
Đưa mẹ về, từ Huế
Tạm nghỉ ở Đèo Ngang
Trưa trời nắng chang chang
Cắt móng chân cho mẹ!
Móng: Điếc thời còn bé
Móng: Nứt nẻ trên đồng
Móng: Chiều có, tối không
Thời dân công hỏa tuyến
Móng: Bay vèo theo máu
Khi bom Mỹ sát thương
Móng: Rơi ở dọc đường
Lần cháy nhà cứu nạn
Ôi móng chân số phận
Xa xót những mất còn
Còn lại ba móng chân
Cong queo và dị dạng
Nhọn như là vuốt sắc
Nung lửa trời, lửa đời
Tôi băng giá cõi người
Kéo đụng vào cong lưỡi
MẸ ƠI!
Con tìm khắp chốn khắp nơi
Mẹ ơi, sao mẹ ba mươi chưa về?
Mồ côi tết nữa tái tê
Lòng con hoa mận ngoài kia trắng vườn
“MẸ MỖI CHIỀU PHÊN LIẾP CHỞ CHE”
(Đọc tập thơ: “Thưa mẹ” của Lê Văn Vỵ)
NGUYỄN THANH TRUYỀN
Tôi muốn bắt đầu những suy cảm của mình về hình tượng người mẹ trong thơ Lê Văn Vỵ từ câu “Cảm ơn mẹ mỗi chiều phên liếp chở che” rút từ “Đi qua nỗi buồn” – bài thơ mang chở rất nhiều gửi gắm của tác giả. Cõi vô thường đa sự, phận người thi sĩ đa đoan, bước qua những nỗi buồn đau của kiếp nhân sinh là hành trình đầy gian nan qua giông bão. Khi "Những vết thương lòng/ Lên sẹo đất đai" là lúc nhà thơ nhận thấy thật rõ những điều kỳ diệu đã giúp mình vượt qua những thử thách quá sức chịu đựng. Đó chính là thơ, là mẹ, và em: "Cảm ơn thơ đã chở ta về tuổi thơ lãng quên ở quê mà hồn đau xa xứ/ Cảm ơn mẹ mỗi chiều phên liếp chở che/ Cảm ơn em/ Đã là chiếc mỏ neo cắm thuyền ta giữa giông bão đảo điên..." Trong hành trình dài rộng của cuộc đời mình, cùng với thơ và em, Lê Văn Vỵ may mắn luôn có "mẹ mỗi chiều phên liếp chở che"... Người mẹ bình dị, thân thương, cao cả ấy đã hiện diện trong những trang thơ được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn...
Tính đến nay, Lê Văn Vỵ đã xuất bản gần chục tập thơ. Hầu hết những tập đã xuất bản đều là những tác phẩm tươi mới, gom lại từng chặng sáng tác. Tập "Thưa mẹ" (Nxb Văn học, 2014) có điểm khác, bởi nó mang dáng dấp của một thi tuyển, tập hợp những bài thơ từng xuất hiện trong các tập trước đây cùng một số bài mới viết. Gom tất cả những nỗi niềm, những suy tư suốt bao năm về mẹ, liên quan đến mẹ thành một "lời thưa"/ "lời khoe"/ "lời báo hiếu" của “cục cưng” với mẹ, tập thơ là nơi khắc tạc chân dung tinh thần của mẹ, thể hiện tập trung tình cảm sâu sắc với bậc sinh thành đồng thời bộc lộ nhiều suy tư sâu sắc của nhà thơ về tình mẫu tử, về những giá trị trong cuộc sống.
Những bài thơ về mẹ của Lê Văn Vỵ được hình thành từ những cảnh ngộ, những thời gian và không gian cụ thể của ngày thường. Vì vậy, hình ảnh mẹ hiện lên rất thực, với những "chở che" rất đời. Đó là người mẹ đầy lo toan, tảo tần vất vả ngược xuôi, thức khuya dậy sớm vì chồng con, cháu chắt. Dẫu bước chân mưu sinh chen giữa lao xao chợ đời, giữa bao nhiêu rẻ, đắt, thật, giả... mẹ vẫn luôn mang theo những ưu tư nặng trĩu "Mẹ chen vào chợ ưu tư/ Toan với tính mệt lừ đừ lao đao/ Chiều chồng một nhúm thuốc lào/ Thương con kẹo lạc gói vào lá khô" (Mẹ đi chợ). Khi con đã thành gia thất, ở cùng con, mẹ lại làm phên liếp cho con yên tâm bươn chải: "Tất cả còn ngủ say/ Mẹ đã xuống giường không sai một phút/ Bất chấp lạnh lẽo ngày đông/ Bất chấp nóng nực ngày hè/... Chúng con vội vàng/ Nhoáng nhoàng/ Ăn sáng/ Đưa đứa lớn đến trường/ Đứa bé dúi vào tay mẹ..."(Lúc năm giờ sáng). Đó cũng là người mẹ từng trải nhiều lam lũ, chịu nhiều hy sinh mất mát cõi người. Phên liếp ấy đã từng xông pha, từng vững vàng che chắn, cũng từng chịu biết bao gió mưa giông bão. Nhìn bàn chân mẹ tuổi già nhúc nhắc lệch bước, càng thương mẹ càng thấm thía những nỗi niềm riêng chung mẹ từng trải qua: "Đôi bàn chân đi qua cuộc chiến tranh/ Ròng ròng máu chảy/ Đi qua những con đường chông gai/ Bầm dập/ Chéo chồng vết xước/ Theo xe tang ra bãi tha ma/ Nặng trĩu lê lết buồn..." (Bàn chân mẹ). Thấu hiểu tình yêu thương vô bờ mẹ dành cho mình (Con đã về đây mẹ ơi!/ Mẹ tất tưởi chạy ra ôm cục cưng của mẹ - Quà cho mẹ), anh cảm nhận được những buồn phiền đớn đau của mẹ khi mình lâm vào biến cố: "Thương con vừa đổ bệnh/ Mẹ xa xổm không yên/ Đêm vịn giường nghe ngóng/ Ngày hiu hắt buồn phiền// - Lạy con đừng bỏ mẹ/ Ở trần gian một mình// Linh thiêng từ lời mẹ/ Trời đất bỗng lặng thinh"(Lạy con...). Từ đó, anh cũng chạm được vào nỗi niềm sâu kín của mẹ khi trao mẹ tiền tuất liệt sĩ hàng tháng: "Anh mất rồi vẫn còn nuôi mẹ/ Hồn thiêng luôn phù hộ độ trì/ Cứ hàng tháng nhận tiền liệt sĩ/ Mẹ thẫn thờ, nước mắt tràn mi" (Mẹ); và khi dắt mẹ đi tìm người anh hy sinh trong kháng chiến: "Con đã theo tàu, theo xe/ Dắt mẹ đi hết Thừa Thiên, Quảng Trị/ Con đã đưa mẹ đến bao nghĩa trang liệt sĩ/ Hàng hàng mộ chí vô danh// Gặp những người mẹ tìm con, vợ tìm chồng, em tìm anh/ Chung một bầu tâm sự/ Thắp nén nhang, vái bốn phương trời, vốc nắm đất nơi nghĩa trang cho vào lọ sứ/ Mẹ ôm về an ủi hồn thiêng"(Mẹ). Bằng những bài thơ được viết nên rất tự nhiên như những dòng nhật ký, từ những rung cảm chân thành, tác giả đã dựng nên bức tranh sinh động về cuộc đời, số phận của bậc sinh thành "Một đời tận tụy hy sinh..."(Với mẹ).
Viết giữa ngày thường, nên thơ về mẹ của Lê Văn Vỵ không có dấu vết của hư cấu, thậm chí nhà thơ cũng không dụng công trau chuốt câu chữ. Sở hữu tư chất của một người làm báo, Lê Văn Vỵ làm thơ (anh hay dùng chữ "viết thơ") rất nhanh, không ưa dần dà ngâm ngợi, kể lể. Có cảm giác bất kỳ tình huống nào, cảnh ngộ nào, sự việc nào cũng gợi lên trong con mắt thi sĩ những liên-tưởng-thơ, lúc ấy giấy bút hay bàn phím chỉ còn việc lưu lại. Sự mẫn cảm trời cho giúp anh phát hiện rất nhanh vấn đề, phát hiện rất nhanh chiều sau/chiều sâu của những sự việc, vậy nên những dòng thơ tốc ký ấy đồng thời cũng mang chở, gợi lên những suy nghĩ, liên tưởng sâu xa. Anh viết về chuyện cắt móng chân cho mẹ, viết về bàn chân mẹ, về những nỗi niềm của mẹ khi nghe tin bạn già của mẹ mất, rồi viết về ngày mùng 8 tháng 3 của mẹ, về lời dặn của mẹ khi liệm cha, về chuyện cõng mẹ đi chơi, mua quà cho mẹ khi đi công tác xa về, chuyện mẹ cầu vọng lúc con bất ngờ nhập viện,... về cả cảm giác đau đớn lúc mẹ hờn giận bỏ cơm. Thơ về mẹ của Lê Văn Vỵ là tiếng nói của những rung cảm nội tâm nhạy bén, của những ngẫm suy trăn trở. Hầu hết những rung cảm đều dẫn ngay đến những ngẫm suy. Nhà ở cạnh quốc lộ, trước đây là quãng đồng mênh mông, đêm về muỗi bay như trấu, anh mua vợt muỗi, quạt cây... nhưng mẹ già không nhớ nổi cách sử dụng những thứ tiện nghi ấy; vô hình trung khiến mẹ trở thành người canh đồ vật. Để rồi khi mẹ lên cơn sốt vì “sống chung với muỗi lâu nay” con mới ngẫm thấy: "Nghĩ bỏ phố về với mẹ/ Huênh hoang hiếu nghĩa đủ đầy/ Nào là màn tuyn, vợt muỗi/ Nào là quạt cây, giường tây// Sáng gió, chiều mây, no say/ Một mình mẹ canh đồ vật/ - Muỗi chưa tha tao đi mất!/ Ngộ ra dẫu muộn còn may" (Ngẫm). Ngày mùng 8 tháng 3 lại được Lê Văn Vỵ đặt trong trường liên tưởng với thành ngữ “ngày ba tháng tám”, thành ngữ gợi nỗi ám ảnh về cái đói của người nhà quê lam lũ. Những người phụ nữ từng quanh quẩn với cái ăn cái mặc, với những lo toan muôn thuở thì để ý gì đến ngày mùng 8 tháng 3. Cuộc đời mẹ cũng thế. Điều Lê Văn Vỵ viết nên trong thơ sẽ khiến không ít người làm con phải giật mình: "Chúng con lớn lên, có tất cả ngày vui/ Con trai mẹ, ngày mùng 8 tháng 3 lo tổ chức cho chị em phụ nữ cơ quan/ Dâu mẹ với bạn bè đi liên hoan/ Cháu trai mua hoa tặng người yêu/ Cháu gái nhận quà người yêu tặng/ Mẹ một mình ở nhà xoay tròn với lợn gà bếp núc/ Rồi ra ngóng cửa chờ con// Chúng con no say, quên mẹ - Người phụ nữ duy nhất/ Không có ngày mùng 8 tháng 3" (Ngày mùng 8 tháng 3 của mẹ). Với mẹ, Lê Văn Vỵ luôn canh cánh về bổn phận, về đạo hiếu: "Người làm ông lớn bà to/ Mình làm con mẹ phận lo chưa tròn"; "Xế chiều chưa trọn một câu thảo hiền". Nên những sự việc thường ngày thường khuấy lên trong anh những trăn trở nội tâm, những nỗi niềm day dứt tự vấn: "Giật mình con tuổi bốn mươi/ Đi tìm vui thú ở nơi hội hè// Lắm tham vọng, lắm đam mê/ Kiếm tiền cứ ngỡ mang về là vui// Biết đâu hạnh phúc ở đời/ Được ngồi bên mẹ, thảnh thơi chuyện trò" (Với mẹ). Chạy theo chức tước, bổng lộc người đàn ông trong con đã bao lần tỏ ra tận tụy với cấp trên, sẵn sàng vào bếp nấu món ngon, hãm chè xanh cho sếp thưởng thức, để rồi có những khoảnh khắc lúc thảnh thơi nghĩ về mẹ: "Con hờ, con hững... trời ơi!/ Năm nay mẹ đã chín mươi tuổi rồi/ Sao con không hãm chè tươi/ Không xuống bếp, nấu mẹ xơi một lần?!" (Tự vấn). Câu tự vấn kia rất thành thật, và có lẽ cũng nói thay cho không ít người con.
Những ngẫm suy từ/về đạo hiếu, từ/về tình mẫu tử (một trong những giá trị nhân văn cao đẹp nhất, thiêng liêng nhất) trong thơ về mẹ của Lê Văn Vỵ nhiều khi nảy sinh trong những nghịch lý, gợi lên những triết lý có giá trị phổ quát, những nỗi niềm thế sự sâu sắc. Những bài thơ như thế đã mở rộng ý nghĩa của hình tượng người mẹ, mở ra nhiều liên tưởng ở người đọc. Câu hỏi sau mùa gặt này là một ví dụ: "Mẹ sàng sẩy mùa màng/ Hay mùa màng sàng sẩy mẹ?" Và đây là cái kết của bài "Lúc năm giờ sáng" - bài thơ viết về chuyện thức khuya dậy sớm của mẹ: "Con ở với mẹ thành vua/ Mẹ ở với con, thành ôsin/ Ai chưa tin/ Dậy lúc năm giờ sáng". Nghịch lý hiển hiện như sự thật ở đời ấy gợi thật nhiều suy ngẫm! Vấn đề mà bài thơ "Vô đề" sau đây gợi lên chắc chắn không còn là tình mẹ: "Con làm nghề dạy học/ Khách đến, mẹ chào thầy/ Người lặng lẽ xua tay/ Kẻ bực mình tím mặt". Mẹ ở đây đã là hiện thân của những giá trị trong sáng vĩnh cửu, soi vào những giá trị ấy không ít kẻ có vẻ ngoài đạo mạo sẽ chột dạ khi nhìn thấy những lem luốc của chính mình! Biết nương vào sự chở che của "phên liếp" ấy, biết vịn vào những giá trị ấy, con người sẽ tự tin bước vững vàng giữa cõi người mông lung. "Đi" - một trong những bài thơ xuất sắc nhất tập, bộc lộ niềm tin vào điểm tựa thiêng liêng ấy: "Đã qua trăm núi ngàn khe/ Trăm sông ngàn biển, ơ kìa... vẫn run// Biết đâu là chốn tận cùng/ Ta đang lạc giữa mông lung cõi người// Ngỡ bay cùng ánh sao trời/ Đâu ngờ lạc xuống lối đời đa mang// Thênh thang cứ ngỡ đường quan/ Đâu ngờ luồn, lách, mưu toan, lết bò// Mẹ ơi chập chững ngày thơ/ Bây giờ bạc tóc dại ngờ tập đi// Đường thẳng là cái chi chi/ Vòng vèo vòng vẻo đến khi ngã lòng// Thôi đành đứng lặng mà trông/ Kìa bà bằng gối, đây ông bằng đầu// Đường trần trăm ngả lo âu/ Vịn lời ru mẹ... ngẩng đầu mà đi". Mượn hình ảnh người mẹ, nhà thơ gửi gắm được những thông điệp thế sự tinh tế mà sâu sắc, như trường hợp "Mẹ đi tái định cư" với những thi ảnh giàu sức ám gợi: "Bê tông lấn ruộng, chiếm đồi/ Làng quê/ Nguồn cội/ Đâu rồi…!?/ Khó tin…// ... Núi sông còn đó hồn thiêng/ Tâm linh phấp phỏng một miền giao thoa// Đầu làng bật gốc cây đa/ Giật lùi mẹ bước/ Mắt nhòa lệ rơi!" Cây đa bật gốc đầu làng và mẹ rơi nước mắt bước giật lùi là những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác động mạnh mẽ vào người đọc, cảnh báo tư duy chạy theo lợi ích thực dụng cần đi đôi với sự quan tâm đúng mức các giá trị văn hoá tinh thần. Cái chiêm nghiệm Mẹ mỗi chiều phên liếp chở che... có lẽ không chỉ có ý nghĩa tri ân của riêng nhà thơ với người mẹ của mình nữa, mà sẽ gợi lên những nhận thức, những ứng xử "theo quy luật của cái đẹp" (K.Marx: "Con người nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp."), của những giá trị nhân văn trong đời sống rộng lớn!
Tập "Thưa mẹ" của Lê Văn Vỵ đúng là một "lời thưa", điều đó thể hiện ngay trong tên tập thơ – lấy tên một bài trong tập. Còn nói là "lời khoe" của con với mẹ thì phải hiểu thế nào? Ai đã từng được gặp gỡ mẫu thân của nhà thơ, nghe bà lẩy Kiều, cất lên những câu lục bát dân gian cảm động mà sâu sắc/sắc sảo – rồi đọc những bài thơ tập hợp ở đây, sẽ hiểu ngay vì sao người viết lại hình dung Lê Văn Vỵ in tập thơ để "khoe" với mẹ. Mẹ có thể là người đọc/người nghe đầu tiên và khắt khe nhất với những vần thơ của anh từ thuở khởi sự viết lách và cả khi đã “sành nghề”. Khoe với một độc giả như thế, chẳng phải ai cũng đủ tự tin (và có may mắn)! Còn "lời báo hiếu"? Niềm vui sáng tạo của con cũng chính là hạnh phúc của bậc sinh thành đã "chắt chiu từ những ngày xưa" (chữ của Xuân Quỳnh), nhà thơ gom những niềm vui đó lại mừng mẹ vẫn vui vầy cùng con cháu: "Mẹ tra vừng thi ca xuống mảnh đất tâm hồn con/ Giờ con tập rắc vừng lên từng trang viết/ Liệu có hạt nào thảo thơm, mùa vàng đỡ đần cho mẹ?" (Vừng). Thưa hay khoe hay là báo hiếu trong trường hợp này của Lê Văn Vỵ đều là một, đều là thơ từ trái tim, đều là những "hạt thảo thơm" dâng lên Mẹ! Liệu đã là mùa vàng đỡ đần cho mẹ? Câu trả lời nhường cho những trái tim!