LÀNG QUÊ CỦA MỘT HỒN THƠ
Nhà thơ Cựu chiến binh Trần Quang Quý từng tham gia chiến đấu ở Khu Bốn và trên chiến trường miền Tây Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi giải ngũ, ông đã trải qua nhiều công việc: Phóng viên, Tổng biên tập báo, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội... Ông từng nhận được một số giải thưởng văn chương uy tín, như: Giải nhì thơ tạp chí Văn nghệ quân đội; 2 lần đoạt giải thơ tuần báo Văn Nghệ; 2 lần được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam... và đặc biệt là Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2016...
Nhà thơ Trần Quang Quý trong một buổi giới thiệu sách mới của NXB Hội Nhà Văn.
Gia tài văn chương của Trần Quang Quý chủ yếu là thơ. Trần Quang Quý rất ít khi đăng đàn lập ngôn về thơ cách tân, thơ đổi mới hay thơ hậu hiện đại, tân hình thức, hiện thời plus... Có lẽ ông thích sống thơ, thở thơ, thức thơ và ngủ cũng thơ, hơn là cao đàm khoát luận về thơ. Ông có mối bận tâm của riêng mình trong tư cách một nhà thơ đích thực. Trong hầu hết các diễn đàn về thơ, Trần Quang Quý dường như chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về thơ mình. Thơ của ông hay, dở ra sao, thuộc khuynh hướng, trường phái nào là việc của công chúng tiếp nhận, của các nhà lý luận, phê bình văn học và thời gian. Chính ông đã từng chia sẻ: Tôi ăn ngủ chữ, tháp tùng chữ bước vào những số phận/ những ngóc ngách cuộc đời, những giao thoa chưa cất thành lời/ những cuộc phối sinh ngữ nghĩa/ và khi ấy, những con chữ như không còn là chữ/ hồn chữ thiên di/ vương quốc chữ tự do bay ngoài trang sách (Đời chữ).
Thơ Trần Quang Quý có một giọng rất riêng, khó trộn lẫn với bất cứ ai dù họ thuộc thế hệ nào. Phần lớn thơ ông có xuất phát điểm là tình yêu đã trở thành nỗi khát thèm thường trực với quê hương, đất nước; với những người nông dân cần cù, một nắng, hai sương, suốt đời bán mặt cho đất, bán lưng cho giời ở miền đất nghèo trung du Phú Thọ quê ông cũng như các miền quê khác, nơi ông từng có dịp đặt chân đến. Có thể nói cảm thức làng là mạch nguồn xuyên suốt trong các tập thơ của ông, như: Con đường chiều quê xiêu xiêu gánh rạ/ Thăm thẳm bờ đê dốc hun hút gió/ Cối trầu trong khuya cầm canh đèn đỏ/ Cựa mình hạt ơi!/.../ Ta nghe sương rơi ta nghe mưa rơi/ Mà nghe mẹ thở nghẹn từng âu lo (Hát gọi hạt giống). Hoặc: Lớp gạch già lõm mặt/ Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người/.../ Thế giới vào làng luồn mái tam quan/ Có bầy chim cắp mùa lên tổ/ Có những nỗi đời lót trong rơm rạ/ Có một nỗi lòng giắt một nỗi quê/.../ Cổ tích làng tôi đựng trong chiếc mủng/ Mẹ bưng tháng năm lệch ngõ/ Bưng những hạt thóc lép đi qua cơn gió/ Bưng những nỗi đời đi giũ ở bờ sông (Cổ tích làng) v.v...
Với một người suốt đời đau đáu nỗi làng, thương những người thân yêu của mình nơi làng quê, cũng như những người nông dân ở các làng quê Việt Nam khác như thương chính bản thân, thì thơ viết về làng của Trần Quang Quý không còn là thơ theo nghĩa thông thường nữa, mà là máu tim ông chắt ra, âu cũng là xương thịt làng của ông vậy. Làng và người nông dân sống ở những ngôi làng ấy trong thơ Trần Quang Quý, dứt khoát không phải là cái cớ hời hợt, thoáng qua, cho những kẻ si tình à ới thành câu, ghép vần, tạo nhịp.. Trái lại, làng và người làng, thực sự đã là một phần máu thịt của cuộc đời ông. Làng trong niềm vui được mùa, bưng bát cơm trên tay mà chan đầy mồ hôi và nước mắt. Làng bị quăng quật, bằm dập trong ngày ba tháng tám, khi giáp hạt, những lúc thiên tai nước trắng mặt người, nhưng muôn đời làng vẫn cứ tồn tại trong cái bản thể của nó. Người dân làng trong thơ ông là: Tất cả cùng hái gặt trên cánh đồng này/ Và cánh đồng đã gặt hái họ.
Làng trong thơ Trần Quang Quý vừa thân quen, gần gũi, mộc mạc, thuần phác như bao làng quê truyền thống của Việt Nam, vừa đầy thân phận. Viết về sức sống làng một cách có ý thức và bền bỉ hàng chục năm trời mà không hề ngẫu hứng, bột phát nhất thời, không bị lặp lại chính mình là một việc khó. Làng trong thơ Trần Quang Quý được nâng lên ở một tầm cao mới trong chiều sâu nhân bản của nó: Làng đã đóng đinh tôi vào cánh cửa/ Mỗi ngày khép mở giữa câu thơ. Hay: Cổ tích làng tôi đựng trong chiếc mủng/ Mẹ bưng tháng năm lệch ngõ/ Bưng những hạt thóc lép đi qua cơn gió/ Bưng những nỗi đời đi giũ ở bờ sông...
Rõ ràng làng trong thơ Trần Quang Quý không đơn giản chỉ là một vùng đất cho những người nông dân quần cư, rồi sinh con, đẻ cháu; cũng không đơn giản là một mẫu số chung chỉ về một số nét văn hóa nào đấy mà người ta có thể chỉ mặt đặt tên được. Làng trong thơ ông như một thực thể tồn tại có thân phận hẳn hoi, một thân phận tổng thể và tổng hòa những thân phận cá nhân và những mối quan hệ xã hội của những người nông dân Việt Nam được chưng cất lên từ hàng ngàn năm lịch sử và được định vị lại trong tấm căn cước vĩnh cửu qua thơ của Trần Quang Quý: Lớp gạch già lõm mặt/ Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người. Hay: Có những nỗi đời lót trong rơm rạ/ Có một nỗi lòng giắt một nỗi quê...
Vậy nên làng tồn tại trong thơ Trần Quang Quý không chỉ dừng lại ở cấp độ ý thức của một công dân làng, mà còn tồn tại cả trong vô thức của một thi sĩ sinh ra từ làng. Chính cái vô thức ấy mới là phần rường cột, căn cốt tạo nên một phong cách thơ mang đậm chất Trần Quang Quý mà chúng ta từng đọc. Theo ý kiển chủ quan của tôi, cảm quan làng, hình bóng làng, tâm thức làng và giá trị làng là tất cả những gì làm nên một Trần Quang Quý nghệ sĩ đích thực về làng và của làng. Có thể nói, không phải Trần Quang Quý làm thơ về làng mà chính làng làm nên thơ Trần Quang Quý.
Từ làng quê mở rộng ra đất nước. Người đọc bắt gặp những lần ngược miền Tây Bắc, nhà thơ cũng đầy hứng khởi, say sưa chia sẻ tận đáy lòng những buồn vui, cảm nhận của mình trước một thiên nhiên hùng vĩ của non nước Việt Nam: Nào rượu nào rượu, ta với sông Đà!/ Nâng một chén nghìn sau còn chảy (Uống rượu với sông Đà). Rồi: Vạm vỡ ngực núi/ Tây Bắc nắn ánh mắt ta thành những gợn sóng/ Tây Bắc nắn cảm giác ta xoáy những vòng váy lượn/ Em hây hẩy núi đồi/ Ngựa chùng chân quỳ gối/ Lam khói lên. Lam khói biếc ta rồi... (Nhớ một chiều Tây Bắc). Khi vào đến tận miền Tây sông nước Nam Bộ, Trần Quang Quý vẫn mang theo đủ đầy sự hứng khởi vừa vạm vỡ, vừa tinh tế của một tấm lòng sẻ chia, một tâm hồn nhạy cảm. Có thể nói trong thơ Trần Quang Quý, mỗi vùng đất, miền quê ông từng đặt chân tới đều có nhiều cái để ta đáng yêu, đáng quý, nhưng cũng không ít điều khiến nhà thơ phải suy tư, trăn trở. Với một nội lực sáng tạo như ông, ở đâu, cái gì cũng đều có thể trở thành đề tài cho vần thơ cất cánh và tỏa sáng.
Làng quê trong thơ Trần Quang tuy không mới, nhưng đã không lặp lại cảm quan thẩm mỹ nghiêng về tính chất ngợi ca; bởi ông đã nhìn thấy ở những người nông dân từ xa xưa cho đến tận hôm nay như một thực thể tồn tại trong sự vận động đa chiều với nhiều sắc màu của thân phận dưới một cảm quan thẩm mỹ mới. Đấy chính là nỗ lực vượt qua rào cản của cái cũ và vượt qua chính mình để Trần Quang Quý có được những thành công về thơ cách tân trên cơ sở truyền thống dân tộc mà vẫn rất hiện đại. Giải thưởng Nhà nước mà ông vừa được trao tặng đợt IV, 2016 vừa rồi là một minh chứng sinh động nhất ghi nhận những đóng góp của ông trong tiến trình đổi mới thơ ca nước nhà.
ĐỖ NGỌC YÊN