Tìm tòi thể nghiệm

5/10
6:35 AM 2016

CHÙM 2 TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN THỊ KIM HÒA

Cùng viết về đất, nhưng ở khác miền văn hóa của Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Kim Hòa khốc liệt hơn trong cấu tứ, trong nhân vật ứng xử (tuy không chết người như ở chỗ Tư) trong lời thoại trần trụi, trong khí vị khắc nghiệt của gió Lào cát trắng. Nó làm chứng rằng đằng sau mỗi văn tài đều có một miền văn hóa, nó là đất để sinh ra hoa thơm trái lạ - sinh và dưỡng.

                                                         Ảnh minh họa (nguồn:Internet)

KHÓI TÀN TRÊN THÁP

 

 

1.

Savông đến tìm tôi thì chợ đã gần tàn.

Bước xuống từ chiếc xe ôm, thẳng một hơi tới sạp tôi cứ tưởng là một cô Miên nào đó ghé mua hàng trễ. Tóc búi cao, sà rông hoa, mắt đậm và sâu. May mà còn có giọng nói để nhận ra người đã trao đổi với tôi qua điện thoại. Một giọng Anh khá chuẩn, không lai bất kì một âm sắc Khmer nào.

-Bạn là Phan?

Ngạc nhiên, bối rối, bàn tay tôi đưa ra bắt quên mất cần phải chùi. Mấy vệt lốm đốm đen từ cái hũ mắm bò hóc rớt bể tôi đang dọn tràn sang cả những ngón tay Savông.

Định tìm một cái khăn, nhưng rồi khi quay qua, tôi sững lại.

Savông đang giơ cả bàn tay vừa bắt tay tôi lên ngang mặt. Nắng sót lại của buổi chiều làm nổi rõ những lấm chấm khuếch tròn trên màu da ngón.

Ánh mắt Savông đóng đinh lên những ngón tay.

Tôi nhìn thấy những cơ mặt đột nhiên giần giật. Tôi nhìn thấy hai cánh mũi phập phồng liên tục, liên tục như vỡ òa, như phấn khích.

Và rồi… trước khi tôi kịp hiểu chuyện gì, thình lình người khách đối diện tôi nhét cả ngón tay vào miệng mình và... mút. Cặp môi đỏ bặp lấy, nun nút say sưa. Tròng mắt đen giãn to. Và gương mặt như bừng lên một thứ ánh sáng lạ lùng.

Tự nhiên tôi có cảm giác mình đang chứng kiến một thứ nghi lễ kì dị. Khi mà người đối diện cứ lần lượt mút từ ngón tay nọ sang ngón tay kia bằng một vẻ rất tha thiết. Khi mà cái lưỡi hồng hồng trong miệng người khách cứ thò ra thụt vào, liếm láp từ đầu đến cuối những ngón tay một cách mê mải đến kì cục.

Khi mà nắng như đồng lõa với trò chơi không chút vệ sinh của đứa con gái Miên cứ nhạt dần, sẫm dần trong ngõ hẻm chứa cái chợ chỉ còn những bịch ni lông phập phù quẩn vào nắp cống.

Thành phố đang mùa cúp điện. Trong nhập nhòa, nhờn nhợt sáng chưa được thay bởi ánh đèn, trước sạp hàng tôi, ánh sáng hắt ra từ gương mặt Savông càng lạ kì, càng quái đản.

500 đô cho một chuyến đi ba ngày.

Gấp bốn lần tiền tháng tôi dạy kèm thằng công tử lớp mười hai thích nhìn ngực cô giáo hơn nhìn vào sách.

Gấp sáu lần lương bán hàng nửa buổi của tôi cho cái sạp sặc sụa mùi đường thốt nốt, mùi cá trèn, mắm bò hóc, ếch khô,...

Và 500 đô. Vừa khớp như những bánh răng hoàn hảo với khoản nợ vay sinh viên ba năm còn dồn cục của một đứa tôi đang thất nghiệp.

Nhưng 500 đô, ba ngày trời với một người đồng hành chưa chi đã thấy nhờn nhợn như Savông, liệu tôi có nên phải đắn đo khi nhận lời?

 

2.

Rốt cuộc thì tôi cũng ở đây. Đầu giơ ra muốn nứt toác, mặt giơ ra muốn cháy xém. 500 đô và khoản nợ không thể bắt mẹ tôi cứ còng lưng trả mãi. Tôi chỉ phải chịu đựng trong ba ngày. Đứa bạn đang kẹt dẫn tour bên Thái chỉ cần tôi thế nó trong ba ngày.

“Mày cứ dẫn nó loanh quanh chỗ quê mày. Đầy tháp Chăm ở ngoải chớ gì. Nó hơi lạ một chút... Nhưng kệ! Vừa có tiền. Vừa được một chuyến về quê chơi. Sướng quá trời!”

Đứa bạn đẩy cái chữ sướng thành một đường dài ra vẻ đầy ghen tỵ.

Chắc nó chưa từng bao giờ xách giỏ đứng miết trước cửa nhà mà không biết có nên gõ cửa hay không.

Nó tưởng tôi thích được về quê.

Về làm gì...Gương mặt mẹ vẫn lầm lụi, tiếng thở dài vẫn nặng trịch kéo xuống những ngọn khói bếp. “Mày nộp đơn xin chỗ nào nữa chưa con?”

Về làm gì... để giờ bị nắng róc đến những giọt mồ hôi cuối cùng. Những giọt mồ hôi vừa tuôn ra đã quéo lại, khô rốc đi trong lớp lớp gió. Gió không mát. Gió còn hơn cả một cái tát rát rạt. Từ bao giờ nắng gió đã thẳng tay giành những cái tát bỏng rát cho một đứa quen mùi thành phố là tôi?

Tôi dường như ngửi được cả mùi thịt da mình bốc khói khét lẹt. Tôi thậm chí nghe được bục bục vỡ ra của những mảng da mình đang chín.

Vậy mà cái nền cho tất cả, những tràng rì rầm, rì rầm cầu nguyện gì đó của Sa vông cứ lê thê dai dẳng không chịu được.

Savông có thực là một chuyên gia khảo cổ hay không?

Cái luận án cô nói. Sự khác nhau giữa kiến trúc tháp Chăm và đền thờ Campuchia. Tôi tưởng là phải tanh tách bấm máy, rồi rờ rẫm, ngắm nghía săm soi nào cấu trúc gạch, nào chất kết dính, rồi hoa văn tường, mái tháp và lủ khủ thứ khác.

Cái luận án đó có cần cô phải ngồi đồng dưới mọi chân tháp. Kệ nắng, kệ gió, kệ cả đứa giang đầu trần chóc ngóc ngồi theo bên cạnh là tôi?

Lẽ ra tôi không nên làm bộ là người nhiệt tình, đồng cảm. Lẽ ra ngay ở cái tháp đầu tiên tôi nên đứng phắt dậy, nên tuốt luốt chui vào một bóng râm, mặc kệ Sa vông với những tràng lầm rầm quái quỷ của cô ta.

Lẽ nào lại có một vị thần tháp Chăm nào đó đã nhập vào đứa con gái ngoại quốc này mỗi lần cô ta ngồi dưới một khối tháp? Nên ánh mắt mới dại đi, thê thiết. Nên thứ ánh sáng mê mải, lạ lùng đã từng làm tôi chờn chợn quay trở lại trên gương mặt. Nên sau mỗi lầm rầm dưới chân tháp, bao giờ Sa vông cũng ghé đến, áp tai thật chặt vào mảng tường tháp đỏ màu gạch. Như nghe ngóng, như lắng đợi.

Có thứ gì vọng ra từ bên trong những ngọn tháp, những khối gạch vuông vức cao vút đang trằn mình dưới ngùn ngụt nắng gió của dải đất này như tôi sao?

 

3.

Quả thật là có tiếng nói vọng ra từ trong tháp.

Tiếng nói không phải tôi chỉ mới nghe lần đầu. Tiếng nói không to đâu. Chỉ u u, u u như tiếng gió luồn ra từ dưới những rễ đa đang nuốt chửng đền Trapeang Ropeak. Chỉ âm âm, âm âm như tiếng dội từ bốn bức tường trong hành lang vỗ ngực của đền Ta Prohm.

Tiếng nói lúc xáo xác lên như tiếng đập của một cánh dơi lạc bầy giữa những trụ đá Angkor, lúc thầm thĩ từng nhịp, từng nhịp mà khắc khoải như tiếng kêu “cuốc cuốc” tôi đã nghe bên phù điêu Apsara của ngọn tháp Champa đầu tiên trên mảnh đất quê Phan.

Phan nói với tôi, trong tiếng Việt tiếng kêu của loài chim đó có nghĩa là Tổ quốc.

Thần linh ơi! Phải chăng Người đang dùng tiếng kêu của loài chim xa lạ này để trách cứ con? Đứa con gái lạc loài mỗi lần nhìn về quê hương chỉ thấy kinh sợ, thấy đau đớn.

Không kinh sợ, không đớn đau sao được!

Những tiếng nổ kinh hoàng hơn cả tiếng sấm xé toang giấc mơ đêm bình yên trẻ con. Cổng nhà sập. Con chó nhỏ chỉ kịp ức lên một tiếng rồi ngoẹo oặt đầu. Máu ròng ròng chảy xuống từ bộ lông trắng muốt. Máu tắm lưỡi lê nhọn hoắt đang xóc bộ lông trắng giơ lên trong một màu đỏ kì dị. Gương mặt người cầm lưỡi lê cũng đỏ. Đỏ vì lấm tấm máu. Đỏ vì như thể bị trùm lên bởi một thứ ánh sáng cũng đỏ nhưng đùng đục, méo mó.

Không còn là gương mặt người tài xế thân thiện chiều chiều chở cha đi làm về cũng đều ghé vào xin ly nước.

Máu lăn lóc cùng thân xác con chó nhỏ xuống những bậc thang vẫn còn đ tròn, ngơ ngác. Đến nó còn không nhận ra người nó vẫn hay tíu tít quấn lấy chân.

Rồi lửa. Rồi khói. Rồi tay mẹ kéo đau điếng lao ra cửa.

Ùng ùng tuôn theo dòng người. Chạy. Đi. Rồi lại chạy. Chân không. Đầu trần. Mắt chỉ thấy nhoen nhoét những đỏ và đỏ. Tai điếc đặc trong những tiếng nổ. Và mũi nghẹt ứ mùi khói. Khói như con quái vật nuốt trường học trong cái mõm đen khổng lồ. Khói cắt đôi một chiếc xe tải lèn đầy cứng người trước mặt. Tay mẹ bịt cứng mắt. Nhưng mũi vẫn nghe được mùi thịt cháy khét rộ lên trong mùi khói.

Thần linh ơi! Mùi thịt người cháy ấy giờ vẫn còn đây ngay bên cánh mũi con. Mười lăm năm nơi xứ sở sương mù, con vẫn không thể nào ngừng được cơn nhợn ói khi trước mặt là bất cứ miếng thịt nướng nào.

Người xem! Ngày ấy quê hương đã làm gì với một đứa trẻ sáu tuổi là con.

 

4.

Giật nảy mình, tôi nhổm dậy và nhận ra Sa vông đang khóc. Cô khóc trong mơ. Giấc mơ gì đó ọc ạch, ú ớ những âm thanh không rõ tiếng từ cổ họng cô. Chỉ có những giọt nước mắt là xối xả tuôn xuống. Đẫm cánh mũi. Đẫm hai má. Gương mặt đẫm ướt của cô bạc đi, mỏng lét cả ánh trăng đang đổ đặc trên gối. Tôi lắc lắc vai Sa vông. Cô mở mắt. Mắt là một hố sâu đờ đẫn, ngơ ngác.

-Phan có nghe thấy mùi thịt cháy không?

Tôi nghĩ là Sa vông vẫn đang mơ. Nhưng đúng thật. Có mùi cháy. Khen khét đưa vào từ đâu đó bên ngoài không phải mùi thịt. Nó như mùi ni lông. Không. Là mùi ẩm mục sục qua lửa. Cả mùi lép bép hơi nước cố thoát ra khỏi những bề mặt đang quằn queo, cháy bùng. Cháy! Trí nhớ vụt trở về lôi tôi nhào xuống giường.

Bãi đất trống trước nhà vẫn ầng ậc trăng nửa khuya. Trăng đổ cả xuống cột khói xám đang bùng bùng chao trên một đám lửa đỏ ối một góc phía chòm mả. Cắm đầu cắm cổ, tôi chạy về phía đó.

Đây rồi. Cái con người làm buổi tối lâu rồi mới ngủ ở nhà của tôi cuối cùng cũng không yên. Cái con người cũng dự phần vào một trong những lý do khiến tôi cứ nghĩ đến chuyện về quê là ngao ngán. Chú Út tôi.

Chú đang ngồi thu lu trên một gò mả tròn ủm. Và lại đốt.

Chú đốt bao nhiêu đám cháy rồi từ lúc tôi bắt đầu biết đếm cho tới giờ, tôi cũng không nhớ nữa.

Chỉ nhớ những khốn khổ của mẹ con tôi khi cố dập ngọn lửa cứ lăm le chực tràn ra trong mùa gió. Nhớ tiếng hét hô xung phong và gương mặt lấm lem đất cát chú thò ra sau một gò mả. Cả cái dáng người vùng vẫy, cả những ngón chân bấu xuống cát cố trì lại, chống cự vòng tay ba tôi đang ghì lấy, đẩy lôi chú về phía căn nhà giữa bãi đất.

Căn nhà đó, từ khi ba tôi mất, chú Út dễ dàng gỡ khóa để thoát ra. Có khi chú còn dỡ cả luôn cánh cửa. Mẹ tối mặt với đám nho, bầy cừu, với mái nhà thiếu một người cùng chống đỡ, nên mặc kệ chú. Chỉ mệt mỏi ngồi bẹp xuống bên đám lửa chú nổi lên ngay sát sạt chuồng cừu, tay chìa ra thanh củi.

“Sẵn chú mày châm lửa đốt giùm luôn chị, luôn cháu mày đi, Út! Sống chi sống khổ, sống sở quá mà...”

Duy nhất lần đó. Trước những giọt nước mắt bải hoải, chán chường của mẹ, tôi thấy một ánh sáng tỉnh táo nhói lên trong ánh mắt chú tôi. Không tới tấp ném thêm những thứ xung quanh vào đám cháy. Cũng không chạy lòng vòng ẩn núp, la hét.

Gùng gục đầu, lẳng lặng kéo lê thanh củi mẹ tôi đưa trên đất, chú bỏ đi.

Nội tôi lúc còn sống mặc kệ những kết luận, chẩn đoán, cứ nhất định rằng chú bị ám. Không dưới chục lần bà đem chú đến các thầy cúng cả Kinh, cả Chăm để nhờ trục ra con ma đã ám theo chú từ những ngày sang đất Miên.

Ngày còn nhỏ tôi cứ thắc mắc ghê gớm. Con ma đó có sức mạnh đến cỡ nào mà biến người chú tươi rói ở một góc hình cưới ba mẹ tôi thành cái thân hình dật dờ, chưa từng thấy mở miệng cười được một lần.

Có thật là trước ngày nhập ngũ chú đã cõng tôi đi chơi vòng vòng hết xóm? Có thật là bàn tay nhỏ của tôi đã đưa lên vẫy vẫy tạm biệt lúc chú khoác ba lô trèo lên xe như nội kể?

Bàn tay tôi chỉ nhớ những cà mèn cơm nặng trịch ba bắt đem ra cho chú sau cánh cửa khóa. Lâu hơn một chút, bàn tay nhớ đã thay chú kéo lại áo thím Út. Thím Út tay xách giỏ, tay chùi nước mắt ròng ròng.

“Cả nhà mấy người gạt tui... Tưởng sao! Chồng khùng chồng điên. Chồng gì! Có mà chồng thúng, chồng mủng!”

Thím Út giật áo cái rẹt làm tôi té lăn cù xuống đất. Kệ cái dáng chấm phẩy, niềng niễng một bên của thím te tái xa dần, xa dần. Kệ tôi lồm cồm bò dậy gọi nội, kêu ba kêu mẹ om sòm, chú Út vẫn núp sau thành ghế làm một điệu bộ như đang ngắm bắn.

Thật sự lúc đó tôi đã ước trên tay mình cũng có một thứ gì để bắn. Tôi sẽ bắn cho lăn quay, cho tan tành, cho nát vụn con ma đang ám lấy chú tôi.

Con ma làm nội tôi khóc đến mờ mắt, làm ba tôi mệt mỏi, mẹ tôi chán ngán. Con ma làm tôi cứ lẫn lộn giữa ngần ngại, ghét ghét rồi lại sờ sợ chú.

Và con ma cho đến tận lúc này tôi biết vẫn còn đó, ngay bên trong chú.

Đám lửa chú đốt trên gò mả không lớn, cũng không gần thứ gì để có thể sợ cháy lan. Hớt hải, bực bội tôi đã xẹp xuống gần phân nửa lúc nhận ra điều ấy khi lên đến gần chòm mả. Bước chân tôi chùng hẳn, chậm lại. Trong bóng lửa rừng rực đỏ, chú tôi đang ngồi đó. Bóng thun lại. Thu lu. Ngơ ngác.

Tiếng chân người vang lên bên cạnh làm tôi sực nhớ đến Savông. Cô đang bên cạnh tôi không biết từ lúc nào. Tóc xõa tung. Mắt vẫn còn chưa hết đờ đẫn, hết nhìn chú tôi sang nhìn ánh lửa.

Gương mặt này, ánh mắt này.... Đứa con gái gốc Miên kì quặc tôi phải theo tháp tùng hành trình tới những ngọn tháp này. Trong cô ta lẽ nào cũng có một con ma như chú tôi sao?

 

5.

Người đàn ông đó đã từng đến đất nước tôi. Không. Chỉ là đất nước cũ của tôi. Tôi mang quốc tịch Anh. Những người tôi gọi là cha, là mẹ, họ nói tiếng Anh. Họ, những con người tốt bụng đón tôi về từ cái trại tị nạn có những mái lều tạm bợ cứ xô nhau đổ trong phành phạch gió từ những cánh quạt trực thăng mang cờ chữ thập. Họ nói rằng sẽ tập cho tôi quên.

15 năm. Tôi quên hết. Quên cách chắp tay chào. Quên vị mắm bò hóc. Quên màu sà rông. Quên tiếng nói.

Giá mà có thể quên luôn mùi thịt cháy. Giá mà quên được buổi chiều đền thờ trời bỗng vằn vện những luồng mây đỏ quạch.

Rõ ràng đã có những luồng mây như thế bay phía trước tôi, kéo tôi theo cái bóng xiêu xiêu đổ dài trên đất của người đàn ông. Rõ ràng tôi đã đi theo những luồng mây. Mũi bỗng nghẹt mùi cháy. Mắt bỗng mờ mịt đỏ là đỏ.

Nhưng tại sao giờ tôi lại ở đây. Dưới chân ngọn núi như được chất bằng trăm ngàn khối đá. Xung quanh tôi. Chỉ đá là đá. Không có Phan. Không có cả cái bóng người liêu xiêu chỉ mới vừa thấy đó.

Bên trên tôi, trên những bậc đá chìa ra uốn vòng thành một chuỗi thang, trơ trọi đổ xuống trong bóng chiều một ngọn tháp. Phan sao không nhắc với tôi có một tháp Chăm ngay gần cạnh nhà cô. Hay chính cô cũng sợ sự lạnh lẽo toát ra từ những đổ nát, hoang tàn ở nơi này?

Tôi không sợ. Những bậc thang đá càng rút ngắn, ngắn dần thì cảm giác thân thuộc không hiểu từ đâu lại càng ập đến rõ dần.

Ngỡ ngàng. Tôi nhìn màu gạch đỏ bầm lỗ chỗ những vết thâm sì. Nhìn cổng vòm gãy cúp chỉ còn một nửa. Bệ tượng đá trống không, lõm xuống.

Ngôi đền nằm lọt thỏm giữa cánh rừng cắt ngang con đường ra trại tị nạn. Ngôi đền có cái hốc khoét rỗng dưới một bệ thờ nhìn ra là thấy những luồng mây màu đỏ quạch.

Phnom Penh, Angkor, Sambor Prei Kuk,…Theo tiếng nói ám lấy tôi từ khi đặt chân trở lại sau 15 năm, tôi đã đi tìm nó. Cứ tưởng mất hút rồi, trong lõng bõng trí nhớ tôi, trong nuốt chửng không thương tiếc của những khu rừng nhiệt đới. Vậy mà giờ nó lại ở đây…

Không nghe thấy tiếng nói. Tai tôi áp sâu thật sâu vào tường tháp, vẫn không nghe tiếng nói. Tiếng nói đã dắt díu tôi từ đền tháp này sang đền tháp khác, từ màu đá sa thạch sang màu gạch. Âm thanh đã gần giống như một người bạn ấy, đâu rồi?

Chỉ có mùi thịt cháy bỗng xộc ra từ bức tường gạch lởm chởm tôi đang áp mặt. Thụp người, tôi trốn sau bệ tượng trống không.

Tượng lăn lóc khắp nơi. Mình tượng. Mặt tượng. Chỏm đầu tượng. Không mảnh tượng nào là không mang vết đạn. Đạn chi chít. Đạn xăm vỡ nát những tảng đá. Ông già co ro cuối góc kẹt lảm nhảm những lời như tiếng hát.

“Linga gãy tét. Vishnu nát mặt. Siva cụt đầu. Thần linh về cõi chết. Người về đâuVề đâu

Cha bịt chặt miệng ông già. Lời hát càng to. Hai người đàn ông nữa xúm vào đè ông xuống đất, lời hát vẫn to. Những bóng áo đen chờn vờn đổ trước cái hốc, lời hát vẫn cất lên giữa hoảng loạn, xô đẩy, rúm ró. Rồi im bặt. Những tràng súng xé tai chấm dứt mọi âm thanh.

Lưỡi mặn chát, tanh òm những dòng liên tục bắn lên mặt, rơi xuống mắt. Tay nhờn nhợt những nhẫy ướt, nhớp nháp. Mắt không còn nhoèn nhoẹt đỏ là đỏ như buổi chạy khỏi thành phố nữa. Mắt là một màn đen.

Không thấy mẹ. Không thấy ba. Chỉ cảm giác bị đè xuống, chồng lên.

Ngộp. Cơn ngộp chặn ngang hơi thở. Lồng ngực muốn vỡ tung. Miệng cố há hốc, cố tìm không khí. Ngáp. Ngáp. Trong vô vọng. Trong điên cuồng.

- Cô bé! Cô bé! Tỉnh lại! Cháu có sao không?

Mở choàng mắt. Tôi nghe lồng ngực mình được bung ra, giải thoát.

Không còn cơn mù lòa nữa. Trước tôi là gương mặt một người đàn ông. Là chú của Phan. Không phải. Là gương mặt người lính áo xanh đã moi được đứa bé gái thoi thóp ra khỏi cái hốc đền thờ chỉ còn máu và những khối thịt.

Ánh mắt lo lắng vui mừng của chú. Bàn tay đầy mùi khói súng mà vẫn rất ấm lau mặt cho tôi của chú.

Tôi chộp nhanh lấy bàn tay.

-Chú là chú bộ đội đó, phải không?

Người có bàn tay bị tôi giữ chặt nhìn tôi. Ánh nhìn vừa quen vừa lạ. Ánh nhìn rõ ràng có một thoáng lóe lên ấm áp giữa đờ đẫn, ngơ ngác.

-Chú là người đã cứu cháu, đúng không?

Sững sờ, tôi nhận ra mình đang hét lên bằng thứ tiếng tôi tưởng quên mất lâu rồi.

Người đàn ông giật lại bàn tay. Làu bàu gì đó trong cổ họng, vẫn xiêu xiêu từng bước, ông đi dần về phía những bậc thang xuống tháp.

Là ảnh ảo hay là thực? Là kí ức nhập nhòa đưa tôi vào hoang tưởng hay người chú của Phan, ông ta có lay gọi tôi bằng thứ tiếng quê hương tôi.

Người đàn ông điên đó, ông ta phải là người lính Việt Nam trong kí ức tôi không?

Chiến tranh! Thần linh hỡi. Hóa ra đâu phải chỉ những tâm hồn yếu đuối non nớt mới mang đầy thương tích. Nạn nhân hay anh hùng. Người chiến thắng hay thua cuộc. Thần linh ơi. Thì cả thể xác lẫn linh hồn đều bị ám khói đen từ cuộc chiến ấy mất rồi. Ngọn khói lắc lay cho đến hết một đời...

 

6.

Savông đột ngột ngừng hành trình khi chuyến đi còn hẳn một ngày. Tôi đã phải trả lời hơn chục cuộc điện thoại từ con bạn sau đó về lí do làm mất của nó một mối khách quá ngon lành.

Mà cái lí do ấy, thực ra tôi có biết gì đâu.

Không dưng mất hút đâu đó cả buổi chiều, lúc về, Savông nói với tôi rằng cô muốn kết thúc hành trình.

“Tôi đã tìm được thứ cần tìm…” - Savông trầm ngâm nhìn ra bên ngoài cửa kính xe.

Thứ Savông cần tìm là gì? Tôi không nghĩ nó là tư liệu nào đó cho luận án nghiên cứu của cô ấy. Nhiều lần tôi muốn hỏi Savông nhưng rồi lại thôi. Không hiểu sao tôi cứ thấy ngần ngại sao đó với Savông như hệt với chú Út tôi, dù thỉnh thoảng chúng tôi vẫn trao đổi email.

Savông đã thanh toán đủ 500 đô cho tôi dù bỏ dở hành trình. Tôi đã trả hết nợ vay đi học. Cũng đã kiếm được một việc làm để khi về nhà có thể mạnh dạn gõ cửa gọi mẹ.

Có một chuyện lạ là hằng tháng tôi còn nhận được vào tài khoản mình 100 đô, mà tin nhắn báo Có chỉ duy nhất một nội dung: Nhờ chuyển cựu binh Lê Văn Út.

Nghĩ là một đồng đội cũ nào đó hoặc một Quỹ cựu chiến binh gửi ủng hộ chú thuốc men, tôi cũng không tìm hiểu đến cùng nguồn gửi.

Cho đến một ngày, lúc chán nản chuyển tới chuyển lui giữa các kênh phim chán ngắt, thình lình trên màn hình ti vi trước tôi xuất hiện gương mặt của Savông.

Cô đang ở một căn phòng bệnh viện. Chương trình đang phát là một buổi nói chuyện trị liệu tâm lý cho các bệnh nhân mà nhìn hàng chữ chạy dưới góc màn hình tôi biết họ bị hội chứng chiến tranh. Tôi thấy Savông ngồi giữa những mái đầu có hoa râm, có bạc trắng. Cô là người thực hiện trị liệu. Lần lượt nắm từng bàn tay già nua, cô chăm chú lắng nghe những câu chuyện của họ. Có lúc cô còn khóc. Lần thứ hai tôi thấy những giọt nước mắt cô. Những giọt nước không thảng thốt, không mỏng lét như trong đêm giật mình vì những ú ớ tôi lay vai cô. Máy quay lấy ngay cận một giọt nước mắt. Nó tròn đầy. Nhẹ nhàng, nó lăn xuống gương mặt không còn u uẩn, lạ kì của Savông như được thanh tẩy, được giải thoát.

Tự nhiên tôi lại hình dung ra gương mặt đờ đẫn của chú tôi đang ngước nhìn lên màn hình ti vi. Tôi thấy ánh mắt đùng đục của chú giãn ra, thấy khóe miệng chú nhẹ nhõm vuột ra cái cười được cảm thông, được chia sẻ.

Chụp điện thoại, tôi bấm số gọi về nhà…

N.T.K.H

 

 

TIẾNG ĐẤT

1.

Thật bực mình khi bên tai Lụm cứ nghe một âm thanh gì đó. Không phải tiếng nhạc. Không phải tiếng nói. Lắc đầu. Âm thanh bay vọt qua tai. Dội lại. Bịt kín cả hai tai. Âm thanh chui tọt qua những kẽ ngón tay. Cứ ong óc. Ong óc.

Ong óc gõ vẫn còn trong đầu khi Lụm bưng chén yến đi từ dưới bếp vào buồng.

Tụi mày có nghe thấy ong óc không? Lụm hỏi lớp sợi trắng lờ đờ tách nhau dưới sóng sánh nước trong chén.

Đám sợi không trả lời Lụm. Chắc tụi nó còn mắc ngủ. Như bà nội vậy. Bà cũng ngủ. Lụm đẩy két cánh cửa buồng, đến con Mướp già còn giật mình nhảy phắt lên giường lông dựng đứng mà nội vẫn nằm, không quay lại.

Lụm tới chạm vào vai nội. Vai mỏng dính. Chạm như chạm vào mấy cây củi khô hay vác rượt tụi cừu. Giờ mới biết mắt nội đang mở. Mở mà cứ như nhắm. Cứ ti hí, ti hí. Quơ tay ngang cũng không thèm chớp.

“Ăn yến, nội!”

Lụm ẩy ẩy cái vai.

“Quay nội qua…”

Giọng cất lên thều thào còn hơn gió luồn qua cửa sổ.

Lụm lật người cho nội nằm ngay lại, hì hì cười nội còn thua con Mướp. Con để nó xuống phản, ngửa ra, thả tay đã thấy nó lật úp lại.

Nội cười giơ cả lợi. Lợi hồng hồng. Thím Ba nói bậy. “Mẹ ông sao mà sống dai như đỉa!”. Nội không phải đỉa. Lợi nội hồng. Đỉa có lợi đỏ. Lụm bắt thử đỉa dưới ao rau muống rồi. Đỉa ngo ngoe, ngo ngoe. Vạch miệng đỉa ra. Cắt phụt. Đỏ văng từ miệng đỉa lên bắp chân. Chân lấm tấm đầy hoa đỏ.

“Đỉa không sống dai. Nội à!”

Nụ cười không còn răng của nội như mở mà không đóng lại được. Hai cái hàm nhúc nhích, nhúc nhích từng chút rồi mới sập lại. Mấy cuộn da xếp lớp bên mép cứ giần giật, giần giật. Muỗng yến đang ngậm trong miệng nội cũng giật.

“Thôi, nội không ăn nữa...”

Nội toàn bỏ mứa yến. Mấy sợi trắng vắt vẻo ngang muỗng nhìn Lụm vẫy vẫy. Lụm nhét tọt đám sợi trắng vào miệng, húp rột nước. Yến vẫn chẳng có gì ngon. Cọng chát lè, kêu lên từ trong miệng cứ sừng sực, sừng sực.

Sừng sực vẫn không bực mình bằng ong óc bên tai.

“Có tiếng gì đó, nội. Đi đâu cũng nghe. Ong ong. Ong ong. Đầu bị gõ như cái chuông.Tiếng chạy lên đâu từ dưới này…”

Nội mở choàng mắt trên giường. Mắt sáng quắc theo ngón tay Lụm gõ gõ xuống đất. Mắt như muốn lôi cả người bật dậy trên giường.

“Con cũng nghe hả Lụm? Con nghe hả? Tiếng đất đấy!...Tiếng đất…”

2.

Ngày bà theo chồng về thì đất chỉ mới gồm một rẫy khoai lang lơ phơ với mấy cái mả hoang đùn lên chỗ này chỗ kia như ụ mối. Đất yêm, nước ăn mạch từ núi, chỉ cần chọc cây xuống chưa đầy nửa thước đã thấy nước dù trên mặt rõ ràng toàn cát là cát. Cát trắng nhức. Cát muốn vuột chân giữa trời trưa nắng. Cát là lớp da đất phủ lên để đánh lừa những ánh mắt chỉ quen đánh giá mọi thứ trên bề mặt.

Chồng cắm lưỡi leng đầu tiên lật tung lớp da ngụy trang của đất, cát văng lên, trắng mà bệt vào nhau ướt rượt.

“Chỗ này cũng còn yêm!”

Bà nhớ tiếng reo chồng đã òa ra như một trận gió. Gió lăn lào xào, lào xào cát trên cả cái nón lá bà đội khi đang né mấy bụi gai ác hầu để lên gò.

Phát ranh. Đốt gai. Dọn đất. Trộn cùng màu cát trắng có cả mồ hôi chồng, cả nước mắt bà ộc ra khi cuốc phạm một lưỡi leng lên chân hay ngồi gỡ một cái gai xuyên lút ngón tay.

Khi ngôi nhà vách đắp đất trộn rơm với giàn rui mè cao chắc nụi lừng lững mọc lên trên gò đất mới phát thêm cũng nhu nhú màu dừa, màu xoài, màu đào lộn hột non rẩy lốm đốm những khoảng xanh giữa màu cát trắng, thì da bụng bà cũng căng lên, chuẩn bị cho hạt mầm đầu tiên cùng chồng được bật chồi.

Hạt mầm ấy bà đẻ rớt ngay trên đụn cát gần quạt gió. Cái rổ gióng gánh mấy bình ắc quy nhà hàng xóm gởi sạc điện bà trút ra bỏ lên đó đứa con đỏ hỏn, da lèo nhèo như con mèo ướt. Chồng chạy xuống từ đám khói đốt ranh mịt mù ẵm thằng nhỏ lên, lắc lắc ba bốn lượt mà cát vẫn chưa rớt ra hết khỏi chân, khỏi lưng, khỏi cặp môi tí xíu mà bặp cứng ngắc như quyết giữ tới cùng những hột trắng như muối dính đầy trên mép.

“Thằng này sau này giữ đất thần sầu đây! ”

Chồng cười khà khà trong tiếng quạt gió quay cành cạch. Đó là lúc đất đã từ cái gò vốn chỉ có gai ác hầu và cây dại kéo ra đến tận chân động cát.

Gần chân động, cây bình thường không xuyên nổi qua mấy tầng cát để tìm mạch yêm, nên bữa đó chỉ có hàng quạt gió nghe cùng bà lời đoán về đứa con giữ đất thần sầu.

Đứa con thứ hai không có lời đoán nào cho nó lúc chào đời. Nhưng cả tuổi nhỏ của nó là những ngày lê la ngủ lăn lóc hết mọi góc đất quanh nhà, ngủ tràn cả xuống khu đất mả. Mấy người vào ruộng giữa lúp xúp mả đánh dông lúc ẵm, lúc cõng xuống giao lại cho bà một đứa nhỏ mắt khít khịt mà miệng cứ chóp chép, chóp chép như đang nhai thứ gì ngon lành lắm. Lạ là những lúc lên giường, lên ván ngủ đàng hoàng chẳng bao giờ nó chép miệng một lần. Tựa hồ những giấc mơ nhai chỉ đến khi nó nằm trong đất. Nhiều lúc bà phải nghi ngờ không biết thứ nó đang chóp chép là tưởng tượng của giấc mơ, là mùi đất. Hay là chính đất.

“Kệ đi. Có nằm đất, ăn cát lớn lên thì tụi nó mới biết thương, biết quý đất chớ!”

Chồng vừa “quành họ” chỉnh một đường bò cày, mắt vừa hấp háy hài lòng như thế khi cùng bà nhìn ra luống đất sát mép bờ cỏ. Thằng con có giấc mơ nhai đang ở đó. Như mọi lần, nó ngủ. Má áp cả vào mặt đất phồng lên xốp xộp sau những lằn cày. Thằng anh lớn bên cạnh chơi trò phá xấc cầm cọng cỏ gà chọt chọt vào cái miệng đang chóp chép. Đứa con út chưa đầy tuổi bò lia lịa về phía hai anh, đầu gối ngập trong cát, chim lủng lẳng chấm cát, miệng cười hăng hắc. Đứa đang ngủ vùng dậy. Ba thằng con trai của bà ôm nhau lăn cù trên luống đất mới. Cát bắn tung tóe. Cát văng cả qua đám đất bên kia bờ cỏ. Lấp xấp cát trắng nổi lên giữa bền bệt cát và rơm ngâm nước đã ngả màu.

Cải tạo hết vùng cát mé bên hông đám rẫy khoai lang ngày nào để làm đất ruộng. Mặt nam của đất cuối cùng cũng đã được chồng mở rộng ra, bờ ranh bao tới tận đường làng.

3.

Ong óc… à không, tiếng đất vẫn còn trong đầu khi Lụm ra tới cửa.

Chú Ba đang ngoắc ngoắc tay cho hai người khiêng một cái hộp chùi qua cửa. Cái hộp dài thòn. Đầu vuông vức. Thân vàng, nắp vàng như pha nghệ. Hộp có cả những cái hoa. Hoa vàng, hoa trắng nhé. Hoa chạy loằng ngoằng, hoa chấp chóa còn đẹp hơn cả màu nắng nhé.

“Chưa gì hết mà mua hòm?”

“Sẵn đi chớ. Sẵn thằng này cũng đang khai trương, giảm nửa giá.”

Chú Ba hềnh hệch cười. Chú Hai không nói gì. Chỉ nhíu mắt.

Hai người khiêng lễ mễ thả cái hộp xuống đất. Thả mạnh khiếp. Rền cả đất. Đất giờ không chỉ kêu mà còn run bần bật. Chú Hai, chú Ba giẫm cả lên mặt đất đang run bần bật, lắc lắc mở thử nắp hộp. Nắp cuối cùng cũng xê ra được cả khúc. Lại gần mới thấy dưới cái nắp thật xấu. Cả một khoảng trống cứ toang hoác, toang hoác. Lừ lừ tuôn ra từ khoảng trống còn có cả hơi lạnh. Lạnh nổi gai ốc.

“Con khùng này. Xê ra coi! Tróc sơn tao đánh lọi tay giờ.”

“Chú Tư nó lại đi đâu rồi cà?”

“Dạo này anh hay hỏi chú nó quá! Định rù chú nó chuyện gì đây, anh Hai?”

“Chú ăn nói cẩn thận đó!”

“Sao là cẩn thận? Anh nên nhớ. Không phải anh, không phải chú nó, là tui, là tui ở với bà già từ đó giờ. Phần chú nó, chú nó không lấy, thì phải chia cho tui.”

Chú Ba đỏ gay mặt lên rồi. Kinh nghiệm mỗi lần mặt chú có màu giống mặt gà cồ thì nên đi chỗ khác. Đi đâu ta?

“Lụm…Lụm…Biểu!”

Thím Ba mặt cũng đỏ như gà cồ thò ra từ cửa bếp. Năm ngón tay thím cũng đỏ. Lửa bếp đúc năm ngón tay thành năm con đỉa vẫy vẫy đến là ghê.

“Tao hỏi. Yến hôm qua giờ mày ăn? Hay bà nội? Khai thiệt mau.”

“Nội ăn chớ…”

“Vả chạt bây giờ. Còn thiên tinh! Cọng đu đủ cứng ngắc bả ăn được hả mậy?”

“Thím Ba…Thím gan thiệt. Lỡ mấy ổng biết…”

“Mấy ổng còn không mong bà già đi cho lẹ.”

“Thím nói vậy tội chết!”

“Tui nhà quê. Thấy sao nói vậy. Còn hơn mấy người bụng tính tới đâu mà miệng còn làm bộ…”

Lửa có chân không? Lửa chạy từ những ngón tay thím Ba vào thẳng mắt thím Hai rồi. Rừng rực. Rừng rực. Bếp hầm hập lửa. Nhà trên cũng hầm hập nóng, đánh bay cả hơi lạnh từ cái hộp.

Đi đâu đây? Đất thì kêu. Hầm hập thì ở khắp nơi. Cừu cũng không hiền nữa, cứ húc đầu vào nhau cồm cộp, cồm cộp trong chuồng. Cá dưới ao cũng không hiền, đuôi đập cắn nhau loạn xạ gãy cả bông chuối nước.

Đi đâu đây? Khạc. Khạc. Cọng đu đủ thòi lòi ngang cổ họng. Thì ra không phải sợi yến. Là cọng đu đủ xắt xớ dài ngâm nước.

Đi đâu đây? Chú Tư cứ đứng chàng ràng, thập thò, chắn cả cửa vô buồng bà nội.

“Nội sao rồi Lụm? Nội có mở mắt được không? Nội có đỡ hơn chút nào không?”

Chưa kịp trả lời điện thoại trong mình chú đã kêu tóe lóe. “Ừ…Ừ...Cũng đang sửa soạn một số thứ…Hồ sơ thủ tục xong rồi mà. Chờ ngày đi thôi…”. Câu trả lời nuốt lại xuống bụng, nuốt cả cọng đu đủ. Chú có nghe đâu. Điện thoại dẫn chân chú ra tuốt luốt sau nhà. Đất đang kêu theo tiếng chân chú ra tuốt sau nhà.

Bà nội nói là không nghe tiếng chân. Nội xạo. Lụm thò đầu vào rõ ràng thấy mắt nội đang chảy nước.

Chẳng thích mắt nội cứ chảy nước. Chỉ thích nội cười. Cười như hôm đem cho cái bánh tráng giòn rụm: “Ăn đi con. Tội. Mày ở đâu lạc vô đây? Nhà này có người cũng như không. Mày ở lại với nội nhen.”

Bánh tráng xuống cổ mềm sụn. Mắt nội mềm. Đất trên rẫy khoai lang bữa đó cũng mềm.

Đáng lẽ phải kể nội nghe, từ bữa đó kìa, bữa xỉu vì đói giữa rẫy khoai lang chỉ còn dây, Lụm đã nghe tiếng đất kêu.

4.

Bà phát hiện ra thằng Hai bán đất khi người ta nhổ phăng lên khỏi cát cây quạt gió. Dây điện kéo vào tận chòm rẫy xa nhất năm sáu năm rồi. Những thân quạt thành trụ bắt điện, trụ đỡ mái chuồng cừu. Cây quạt cuối cùng được để lại vì chiều chiều ông vẫn thích chống gậy lên sân lúa, nheo nheo mắt về phía những vòng cánh quay xoay tít. Tới chừng bà cũng đứng trên sân lúa thì những vòng quay đã rệu rã lắm rồi. Những cánh quạt sét sẹt lâu lâu còn khậc khậc lên rõ ràng trong dề dề tiếng gió. Khậc khậc y chang tiếng ho ông. Khi bà nhìn về phía quạt gió, sân lúa không phải chỉ một mình bà. Lúc nào cũng có ông.

Vậy mà thằng con “sau này giữ đất thần sầu” đã để người ta bứng trước mắt bà cả thân quạt, cả cát. Cát bay xấp xóa. Cát tả tơi bay cùng mảnh gió gãy lìa rào rào đổ xuống buổi chiều trên sân lúa.

Cát còn đổ nhiều buổi chiều như thế nữa. Cuộn thành cả một cơn lốc xoáy, cát quất rát rạt lên ngọn cây đào che ngang cửa sổ bà nằm. Giật bung cánh cửa, cát phơi trước mặt bà lún phún dãy mái giả ngói đỏ kè của khu nhà nghỉ mọc lên, cong cớn như một ngón tay chĩa thẳng vào giữa đất. Đất rung lắc lần đầu tiên trong giấc ngủ bà đêm đó.

Căn nhà ba lầu của thằng con ở phố thì im ỉm không một tiếng động sau ba lần cửa. Chừng thấy bà kêu rát quá, luồn ra cổng sau, nó xách cặp tà tà đi vô từ đầu hẻm, người đang đi làm về mà chân lẹp xẹp dép Lào.

“Con khổ quá má. Ổng kí giấy kí tờ bán đất bán đai cho người ta sao mà giờ họ kiện bung xung ra. Không có tiền lót thì chỉ nước ở tù…”

“Má…má thương con. Má thương con… Một lần thôi má. Má nỡ giữ đất nhà mình mà để con má chết sao, má ơi!”

Người mẹ trong bà lúc ấn dấu tay vào khoảng trắng trên tờ giấy cắt hết phần đất từ sau khoảng trống của cây quạt gió đến gần đụng sân lúa cho công ty du lịch vẫn nói rằng bà đang làm đúng. Bà là mẹ. Một dấu tay, một khu đất trả nợ cho bao nhiêu chữ kí, bao nhiêu mảnh đất dưới tay con. Dù tiếng khóc từ những vạt cát dưới chân động đêm đêm vẫn thổi về cay xè giấc ngủ bà. Thì bà vẫn tin. Mình đã đúng.

Niềm tin có long ra một mảng khi thằng con thứ hai chân này đá chân kia uỵch xuống trước bà, cặp môi tím lịm như trái mực sưng vều vẩu ra, lệu bệu lều bều. Rượu lẫn tiếng nấc cụt thi nhau văng ra.

“Má coi. Tụi nó đánh tui như vầy. Hức. Ba ngày nữa không trả hết nợ, tụi nó đánh tui chết. Hức. Tới chừng đó má đừng hòm hiếc chi cho tui hết. Cột chiếu, đào cái lỗ được rồi. Hức. Tui sống không nên thân nên đáng chết vậy đáng lắm. Má lo mẹ con mấy đứa nhỏ giùm tui.”

Tới đây thì thằng con khóc rú lên. Đứa con dâu và hai ba đứa cháu lút chút ngóc về phía bà cũng rú lên.

Cắn chặt môi, bà kệ một tiếng chao rền lại dội lên từ đất, không thể không gật đầu.

Lại những tờ giấy. Lại những cái ấn ngón tay. Ba năm để bãi đất cát thành ruộng xanh màu lúa. Ba năm để bờ ranh đất từ rẫy khoai lang kéo ra đến đường làng. Và ba ngày để đất trở lại điểm rẫy khoai lang.

Đứa con đang sống cùng bà nói rằng ba ngày nữa là người ta giết nó, bà biết phải làm sao. Dù nó là đứa trồng ba năm không lên được một cây đào, đứa nuôi lứa cá cả năm trời dưới ao không đủ câu lên làm mồi nhậu. Đứa thích ngồi xổm ở các sòng xóc đĩa, đá gà giờ nhan nhản trong xóm hơn ngồi ngắm bầy cừu nhà gặm cỏ hay những mầm lúa non tách đất cát vươn lên.

Bà phải làm sao? Quạt gió bị nhổ rồi. Không còn ông bên cạnh trong những buổi chiều trên sân lúa, bà biết hỏi ai ngoài trái tim người mẹ rối bời, lo lắng. Trái tim cột bà vào một niềm tin, dù có đứng trước những cái mả mới tự nhiên mọc lên xen lẫn trong khu đất mả gia đình. Khu đất thằng con ngày nhỏ cứ chui vào là ngủ lăn ngủ lóc.

“Người ta không có chỗ chôn. Đất nhà mình rộng rinh. Má làm phước đi!”

Tiếng nổ từ chát chúa từ ống bô của chiếc xe cáu cạnh mới mua không làm giật thót, lay chuyển được trái tim người mẹ. Trái tim dại dột bỏ qua mọi linh cảm. Trái tim suýt nữa giết bà.

“Chú dở quá. Bắt một chiếc như thằng Ba mà đi. Tiền nhà mình đâu thiếu. Tiền nằm trong đất.”

“Khóc dữ vô. Không xài bài của anh Hai được thì lấy của anh: Giang hồ dí. Ngon luôn!”

“Thôi đi chú. Bổn cũ soạn lại. Má không mắc lừa đâu!”

“Anh khéo lo. Má thương nó nhất. Kể gì…”

Cơn quặn ngang ngực bên ngoài gian thờ có ba đứa con trai tới được cửa buồng thành một tiếng nấc. Cơn quặn vẫn còn. Thình lình điếng lên. Như có một mũi dao xóc thẳng, xuyên lủng. Bà đổ sầm xuống, tay còn không kịp nắm cánh cửa.

Khi bà tỉnh dậy thì cơn đau ngang ngực đã tiêu biến mất. Chỉ còn tiếng đất. Đất không quất rào rào những ngọn roi cát lên cửa sổ. Đất không khóc. Không rung lắc. Đất là cả một cơn thịnh nộ. Thét lên, tiếng thét rít tựa hồ thủng màng tai, đất như đang giật xé, đang nứt toác ra, sụp xuống. Ầm ầm, ầm ầm. Bốn bức tường xung quanh bà lắc lư dữ dội, nền nhà chao đi. Tất cả cũng sẽ sụp xuống. Những đứa con ông tiên đoán, hi vọng. Những đứa con bà gạt qua tất cả để tin tưởng. Những đứa con sinh ra trong đất, ngủ trong đất, lớn lên từ những giọt mồ hôi của đất. Chúng đang há hốc miệng ra. Những cái miệng khổng lồ như miệng hang thông thốc gió. Gió dữ hơn cả những cơn bấc muộn. Bị hút tọt vào, biến mất giữa những cái miệng là từng vạt đất, từng góc đất, cả dải đất. Sao bà không nhận ra đất đã gởi bà một điềm báo là giấc mơ nhai của đứa con thứ hai.

Không.

Bà xô mạnh cửa buồng trong tiếng đất thét rít. Tiếng ồn ào của mâm cúng giữa nhà lặng phắt.

5.

Có một lúc tiếng đất bỗng im bặt đó là bữa bà nội xô cánh cửa. Im bặt thật đáng sợ. Im bặt như đang găm gút, như đang dồn trút cơn giận vào chỗ khác. Cơn giận có trút vào bà nội hay không. Mắt nội như đổ lửa.

“Đám con trời đánh này. Gặp ba còn lõ mắt ngó!”

Cây gậy quăng chíu ra giữa mâm. Chén bay. Bia bay. Người cũng bay.

“Đất là thịt. Là máu. Bán, tao cấm! Mày…”

Đầu gậy chĩa xuống gậm bàn. Chú Hai mắt rớt mất cặp kính lồi hẳn ra, xanh lè như mắt ếch.

“Mày…”

Đầu gậy chỉ ra sân. Chú Ba đang ráng nhét khúc mình giấu sau cây cột, bỏ quên cái mặt. Mặt thò ra là mặt con gà cồ bị cắt cổ, tái mét.

“Tao không cần tụi bây cúng tao bằng thịt, bằng máu tao!”

Mâm cúng rảng thêm lần nữa. Cả cái mâm ụp xuống đất. Con Mướp chạy tới. Chú Hai bò bò từ gậm bàn ra cửa, đầu đội cả miếng thịt.

Lụm muốn cười ngất ngư. Nhưng thím Hai, thím Ba cứ níu lấy tay: “Má… má… bả bị nhập..”, bóng rúm nhỏ còn hơn con Mướp.

Bà nội gác một chân lên ghế. Châm thuốc, nhả phà phà.

“Tao về chỉ nói nhiêu đó. Tụi bây cãi lời. Là coi chừng…”

Thuốc tàn khói. Mỗi chú Tư chạy lại đỡ bà nội từ từ gục xuống. Chú khóc.

 

6.

 

“Con biết bữa trong đám cúng là má… Không phải ba!”

Thằng con út đã ấp bàn tay mỏng giơ xương của bà bằng cả hai bàn tay nó, mắt đầy xa xót.

Mải miết chỉ có học và học, mải miết nơi thành phố xa xôi, năm chỉ xẹt về nhà vài ngày nghỉ mà nó biết sao? Biết người xô cánh cửa buồng ngày cúng đó là má nó. Là người mẹ đáng thương không biết làm sao để răn dạy các con mình ngoài việc mượn sự trở về của một linh hồn.

Hay là đã có sự trở về thật của một linh hồn? Tới giờ này bà vẫn cảm giác không chỉ có một mình bà trong lúc đó, lúc xô cánh cửa buồng. Là hồn người chồng đã mất hay là hồn đất? Là điều gì đã khiến đứa con đầu bị trộm cạy ba lớp cửa, nguyên két tiền trên lầu rỗng không, sạch nhẵn. Là điều gì khiến chiếc xe mới cáu của thằng con thứ hai phi thẳng xuống ruộng gãy cổ còn người thì treo chân trong bệnh viện gần cả tháng. Hai đứa con dâu xanh mặt bấm bíu nhau sau lưng bà: “Đất nhà này có ma giữ thiệt rồi.”

Bà phải cảm ơn con ma. Nhờ có nó giờ đất vẫn còn đây. Dù chỉ là trơ trọi, xơ xác một dãy gò. Từ ngày ông mất, những hàng dừa cũng quéo đỏ ngọn, lụi dần. Đến mùa xoài, ngẩng lên, giữa vòm lá xanh chỉ thấy những trái èo uột, da héo, cuống đen thui rầy. Đào còn không ra trái, chỉ có lá vàng rụng dưới gốc cây khô đét hết lớp này sang lớp khác. Gió tốc lá mốc meo rải trên những vạt cát thâm sì, chồng cả lên màn nước mỏng chỉ còn đủ lập lờ dưới đáy giếng.

“Mạch yêm đang chết!”. Ông thầy phong thủy đi ngang đất chỉ tay lên mái ngói cong vòng của khu nhà nghỉ bỏ dở gần chân động cát. “Chấn đầu mạch mà dở dang thì thứ gì cũng dở.” Thằng con đầu nghe lời phán khậc khậc cười: “Ông thầy vậy là ở đâu tới xứ này rồi. Xứ này dự án dở, công trình dở đầy, mà người ta cứ phất ào ào, dở chỗ nào?”. Bà nhìn cái miệng cười tét lét của thằng con, bàng hoàng nghĩ đến bao lổn ngổn, bao dở dang nữa vậy là đã vắt ngang, cắt đứt mạch sống của bao nhiêu mảnh đất khác.

Thời buổi này không ai nghe tiếng đất? Hay là đến đất cũng mỏi mệt rồi trước những ơ thờ, hờ hững nên im bặt, nên câm lặng không buồn cất tiếng?

Thời ông bà, sống cùng đất là sống cùng những tranh đấu, mở mang, gầy dựng. Những gầy dựng rồi lại trở về tro bụi lớp người tạo ra nó cũng dần thành tro bụi theo thời gian. Sinh rồi diệt. Vòng tròn đời đất nào khác vòng tròn của một đời người. Vậy mà sao bà vẫn mong đất lại sống. Mạch yêm lại không ngừng tuôn chảy dù chỉ trơ trọi một dải gò.

“Má…nếu má để hết đất này lại cho con…Con tính sao?”

Bàn tay còn lại bằng hết sức lực bà đặt lên cả hai bàn tay của đứa con trai út. Đứa con trai không nói một lời trong gian thờ. Đứa con trai đã khóc trong ngày cúng. Đứa con trai là hi vọng cuối cùng.

“Con… sẽ đi du học , má à… Trường sắp có quyết định rồi…”

Bàn tay bà rời khỏi tay con trai lúc ấy là bàn tay không cách nào gượng lên được nữa. Những thịt thà, sữa bánh đưa vào miệng bà không cách nào làm cho trôi xuống được nữa. Ông bác sĩ đứa con trai đầu chở về từ tận bệnh viện trên phố lấy ống nghe ra khỏi người bà không nói gì, chỉ chặt lưỡi. Sau lưng ông, bà đã nhìn thấy những ánh mắt. Những ánh mắt dù vội giấu đi vẫn không dập được những lấp lánh, những sáng bừng.

Không ai được phép bước vào buồng bà từ sau những ánh mắt.

Bà ráng ăn yến. Có trào lên cũng nuốt. Có là cọng đu đủ xắt nhỏ cũng nuốt. Bà không thể chết. Không cần ai cả. Bà sẽ là người giữ đất này tới tận cùng.

7.

 “Ăn yến, nội!”

Bà ráng mở choàng mắt khi vai lại bị ẩy ẩy đi bởi một bàn tay quen thuộc. Định gọi “quay nội qua” cũng đã thành quen thuộc, nhưng sực nhớ mình vẫn đang nằm ngửa, bà chỉ ráng nheo nheo thêm để nhìn rõ cái đầu tóc bù xù đang ở trước mặt mình.

“Ha. Nội chịu dậy rồi. Không có yến đâu. Con xạo á. Mà không phải… Không phải yến…Là cọng đu đủ…”

Cái đầu gác hẳn lên thành giường. Câu nói nhễu nhại rớt ra cùng cả đám rớt miếng.

Còn lại bên cạnh bà rốt cuộc chỉ có gương mặt đần đục này. Gương mặt của đứa nhỏ bà đem về từ rẫy khoai lang. Đứa nhỏ không thân thích, không máu mủ. Đứa nhỏ đất đem đến cho bà. Đứa nhỏ như một thứ trái úng dập móp méo mà lại biết nghe tiếng đất. Sao bên cạnh bà, chỉ mình nó, mình nó là biết nghe tiếng đất?

Bà đã mệt lắm rồi. Mắt bà díu lại. Tai ù ù. Nhưng bà sẽ không chết. Cọng đu đủ trong chén yến của đứa con dâu nói rằng chúng hết kiên nhẫn rồi. Chúng đã đợi bên ngoài giường bệnh bà bao nhiêu tháng. Chúng đã đợi chôn bà cùng con ma giữ đất bao nhiêu tháng. Nhưng bà sẽ không chết. Bà nhất định phải ngồi dậy, phải cầm cây gậy dài, xô cánh cửa buồng, nhắc lại nỗi sợ đã tan loãng chỉ mới sau bao nhiêu tháng.

Bà sẽ không chết. Dù cơn lạnh từ dưới gan bàn chân đang kéo lên. Cả một tấm mền lạnh toát đang kéo lên. Qua đầu gối. Qua thắt lưng. Qua hơn nửa thân người.

Bà không thể chết. Không đứa con nào cùng bà giữ đất. Thằng con đầu bán cả vạt cát đỡ lấy nó lúc chào đời. Thằng con thứ hai đổi những trận độ gà, chiếc xe xịn bằng khoảng đất đã bọc nó ngủ vùi.

Bà chết làm sao được. Thằng con út… Đứa con duy nhất không động vào một tấc đất. Lại không phải vì yêu thương, gìn giữ mà chỉ là vì nó không cần, không tha thiết. Dù với nơi đã nuôi nó lớn. Dù với chút hi vọng của người mẹ đã nuôi nó lớn. Nó đã có một khoảng trời.

Những đứa con của bà. Sao chúng không một lần thử lắng nghe tiếng đất?

Lụm…Lụm ơi. Đỡ bà dậy. Bà phải xuống giường. Bà phải quỳ xuống thay các con bà mà ôm lấy đất. Bà phải dùng nước mắt để làm dịu những vết thương các con bà đã đâm vào lòng đất. Bà là mẹ. Đất cũng là mẹ. Nước mắt người mẹ sẽ đắp lên vết thương trong lòng một người mẹ để cầu xin một tha thứ, một bao dung.

Lụm…Lụm ơi… Bà không thể chết. Dù chờn vờn trước bà, đôi mắt khóe đọng một vệt gì như vệt cát chảy dài kia đã khép. Và một cánh tay già nua, mỏng dính như một cành khô đang chới với giơ lên đã cứng ngắc, tự bao giờ.

Cánh tay đó, con nhỏ Lụm khùng đã nắm, đã kéo, đã lắc biết bao nhiêu rồi mà vẫn không chịu nằm ngay lại trên mặt chiếu.

“Bóp rượu là thẳng ra hết!”. Người con trai thứ hai vào buồng, chỉ liếc qua cánh tay rồi lật đật chạy ra. Ông anh đầu đang gầm rít với vợ anh ta vì dám thay yến trong chén bằng cọng đu đủ.

“Bà già còn chưa viết di chúc…”

“Ai biết! Ai kêu mấy ông chở hòm về! Tui tưởng xong xuôi hết rồi!”

Cô em dâu cũng không vừa, chống tay lên hông trừng mắt.

Ngoài căn buồng nháo nhác lên, ồn ào những tiếng chửi, tiếng la, tiếng khóc.

Còn lại trong buồng, người con trai út đang gục mặt bên giường chợt giật mình vì con nhỏ Lụm khùng chợt níu anh, kéo kéo. Ngẩng lên, tần ngần một lát, rồi anh cũng cũng làm theo nó, run run nắm nhẹ lên cánh tay đang đưa ra của người chết. Cánh tay đang cứng ngắc thình lình mềm nhũn ra, rớt xuống. Bàng hoàng, người con trai út nghe dậy lên bên tai mình một âm thanh gì đó thật khẽ mà nức nở, mà day dứt. Âm thanh hình như từ mặt đất.

N.T.K.H

 

(Nguồn: Tạp chí NV&TP)

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *