TRANG THƠ HOÀNG HỮU
Chân dung tự họa của họa sĩ, nhà thơ Hoàng Hữu
Hai nửa vầng trăng
Tình cờ anh gặp lại vầng trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một nửa
Trăng vẫn đấy mà em xa quá
Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên.
Nắng tắt đã lâu rồi, trăng thức dậy dịu êm
Trăng đầu tháng có lần em ví
Chữ D hoa như vầng trăng sẻ nửa (*)
Tên anh như nửa trăng mờ tỏ
Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời.
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào trên cỏ ướt
Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào khác được
Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát
Em đã khóc
Nhưng làm sao tới được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng.
Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh
Cứ một nửa như đời anh, một nửa
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ…
Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.
8-1981
-----
(*) Hoàng Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Dũng
(Bài thơ “Hai nửa vầng trăng” được trao giải nhì cuộc thi thơ báo Văn Nghệ-HNV năm 1982)
Tháng Giêng, chiều đất bãi
Tháng Giêng, chiều đất bãi
Lượn thầm ven bờ đê
Đất màu đang vào ải
Đã lay phay mưa về.
Giờ này ngoài chân tre
Măng thầm thì mở đất
Sóng à ơi bãi mật
Đấy lời ngô bồng con (*)
Đất hồng hào bến sông
Em ra lò gạch chín
Cánh buồm vừa đến hẹn
Vẫn nâu sồng sắc quê
Rét ngọt chừng chưa qua
Tần ngần trong ruộng mía
Còn băn khoăn chi nữa?
Cây đã đầy mật thơm.
Cành gạo cao đầu thôn
Vẫy người đi trả phép
Nhấp nhô như lộc biếc
Xanh xanh chiều tháng Giêng
Lặng thầm trải bao đông
Xoan gầy như dáng mẹ
Rễ tảo tần chắt nhựa
Thương dồn lên búp non.
Khói trầm trên mái rơm
Phải lời cha dặn dẽ?
Đất ông bà cội rễ
Suốt đời thương cháu con.
Bích Chu, 1975
-----
(*) Mượn chữ của Vũ Đình Minh
Mỉm cười trên giấy điệp
Dường như từ trăng kia các em xuống tắm hồ
Màu ngà ngọc tròn đầy da thịt
Dường như các em nở ra từ nước
Mát tươi tơ ngó ùa lên.
Suốt một ngày tay cuốc tay liềm
Giờ khỏa nước ngón xòe nõn búp
Trăng loáng chảy ướt ròng khuôn ngực
Chút ngập ngừng cong lẳn sáng bờ vai
Tay vin cành, hoa đấy, áo người đâu?
Cổ ba ngấn ngẩn ngơ chiều hương lúa
Màu đen thẳm tóc mây lại tỏa
Hương thầm thì mờ tỏ đêm sen.
Sóng dào lên sáng ánh tay em
Là vũ điệu dân gian của tảo tần bận mọn
Được buông thả hết mình cùng cỏ cây ngợi sáng
Được thật với chính mình nào dễ đâu em.
Họa sĩ dường nhập cuộc với thiên nhiên
Màu thuần phác đồng quê tươi mới mãi
Hồn dân dã tổ tiên trao gửi
Qua nét khắc mộc thô trên vân gỗ lượn bày.
Anh trân trọng truyền lên mặt giấy
Nét mỉm cười sau những giọt mồ hôi.
3-1981
Không đề I
Ngày không em chiếc ghế vẫn bên hồ
Thời gian chảy tháng ngày trên mặt đá
Lúc đến bên em, hồ thành xa lạ
Chuyện đời mình làm đá cũng ưu tư…
1974
Thị xã không em
Gửi Minh
Anh về. Phố xá lặng yên
Vườn thưa nắng rụng sóng im đáy hồ
Chiều xanh xanh đến thẫn thờ
Không em. Liễu cứ bên hồ đợi anh
Vĩnh Yên, 1974
Năm ấy hoa bìm
Xin bạn đọc quên điều đã đọc
Năm ấy hoa bìm tím thế này không?
Tôi chợt hỏi, hoa ơi đừng lạ nhé
Chiều xuống chạm ngọn cây thong thả
Lòng rưng rưng trước sắc thắm hoa bìm.
Trên đỉnh ngàn thước này tôi đâu ngỡ gặp em
Rừng thảng thốt hơi mưa hơi nắng
Hoa mỏng mảnh như xưa buông trên tầng đá xám
Ẩn chút buồn sâu kín mới phôi pha.
Ngỡ cánh hoa trong nhật ký đã khô
Dòng chữ khắc trên tường rêu phủ
Trời đăm đắm mười năm nguyên khung cửa
Sao còn lay động mãi cánh hoa bìm
Mây núi xòa chông chênh hơi rượu tan
Hoa thắm lại, chiều dễ gì tắt được
Câu thơ cũ đầy nguyên lại rót
Năm ấy hoa bìm tím thế này không?
Tam Đảo, 1976
Phong thư cuối ngày
Suốt tuần anh đau ốm
Em xa chưa kịp về
Cửa phòng thường chẳng đóng
Đếm tiếng bàn chân qua.
Cơn sốt vừa nguôi đi
Cây xòa vào cửa sổ
Nắng nguội nhòa mặt lá
Thoảng hơi may bên trời
Chừng biết anh trông đợi
Phong thư em cuối ngày
Lá chở chiều thu tới
Đậu xuống lòng bàn tay.
Trung tâm cấp cứu bệnh viện Việt Trì, 8-1981
Đêm ven sông
Đêm yên lành, đêm như bao đêm
Bếp nhà ai cay cay mùi khói
Ngọn lửa có điều chi như muốn nói
Với người nào xa lắm phải không em?
Ếch kêu hoài rộn rã một mùa chiêm
Lúa trăn trở ngoài xa đồng năm tấn
Con tu hú đang gọi mùa vào nắng
Nghe thóc vàng rực rỡ sân phơi.
Sóng ngoài xa cần mẫn đầy vơi
Lớp sóng đỏ nói những lời giản dị
Cả một đời phù sa không ngơi nghỉ
Vất vả yêu thương bên lở bên bồi.
Sau gian nan vẫn đều đặn tiếng còi
Tàu ngược xuôi đâu quên chào xóm nhỏ
Đêm ven sông bỗng sao mà thương nhớ
Nửa nước mình súng nổ sáng đêm thâu.
Đêm yên lành và đêm rất sâu
Thương đất nước mấy ngàn năm chưa nghỉ
Vẫn thao thức bình minh trong mắt ngủ
Hoa gạo bồi hồi cháy mãi một ven sông...
Chí Chủ tháng 4-1970
Ngọn gió qua làng
Có thể nào vùng đất bãi vắng em
Vắng ngọn gió qua làng không nhìn thấy
Thì anh biết làm sao hương thức dậy
Tự trong lòng hoa đi.
Nụ hoa xòe lấm tấm giêng hai
Hương chanh thức vườn nhà đêm trở rét
Bóng mẹ gầy, gió vào lay lửa bếp
Hương thầm len từng mũi kim khâu.
Gió qua làng, gió chẳng dừng lâu
Cũng phảng phất cái duyên đất ải
Nghe tiếng em, anh biết gió vòng qua mé bãi
Ngan ngát đường xoan hoa.
Tháng Năm, ngày dằng dặc lưng đê
Dây điện dăng dăng nở từng bông sứ trắng
Ngọn gió thổi những ngày hoang vắng
Về dạo đàn vui xóm đê ta.
Đến với làng gió lại đi xa
Đồng đất nhớ cái heo may, nhớ thế!
Sắp tết rồi lại xạc xào tiếng mía
Khói mật lò gió đến cũng thành hương.
Yên Lãng, 9-1973
Một vùng mía bãi
Sau bao ngày nhớ mong
Anh lại về đất bãi
Se se trời gió thổi
Thênh thang triền mía xanh.
Vắt ngang mùa heo hanh
Mía chật đường đá trắng
Nắng sau mưa chín ửng
Mát thơm mùi rượu cay.
Gặp gió đùa trong cây
Mách anh người hay hát
Ngọt lừ dao em chặt
Hương dâng đầy đôi tay.
Mùi men, mùi men say
Mía thơm ra tận vỏ
Theo em về cuối ngõ
Nón trắng chìm sau cây.
Ơn mật vàng lòng tay
Uống từng trưa nắng rát
Đất, em bồi ấm gốc
Lặng từng cơn bão tan.
Heo may chừng đằm hơn
Nối thêm từng đốt mía
Tối ngày em bóc lá
Tay bồi thêm lớp chai.
Nắng cuối chiều vàng khay
Lại xa miền đất bãi
Cầm tay, thương, chẳng nói
Ngọt ngào dăng bốn bên.
Vĩnh Thịnh, tháng 9-1976
Trống đồng trên đất đai truyền thuyết
Trống đồng sau lớp đất vùi
Vẫn ban mai một mặt trời đang lên
Nét cổ sơ vẫn tươi nguyên
Khi bay vút lại thanh mềm nét buông.
Vua tôi cày cấy ven sông
Con cò lặn lội bạn cùng hôm mai
Chày khuya thậm thịch đêm dài
Hội mùa trăng đã xế ngoài mái hiên.
Một thời trai gái trao duyên
Chiếc vòng tay với chiếc khèn làm tin
Đêm dựng nước sáng tiếng chim
Bay trên chớp lửa hót trên núi Hùng.
Một thời giặc giã khôn cùng
Trống đồng giục mũi tên đồng vút lên
Sóng tung lấp lóa chiến thuyền
Sông sâu từng đã nhấn chìm giặc tan
Chiêm mùa lúa cháy thành than
Đá thương người đá bồng con ngắm chồng.
Lưỡi gươm khắc tấm gương chung
Con voi phản phúc tìm dòng máu loang
Cho liền mạch đất cha ông
Mái tranh kề mái cây chung đất dầy.
Ơn người thợ khéo bàn tay
Ngày đêm tâm huyết dồn đầy nét hoa
Trải bao hưng phế chẳng nhòa
Nét ăn ở với cửa nhà riêng chung
Ngỡ trên mặt trống còn rung
Tiếng xưa xa vọng đền Hùng hôm nay.
Ngoài thung lúa chín như say
Kìa con chim lạc trắng bay trên đồng.
Đền Hùng, 1978
Mẹ tôi
Xe con qua làng cũ
Chẳng thể dừng mẹ ơi !
Vẫn con đường đất đỏ
Khói lên xanh chân đồi.
Đã sang năm thứ mười
Con chưa về gặp lại
Mẹ ơi! Vườn chè tươi
Lòng tay con thơm mãi.
Nhớ ngày con ốm dậy
Cơm chẳng có gì hơn
Mẹ kho niêu tép mại
Còn giã thêm cối vừng.
Con đã qua bao rừng
Mùa khô lòng suối khát
Lại thương giếng đồi mình
Nước sâu hơn chục thước
Chiếc cần chưa kịp buộc
Mẹ lưng còng, mẹ ơi!
Vị khói thơm chè đồi
Mãi đến giờ vẫn chát.
Từng có mùa đông rét
Đơn vị dời vào hang
Hơi đá lùa như cắt
Con dồn phân dơi đốt
Nồng cay mùi đạn khét
Khói lên không gặp trời.
Con cuộn tròn võng nhớ
Bếp trấu chiều mẹ ủ
Có còn thơm khói lên?
Qua rất nhiều đạn bom
Suốt dọc dài đất nước
Ở đâu con cũng gặp
Mẹ lặng nhìn đôi mắt
Ngời ngợi màu lửa quê.
Bền bỉ màu lửa quê
Thức bao đời giữ đất
Chiều nay làu bóng giặc
Như mọi chiều lửa thắp
Khói lên xanh chân đồi.
Khói lên, kìa mẹ tôi !...
10-1975
Trước cửa rừng
Trước cửa rừng anh bối rối nghĩ về em
Nơi sâu thẳm của muôn ngàn vang động
Nơi cửa mở màu xanh ra vô tận
Là thơ rừng anh viết cho em.
Rừng trong ngần tiếng suối, tiếng chim
Khi dìu dặt, khi uà ra bát ngát
Nghe rất trẻ như tiếng người gieo hạt
Cho sao lên xanh kín cả đêm rừng.
Anh như say tan lẫn giữa vô cùng
Giữa hương đất, hương cây từ độ ấy
Có bão giông tháng năm đọng lại
Hóa hương rừng vấn vít hôm nay.
Sắc biếc thầm thì chót vót ngọn cây
Là màu thắm muôn đời của đất
Mặt trời thổi cháy lên bát ngát
Màu xanh khát vọng đến muôn sau.
Rừng của em như gương mặt thẳm sâu
Mỗi mặt lá đều in hình mưa nắng
Mỗi ngọn gió đều thổi từ yên lặng
Tới mênh mông hóa những cánh buồm.
Đến với rừng, anh hiểu anh hơn
Bởi yêu em, rừng thành nỗi nhớ
Thành con dốc khi mồ hôi đổ
Thành cây dăng trước mọi bão bùng
Thành chân trời chim hót phía hừng đông.
Rừng Thanh Sơn - BV Việt Đức, 1970
Tiếng gà của mẹ
Làng tranh Đông Hồ ven sông Đuống (Bắc Ninh). Tranh gà Đại Cát là một trong những tranh tết thuộc dòng tranh dân gian ấy. Tranh vẽ và in trên giấy dó với màu thuốc cái được chế từ thiên nhiên: tán vỏ trai làm điệp trắng; than lá tre: màu đen; hoa dành dành: màu vàng; son đồi: màu đỏ... đã tạo nên được hòa sắc nhuần nhị và tươi sáng.
Việc bề bộn không về
Mẹ gửi cho quà tết
Có chú gà “Đại Cát”
Gáy trên nền điệp son.
Vẫn sắc mầu vẹn nguyên
Gợi một thời thơ bé
Sông Đuống trôi như thể
Điệp dăng dăng nét hồ.
Tre ngà chắc đang mùa
Mẹ góp gom từng lá
Than đen như mắt mẹ
Những ngày xưa hội làng
Lại nhuần từng nét vẽ
Lượn quanh màu son thơm.
Gió dằng dặc triền sông
Chiều chiều con ra bãi
Con thuyền chưa trở lại
Giấy dó làng Cao đợi
Điệp Đông Triều, mẹ ơi!
Sông Đuống vẫn đầy vơi
Nối hai mùa kháng chiến
Vườn dành dành con hẹn
Bao giờ cao ngang đầu
Mà chiều nay hoa nở
Trong mắt gà thẫm nâu.
Chẳng bao giờ quên đâu
Những miền quê dân dã
Khăn ai xanh hoa lý
Tóc ai vấn đuôi gà
Pháo ran bên Đồng Kỵ
Rượu nồng tăm làng Vân
Hội Lim còn để nhớ
Bút Tháp ngời hoa văn
Đã nhập hồn nghệ sĩ
Ánh ngời trên mặt tranh.
Đi suốt cuộc đời mình
Lòng mẹ thành câu hát
Bây giờ về bên con
Như tiếng gà Đại Cát
Sáng bừng chiều cuối năm.
Sắc màu từ tay mẹ
Lũ lượt vào hội xuân.
12-1976