Thời sự văn học nghệ thuật

29/7
4:09 PM 2019

VĂN NHÂN THÌ HIỀN DÒNG ĐỜI THÌ XIẾT

NGUYỄN NGỌC QUẾ-Sau Tết mấy ngày, nhà thơ Anh Chi nhắn tin cho tôi: "Tết này mình vui lắm, gặp nhiều bạn bè: Nguyễn Trọng Tạo, Đào Thắng, Phạm Ngọc Tiến, Tạ Ngọc Liễn...". Tôi nhắn lại: "Dạo này ít gặp ông ở các hội nghị, hội thảo". Ông tâm sự: "Mình không ưa hội họp lắm, cũng vì bận đọc tư liệu về văn học nước nhà trước Cách mạng. Mình vừa viết xong bài về tập truyện ngắn của chị Ý Nhi, đang viết về Minh Hiệu, một nhà thơ có số phận ở Thanh Hóa".

 

Ra vậy, tuổi thất thập nhà thơ Anh Chi vẫn miệt mài đọc, viết như thời trẻ trung sung sức. Tôi gặp nhiều nhà văn đến tuổi này ngại đọc, ngại viết, coi như sự nghiệp văn chương đã hoàn thành. Tôi cũng biết số nhà thơ tuổi 70 còn say sưa sáng tác giờ có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Nhà thơ Anh Chi là người lao động cật lực cả ngoài đời và trên trang giấy. Lao động đúng nghĩa hẹp của nó: Dùng cơ bắp, mồ hôi để kiếm cơm, dùng trí não tâm huyết để nuôi "Nàng Thơ". Đó là cuộc đời của người công nhân - nhà thơ - nhà nghiên cứu Anh Chi.

Lúc biết đến công việc

Lao động mở cửa cho tâm hồn tôi.

(Từ lao động)

Nhà thơ Anh Chi ơi! Khi viết bài này trong miền ký ức của tôi nở òa bao nỗi nhớ. Nhớ thời anh em mình tuổi mới 20 sống gian lao ở thị xã Thanh Hóa ngày đánh Mỹ. Nhớ cửa hiệu sửa đồng hồ nhỏ của nhà thơ Anh Tuấn mà Anh Chi, Đặng Ái, Nguyễn Ngọc Quế ngồi nhâm nhi chén trà "3 hào" sôi nổi đọc thơ, đọc truyện vừa viết cho nhau nghe.

Những đêm lang thang dọc phố nghèo lúp xúp mái tranh từ cầu Cốc lên Rừng Thông trong tiếng đùng đoàng của cao xạ ở Hàm Rồng và ánh đèn dù ma quái của máy bay Mỹ thả. Hồi ấy Anh Chi và Đặng Ái có thơ, truyện in ở báo Trung ương, tôi và Anh Tuấn mới viết. Rồi Anh Chi đi học lớp viết văn ở Quảng Bá về làm việc ở Ban vận động thành lập Hội văn nghệ, Đặng Ái làm thợ tự do, tôi dạy toán ở cấp III Lam Sơn, còn bác Anh Tuấn là người thợ, mê văn, đánh đàn ghita điệu nghệ, hát hay. Tôi gắn bó thân thiết với nhà thơ Anh Chi từ đó.

Nhà thơ Anh Chi sinh năm 1947, ở xóm Tân An nay là phường Tân An, thành phố Thanh Hóa. Gia đình có bốn anh em, cha mất sớm, mẹ gốc người Hậu Lộc bươn chải, làm đủ việc, kiếm tiền nuôi con. Anh cả Lê Văn Chi nghỉ học ở nhà giúp mẹ, chăm em. Nhà thơ Anh Chi tên thật là Lê Văn Sen - tên loài hoa thanh khiết, yêu mến cảm phục người anh, nên lấy bút danh Anh Chi cho trang viết của mình. Năm 16 tuổi học xong cấp II, chàng trai Lê Văn Sen không theo học cấp III, vào làm công nhân nhà máy Tia sáng của Ty Công nghiệp. Anh thợ Sen ham công việc, yêu lao động, mê kỹ thuật nên chỉ vài năm đã thành thợ giỏi. Những năm 70 cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt, miền Bắc dồn tâm sức vào tuyến giao thông vùng cán xoong Thanh Nghệ. Người thợ giỏi Lê Văn Sen được điều về Hợp tác xã vận tải Quang Vinh để củng cố lực lượng sản xuất, sửa chữa các phương tiện giao thông. Ở đây Lê Văn Sen hòa mình vào cuộc sống khốc liệt, gian khổ của giai cấp công nhân trong cuộc chiến chống Mỹ thần thánh. Làm việc bằng hai, bám xưởng, bám mặt đường, người thợ Lê Văn Sen gầy sắt lại, da sạm nâu rắn rỏi, ánh mắt nheo lại tia lửa hàn sáng tắt trong đêm. Năm tháng đầy mồ hôi, nước mắt và máu ấy tôi luyện người thợ Lê Văn Sen sống bản lĩnh nghị lực với tình yêu giai cấp, quê hương đất nước. Đó là ngọn nguồn cội gốc cho tư tưởng, cảm xúc đưa người thợ Lê Văn Sen thành nhà thơ - nhà lý luận Anh Chi.

Những năm tháng đó, Anh Chi có thơ in ở báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tác phẩm mới... gây dấu ấn với công chúng. Nhiều nhà thơ ở Hà Nội yêu mến, theo dõi giọng điệu trẻ trung của cây bút mới Xứ Thanh, trong đó có nhà thơ Chế Lan Viên. Năm 1972 nhà thơ Chế Lan Viên trực tiếp vào Thanh, gặp Bí thư thị ủy Hồ Văn Huấn xin anh công nhân Lê Văn Sen đi học lớp bồi dưỡng nhà văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Quảng Bá. Năm 1973 học xong Anh Chi về công tác ở Ban thành lập Hội văn nghệ tỉnh nhà. Đây là bước ngoặt trong đường đời của Anh Chi. Từ người thợ Lê Văn Sen thành nhà thơ chuyên nghiệp Anh Chi. Từ cây búa sang cây bút, từ bàn máy tiện đến bàn phím máy tính, một quá trình lao động bền bỉ, tâm huyết của đời văn.

Năm 1978 Anh Chi đi học Trường Viết văn Nguyễn Du khóa I cùng thế hệ các nhà văn chống Mỹ tài hoa: Hữu Thỉnh, Nguyễn Trí Huân, Lâm Thị Mỹ Dạ... Học xong Anh Chi ở lại Hà Nội công tác qua các cơ quan: Nhà xuất bản Công an, báo Người Hà Nội, Tạp chí Diễn đàn, cán bộ theo dõi bồi dưỡng văn nghệ sĩ trẻ của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam cho đến ngày nghỉ hưu năm 2007.

Con đường văn chương của Anh Chi gian truân, khổ luyện, vươn lên bằng tự học. Đọc, đọc, đọc nhiều nữa là tâm nguyện của người thợ - nhà thơ Anh Chi, để bổ khuyết kiến thức mình thiếu, để vươn lên cái cao đẹp chân, thiện, mỹ của nhân loại. Anh Chi là mẫu mực của một người tự hoàn chỉnh mình cả về kiến thức và nhân cách. Ông mê cảm Êxênhin, say đắm Olga Bergon, ngưỡng mộ Chế Lan Viên, yêu mến Bằng Việt, Lưu Quang Vũ. Những năm 70 thế kỷ trước sách báo hiếm, thế mà trên giá sách của ông xếp đầy đặn sách của các nhà thơ yêu mến. Tôi nhớ hồi đó không hiểu bằng cách nào ông có được bản thảo chép tay tập thơ Loorca do Hoàng Hưng dịch. Anh Chi cho tôi mượn một ngày, bảo tôi chép lại vào sổ tay để đọc dần. Ôi cái giọng thơ mê cảm của đất nước Tây Ban Nha xa xôi hút hồn chúng tôi như moocphin lúc bấy giờ.            

Trong cuộc đời mỗi người cần có ba điều: Thầy giỏi, bạn tốt, sách hay. Anh Chi đã tìm được trên các cuốn sách hay cả thầy giỏi, bạn tốt cho mình.

Nguồn cảm hứng, hồn cốt thơ Anh Chi là từ lao động. Lao động sinh ra con người, lao động dựng lên xã hội, lao động nuôi dưỡng tình yêu mọi thời đại của cõi nhân gian này. "Lao động mở cửa cho tâm hồn tôi" và:

Lao động tôi với bạn bè

Qua đông sương gió, qua hè nắng nung.

Anh Chi là thế hệ thứ hai của giai cấp công nhân cầm bút viết về giai cấp mình. Sau Võ Huy Tâm, Nguyễn Dậu, Xuân Cang là Yên Đức, Đào Cảng, Phạm Doanh, Tùng Linh, Anh Chi... Thi cảm của họ là sự dẻo bền cơ bắp, giọt mồ hôi mặn chát, hòn than đen bóng, ngọn lửa lò nung, phôi bào nhảy múa và ánh mắt, nụ cười của người thợ. Lao động là hiến dâng sức lực, ước mơ của mỗi cá nhân với Tổ quốc, quê hương:

Là vỉa than âm thầm quyết liệt

Dâng lên đời làm xi măng

Đất đỏ quánh đòi thành gạch ngói

... Tổ quốc - chẳng thề thốt nhiều

Xin được nhận đôi bàn tay

Có vết chai cộm là điều giản dị.

(Từ lao động)

Lao động nuôi dưỡng tình yêu, gắn kết bạn bè:

Là bờ vai sát bờ vai

Là mồ hôi với mồ hôi cùng dòng.

Đọc những câu thơ của Anh Chi vừa giản dị, chân thật, nhiều chi tiết cụ thể, đời thường cho ta như được hòa mình ở một xưởng máy ồn ào, một công trường nắng nung mồ hôi thấm bạc lưng áo thợ:

Là thợ tiện bậc bốn rồi

Tôi nhìn than lửa

nhìn máy móc

thấy cửa nhà áo cơm.

Đó là bài ca lao động vang âm trong từng nhịp thở, nhịp thơ.

Đó là Tổ quốc mình rắn đanh lại

Rắn đanh lại tột cùng

Và có thể

Rung ngân lên bao cung bậc cuộc đời.

(Tiếng đào đá)

Thật cảm động khi người thợ với hai bàn tay chai cộm nhìn những tòa nhà nguy nga, cây cầu vạm vỡ, con đường cao tốc thẳng băng lại nghĩ về mẹ - người mẹ Việt Nam nhỏ bé mà vĩ đại: Mẹ là ngọn nguồn sức lực những công trình (Xưa kia).

Những năm cuối thế kỷ XX, thơ Anh Chi đã có giọng điệu riêng, cách cảm mới, mới về tư tưởng và nghệ thuật. Những câu thơ như lời thủ thỉ tâm tình mà có sức thuyết phục lôi cuốn. Đúng như nhà thơ Trịnh Thanh Sơn nhận xét: "Thơ Anh Chi thật giản dị, thật chân thành, cách lựa đề tài, lựa từ, lựa chữ cũng chẳng giống ai... Nó cường tráng và lực lưỡng, nó mãnh liệt nhưng dịu dàng. Nó là sự tiếp nối của Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Hữu Loan đấy thôi" (Dọc cánh đồng thơ).

Những bài thơ vạm vỡ, mạch thơ phóng khoáng đằm thắm tình yêu quê hương đất nước, con người ôm chứa trong các hình tượng thân quen đẹp đẽ, từ ngữ, cách ngắt câu điệu nghệ làm nên dòng chảy thơ Anh Chi. Liên tiếp những chùm thơ của Anh Chi xuất hiện trên báo chí làm mê say bạn đọc. Các bài "Đất", "Từ lao động", "Đời cây kim cang", "Tháng năm", "Thuyền than lại đậu bến than"... rồi các tập thơ "Tôi yêu" (1972), "Điệu hát" (1979), "Thành lời tôi hát" (1982), "Cây xương rồng khô khan" (1995) "Tự bạch" (2016) tạo nên vóc dáng, thơ Anh Chi. Nhà thơ Chế Lan Viên đã chép vào sổ tay bài thơ: "Thuyền than lại đậu bến than" kèm theo câu hỏi như một lời khen: "Một đời thơ viết được mấy bài như thế này?". Nhà thơ Vân Long là người kiệm lời thế mà khi đọc chùm thơ Anh Chi in ở Tác phẩm mới năm 1971 đã xuýt xoa "Giỏi quá!".

Bản thân tôi khi đọc bài "Đất" cũng sửng sốt trước mạch thơ đắm đuối, nhịp điệu thi tứ có nhiều cái mới. Bài thơ mênh mang chiều kích cỡ vũ trụ và tha thiết trong trẻo tình yêu đất đai:

Màu xanh của lá

dịu dàng

Màu vàng của lúa

ấm no

Đất sinh ra

đất cho màu sắc ấy.

Giọng điệu thơ khác với dòng thơ chống Mỹ lúc bấy giờ, nó ám ảnh người đọc:

Giường tôi nhỏ con con

Bên ngoài kia gió trăn trở

Qua những ngọn cây, qua những mái nhà

Gió chạy trong đêm bao la

Đêm bao la trong kích thước của đất.

Một triết lý nhân sinh: Con người tuy nhỏ bé nhưng là chủ thể của trời đất, là mầm sống gắn kết vũ trụ, gắn kết con người trong tình yêu đất đai.

Tôi đến nay và muôn vàn về sau

Tôi được sống trong tình yêu của đất.

Chính vì với tình yêu nồng nàn đó và trái tim nhạy cảm của mình. Anh Chi lo ngại một tương lai đầy cạm bẫy của con người. Một tương lai đa dạng, phóng túng và:

Đứa lớn dạy đứa nhỏ bằng quả đấm

Và điều tôi nhận ra rằng

Một tương lai của kẻ mạnh sắp hình thành.

(Nghĩ về tương lai)

Sợi chỉ vàng xuyên suốt hồn điệu thơ Anh Chi là nỗi buồn trong lắng êm dịu về đời người, tình đất nước. Nhớ về Xứ Thanh ông nhớ dòng sông Mã, sông Chu, dáng người cần lao lam lũ mà trung hậu. Cái bến Than đâu chỉ cái bến thuyền nơi quê hương mà cái bến đời neo đậu một kiếp người trong dòng chảy thời gian. Từ câu ca dao đắng đót: "Thuyền than mà đậu bến than/ Thấy anh vất vả cơ hàn em thương" nở sáng những vần lục bát của Anh Chi. Một bài thơ để đời của một người cầm bút:

May chưa câu ấy như đèn

Cho tôi thầm thấy mắt đen như cười

Đâu đó còn một chàng trai

Con thuyền đâu đó còn ngoài bến sông

Con sào cảm động cong cong

Cũng vít vổng và cũng mong lên bờ

(Thuyền than lại đậu bến than)

Người đi xa về gặp lại sông Chu, đầy ắp kỷ niệm, ùa vào thơ thăm thẳm niềm hoài cổ:

Ba mươi năm ta mới trở về

Bến cũ

Không gặp người xưa

Những gợn sóng lao xao hồn năm tháng

Sông Chu dài giấc mộng bể dâu

(Sông Chu)

Hồn điệu thơ mê cảm, yêu mến con người lao động chân chính, trung thực. Họ là chính cuộc đời của Anh Chi, viết về họ chính là viết về mình - Người lao động cần mẫn suốt tháng năm với cây búa và cây viết:

Cuối sông bao người kiếm cá

Đầu sông bao người đốt than

Xót xa ai nơi góc bể

Thương ai nơi chốn đầu non

Sông dài biệt tăm con cá lội

Chớp bể mưa nguồn.

(Đất)

Tình đất, tình bạn mặn mòi vào thơ Anh Chi da diết suy tư:

Thị xã Thanh Hóa dưới khung trời ấy

Và tâm hồn tôi là một bến đợi

Sóng gió khôn nguôi cả bốn ngàn ngày

(Những câu nhẩm lại)

Lời thơ tự sự, hồn thơ vừa đắng đót, vừa ngọt ngào đong đầy kỷ niệm nhớ thương ám vào người đọc nỗi buồn trong trẻo.

Hồn điệu buồn lắng ấy càng đằm thắm ân tình khi Anh Chi viết về mẹ, về vợ và đứa con thân yêu:

Không phải bà tiên, mẹ là mẹ thôi

Mẹ nuôi con bằng sữa trong ngực mẹ

Đôi tay gầy ẵm con êm nhẹ

Mẹ chở che con ngày tận, đêm thâu

(Mẹ là mẹ thôi)

Những câu thơ viết tự lòng vừa hờn trách mình vừa như tạ lỗi với vợ, với con trước bao nhiêu thử thách, cuộc sống để ai đó một mình lo toan bươn chải:

Chắc con đã ngủ lâu rồi

Em còn khâu, chắc rối bời đường kim

Thôi đừng thức mãi thế em

Đường lo nghĩ, đừng buồn phiền về anh

(Anh hay thức trọn những đêm)

Những năm tháng này nhà thơ Anh Chi sung sức, viết khỏe trên nhiều lĩnh vực học thuật, nhưng ông vẫn đau đáu với thơ coi thơ như cứu cánh tâm hồn trên cõi nhân gian. Bài thơ "Văn Thơ" in trên báo Nhân Dân chủ nhật và có mặt ở tập "Tự bạch" ra mắt công chúng năm 2016 như một tuyên ngôn về thơ của Anh Chi

Thơ dẫu viết truyện trên trời

Cũng để nói về trần thế

Trần thế nhiều khổ nạn, giặc dã

Cũng thật nhiều nước mắt mồ hôi.

Nhà thơ phải trực diện cuộc sống. Mọi trường phái cách tân, đổi mới đều lạc lõng lụi yếu nếu xa rời cội nguồn dân tộc, xa rời cuộc sống cần lao cộng đồng. Anh Chi đã viết hàng loạt bài lý luận bàn về thơ. Ông cảnh báo mọi sự mập mờ xủng xoảng đao to, búa lớn câu chữ nhân danh cái tôi nhỏ bé để đối lập với đất nước dân tộc. Ở "Văn Thơ" ông khẳng định lại chân lý:

Phận người gió cuốn mây bay

Văn nhân thì hiền, dòng đời thì xiết

...

Chữ viết trong một ngày

Văn nhân lội qua một kiếp

(Văn Thơ)

Thật là một tấm lòng và trách nhiệm của Người thơ Anh Chi với nền thơ ca Việt Nam.

Anh Chi cũng có giọng điệu riêng ở thơ lục bát. Cách ngắt nhịp, giãn câu thơ liền mạch từ sáu vắt sang tám, có khi ngắt câu tám thành nhịp 3-5 nhịp đảo phách của trống chèo truyền thống, điệu nghệ với liên từ mà, và, ấy mở tầm cảm xúc người đọc:

Con sào cảm động cong cong

Cũng vít võng và cũng mong lên bờ.

hoặc:

Tôi với Tô Lịch lúc này

Tôi hữu hạn, bỗng thấm đầy vô biên.

hoặc:

Nước non rộng lắm người ơi

Và dài tới tận xa xôi cây buồm.

Rất cổ điển dân gian mà hiện đại. Với ngắt nhịp sáng tạo 3 - 5 Anh Chi nâng đôi cánh thơ lục bát dân tộc trên bầu trời thơ Việt Nam để nói được những ý tưởng lớn:

Đưa máu yêu nước lên trời,

Làm hoa nở - ấy là đời kim cang.

(Cây kim cang)

Anh Chi viết chậm, kỹ, chọn từ độc đáo, trong gần 30 năm ông chỉ in 5 tập, trong đó có 2 tập in chung với Võ Thanh An, Yên Đức, Thạch Quỳ. Ông nhận hai giải thưởng của Tổng Liên đoàn Lao động và Hội Nhà văn Việt Nam giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1982, giải thưởng truyện dài "Buồm nhỏ" viết cho thiếu nhi của Hội văn nghệ Việt Nam 1977. Thơ là cuộc sống của Anh Chi, là nghiệp một đời lao động có đau khổ và hạnh phúc:

Thơ như người như số phận vậy

Đôi khi đẹp đau lòng như một vết thương.

(Tưởng nhớ Đào Ngọc Vĩnh)

Nhưng trường lực văn chương của Anh Chi đâu dừng ở đó. Hai mươi năm gần đây nhà thơ Anh Chi trở thành cây bút lý luận phê bình uy tín. "Một nhà nghiên cứu văn học Anh Chi đúng với nghĩa của nó" (Phạm Ngọc Chiểu). Ngót ba ngàn trang trong sáu đầu sách khảo cứu, bình luận và nhiều bài báo công bố đều đặn hàng năm khiến ta kính nể sức lao động, hiệu quả công việc của nhà lý luận phê bình Anh Chi. Anh Chi khảo cứu gì, viết gì về nền văn học, văn hóa nước nhà. Ông không đi theo lối mòn của nhiều nhà lý luận phê bình hiện nay là viết, bàn những việc, tác giả đã định danh, sáng rõ. Còn Anh Chi lục tìm trong tư liệu, phủi lớp bụi thời gian, đưa ra những sự việc, con người văn tài bị chìm lấp, quên lãng hoặc cố ý vô tình quên lãng. Những bài viết đầy ắp dữ liệu, chứng cứ, luận chứng khoa học, sâu sắc tính nhân văn.

Hãy đọc qua tập Bảy người hiền và ba việc cũ (NXB Thanh Niên 2006) ta thấy công sức nhà nghiên cứu kiếm tìm các tư liệu về tờ Tiểu thuyết thứ 5, về Lê Trang Kiều, về Quỳnh Dao. Nó thăm thẳm một miền thương cảm, ân nghĩa của hậu thế với các văn tài tiền nhân. Viết về Lê Trang Kiều Anh Chi đắng đót: "Chúng ta muốn nói với Lê Trang Kiều một câu thôi rằng những gì ông đã làm được trong suốt cuộc đời, trong suốt ngoài Nam trong Bắc, một đời hành động đâu có chết được và những ý nghĩa của nó càng không thể bị chìm vào hư vô".

Đánh giá về Hữu Loan, Anh Chi viết thật minh triết: "Thi sĩ tiền chiến Nguyễn Nhược Pháp để lại một dấu ấn tuyệt đẹp trong một thời đại thơ ca rực rỡ của nước Việt bởi 12 bài thơ. Còn Hữu Loan là một ấn tượng đặc sắc trong thời đại tiếp theo cũng rực rỡ như thơ ca Việt Nam và chỉ với 10 bài thơ".

Đọc những trang lý luận phê bình như vậy ứa nước mắt. Đó là bài thơ văn xuôi giỏi về duy lý, đẹp về duy mỹ và tràn đầy duy cảm. Duy cảm mới là hồn vía cho một bài viết ra đời đến với trái tim bạn đọc.

Xưa là cây bút cày trên trang giấy, nay là bàn phím làm cánh đồng cho con chữ gieo mầm, công sức lao động của người viết, bao giờ cũng thấm đẫm mồ hôi. Chao ơi! Nghiệp văn chương, nghề gieo chữ mới khó học truân chuyên như cày bừa trên đồng ruộng, quai búa trong xưởng máy. Thêm một mùa xuân đến, lại có những tin vui của nhà thơ Anh Chi cho bè bạn và công chúng. Ông vừa cho ra mắt tập tiểu thuyết Hành trình khổ ải đầy đặn được bạn đọc đón nhận. Một thành công mới của người cầm bút nhiều năng lực và lao động cần mẫn ở độ tuổi U70 này.

Dòng chảy văn chương của nhà thơ - nhà nghiên cứu văn học Anh Chi mới liên tục, vạm vỡ tha thiết, trong trẻo làm sao. Đó là khát vọng của mỗi người cầm bút mong sao cho mỗi con người trên trái đất này có được bến đỗ tình yêu ở tương lai đẹp hơn, thiện tâm hơn, nhân ái hơn.

Có lẽ vì tôi yếu đuối quá chăng

Hay vì mình sống thật bảo thủ

Nhưng vì yêu quý tương lai thì thực lòng tôi có

Và lòng tôi thật day dứt vô cùng.

(Nghĩ về tương lai)

Hà Nội, 2015-1018
N.N.Q.

NGUỒN: TẠP CHÍ THƠ

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *