VĂN ĐẮC MỘT MÌNH VỚI CỎ THI
Nhà thơ Văn Đắc
Đang ngồi xem chương trình thời sự buổi tối của VTV1, bỗng tôi nghe tiếng gõ cửa cộc, cộc, côc…
- Mời vào!
Cậu con trai của bạn tôi, nhà thơ Văn Đắc, xuất hiện.
- Cháu chào bác, bố cháu sai cháu mang tập thơ mới in của bố cháu đến biếu bác.
Tôi xúc động đón nhận tập thơ vừa mới ra lò, vẫn còn “nóng hổi”, mà có lẽ tôi là người đầu tiên được tặng, người đầu tiên được bế vào lòng “đứa con văn học” vừa mới sinh hạ của bạn tôi. Tại vì, hôm nay, ngay cả tác giả Văn Đắc cũng chưa được “bế con mình”, phải ngày mai hoặc ngày kia con trai bạn tôi mới thuê xe chở sách vừa in về ThanhHóa cho bố.
Tập thơ có tiêu đề “MỘT MÌNH VỚI CỎ THI”, do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Thoạt nhìn tôi thích ngay bìa tập thơ, do họa sỹ Văn Sáng thiết kế. Bìa sắc xanh nền nã, thấp thoáng những “lá cỏ thi” bay bay trong gió nhẹ nhàng (đó là tôi mường tượng như vậy).
Tập thơ được chia làm hai phần. phần I và phần II. Tôi muốn đặt cho Phần I cái tên “Lãng du”. Là vì, 40 bài thơ trong phần I này cho thấy Văn Đắc “rong chơi” từ bắc chí Nam. Từbiên giới phía Bắc, đến Việt Trì, Đền Hùng, Hà Nội, rồi vào Huế, Sông Hương, Nghĩa Bình, Phan Rang, Tháp Chàm, và sau chót vào tít tận Cà Mau để “Nhậu với người Năm Căn” vv…
Tôi vừa in tập hồi ức “Tôi và làng tôi”, cho nên tôi tò mò muốn biết, bạn tôi, Văn Đắc, bạn đồng môn xứ Thanh, viết về quê mình, về làng mình như thế nào. Có gì đồng điệu, có gì giống tôi, có gì khác tôi.Phần II của tập thơ “Một mình với Cỏ Thi” chủ yếu viết về làng, về quê Thanh. Tôi đếm: có đến 20 bài thơ viết về biển, về làng biển. Chẳng hạn: Nơi sông ra biển, Làng biển, Đi kheo, Bữa cơm người lấn biển, Lời của biển, Về cửa sông, Lời cây buồm, Ra biển, Biển và bờ, Trên cát, Hoa xương rồng biển, Cát, Thiếu nữ hát trước biển, Chuyện làng chài, Về làng, Phố biển, Một lần biển vv… Tôi xin phát biểu những cảm xúc và ấn tượng của mình về phần II này.
Văn Đắc nói rằng, nhìn anh lúc nào cũng có vẻ vui, nhưng đó là bề ngoài, còn anh có một dòng chảy rất thầm kín và kéo dài, chìm ở bên trong, đó là tình cảm quê hương và những day dứt về cuộc đời. Tình cảm quê hương của anh bắt nguồn từ Làng Triều, nơi chôn nhau cắt rốn của anh, nơi từ đó mẹ anh đã đặt anh vào một đầu gánh đưa anh đi tản cư, chạy giặc. Anh khoe với tôi, bài thơ đầu tiên anh sáng tác chính là Bài thơ quê hương, bài thơ anh viết về làng Triều, thắm đẫm hồn quê, tình quê: “Hạ buồm xuống/ Kéo trăng lên đỉnh cột/ Neo làng ta vào chân sóng vỗ/ Viết bài thơ cho buổi mai lên”. Chỉ bằng mấy câu thơ rút ruột nhà thơ đã khắc họa được bức tranh đẹp, sống động về Làng Triều, một làng quê vùng biển, nhiều vất vả, lắm nhọc nhằn – “Thương làng đỏ xọng gai tre/ Cát bỏng rộp cả mùa hè dưới chân/ Cửa sông lắm lạch nhiều sò/ Áo tơi, nón rách đi mò ốc cua…”. Làng Triều là làng biển, cát biển làđất làng, ngủ dậy là đạp chân lên cát, hồn làng ẩn chứa trong cát làng: “Cát lặng im dưới chân người/ Vốc lên nghe vẳng tiếng cười làng ta”. Hoặc: Làng ta cát nổi cát chìm/ Long lanh như mắt cát nhìn vào ta/.Trong con mắt của Văn Đắc: “Làng ở đây là phố không vỉa hè/ Sân biển rộng sớm chiều vỗ sóng/ Đời là thật đất là xứ mộng/ Đêm thuyền câu, ngày thuyền hóa con đò/. Tôi thích cách mường tượng của Văn Đắc về người đi kheo: “Chiều về/ Bác vác đôi kheo trên vai/ Và tôi thấy/ Biển nằm ngang trên vai bác/.Là người sinh ra từ làng, tôi chia sẻ và cảm thông với Văn Đắc khi anh về thăm làng sau những ngày tháng đi xa: Vùi vào chuyện quẩn chuyện quanh/ Xa quê tôi bỗng hóa thành người dưng/ Lắm khi về làng giữa chừng/ Làng gặp làng bảo quan văn lại về/ Cái làng hiền hậu thế kia/ Mà vung roi quất tái tê mặt người.
Tôi phải công nhận, Văn Đắc có duyên làm thơ về làng, mỗi bài thơ về làng của anh là một khám phá về làng, không bài nào lẫn với bài nào, bài nào cũng cuốn hút người đọc, có những câu thơ hay. Bài thơ Làng sơ tán của anh từ thời chống Mỹ, khi anh mới 27 tuổi, được giải thưởng của báo Văn nghệ năm 1969 là một bài thơ hay về làng thời chống Mỹ: Một túp lều con/ Sơ tán/ Nhiều túp lều con/ Thành làng sơ tán/ Giặc bỏ bom ngang/ Ta xây làng dọc/ Giặc bỏ bom dọc/ Ta dựng làng ngang/ Trận đia giăng hàng/ Rộng hơn vòng bom giặc/…Nhưng mẹ ơi/ Đường từ làng ta ra làng sơ tán/ Không dài hơn tấm lòng yêu thương của mẹ/ Mà ngắn trong mắt trắng của quân thù/… Như những ngày đánh Tây/ Mẹ lại đi sơ tán/ Làng của mẹ đây/ Trận địa của mẹ đây/ Cháu nhỏ trải nong trên đê nằm đếm vì sao hát/ “Một ông sáng sao/ Hai ông sao sáng…”. Đây nữa, một cảnh làng y như một đoạn thơ - phim làm tôi thích thú: “Lắm lúc tôi đi rối rít với đường làng/ Bọn trẻ hò reo: A, Ông Đắc. Ông Đắc/ Thế là cái tên thành tiếng hát/ Bạn nhỏ làng ơi, bạn nhỏ làng”. Càng mường tượng tôi càng lấy làm thích thú với cảnh này, và với những âm thanh, những ca từ “Ông Đắc, Ông Đắc”.
Văn Đắc làm thơ về thiên hạ rất hay thì khỏi phải bàn, nhưng tài làm thơ về vợ như anh thì không phải nhà thơ nào cũng bì nổi: “Khi anh đang mải nhìn cỏ may/ ngả tay ra với gió/ thì tay em đang sàng gạo/ khi anh đang nhấp chén trà như nhấp mật ong/ thì em mồ hôi ướt hai đầu vú”. Phải công nhận Văn Đắc là nhà thơ rất “thành khẩn” với vợ, nghe anh “thành khẩn” tới mức “tự thú” mà rởn cả tóc gáy: “Vợ mình không nhớ, đi nhớ người ta /Già cóc củ đế hóa ra dại khờ”. Chẳng biết bạn tôi có dại khờ thật hay không, nhưng bạn tôi nói và nghĩ về vợ như thế này thì vợ còn giận làm sao được nữa: “Ngẫm mình nhớ ngược mong xuôi/ Chẳng nơi nào được như nơi em chờ/ Lấy thơ làm của trong nhà? Buồn vui sướng khổ chia ra cùng người”. Tôi mừng cho bạn tôi có người vợ như cô giáo Khanh. Một người vợ đảm đang, rất đỗi yêu chồng, chăm lo cho chồng, hiểu công việc của chồng và cảm thông với chồng. Thực tình, đôi khi bạn tôi cũng có “say” thật đấy, cũng hơi bị “hư” thật đấy, nhưng lúc nào hắn cũng công nhận, chẳng ai bằng vợ mình. Cho nên, với Văn Đắc, tôi dám khẳng định: Dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về người vợ.
Bài “Cỏ Thi” được Văn Đắc chọn làm bài thơ khép lại toàn bộ tập thơ. Cỏ Thi chính là hương sắc của làng, Cỏ Thi chính là thi ca của làng, Cỏ Thi chính là mơ mộng của làng và chung cục Cỏ Thi chính là hồn làng: “Cỏ Thi yểu điệu mơ màng, cứ như sinh ra cho những tao nhân mặc khách phải lòng. Cỏ Thi ám ảnh lạ lùng! Một đời mơ mộng Cỏ Thi”. “Cỏ Thi từ đất trời nước lửa mà thành. Mặc cho tạo hóa xoay vần biến cải, Cỏ Thi không chết, không lẫn vào loài khác. Cỏ thi nguyên thủy ẩn dật trong đất làng. Cỏ thi gợi nhớ về một gọng vó, một lá buồm, một ngôi sao, tiếng chim vạc ăn đêm và đôi mắt người đàn bà chờ chồng đi biển…”
Tôi mừng cho làng Triều, tôi mừng cho Văn Đắc. Tại sao tôi mừng, xin hãy đọc đoạnthơ dưới đây:
“Một hôm may mắn, cô tiếp viên du lịch lấp lánh như viên ngọc trai còn ướt nước biển, đưa tôi lên trần nhà cao tầng trống choáng giữa không trung. Trời ơi, Cỏ Thi! Một khóm Cỏ Thi gọi tôi bằng tiếng lá, tiếng người trong gió biển u…u… Tôi bàng hoàng ngồi xuống, hai bàn tay cào xúc vào vỉa đất mỏng, bốc khóm “Cỏ Thi” gói vào vạt áo, trước đôi mắt ngỡ ngàng của cô gái trẻ. Tôi âm thầm mang Cỏ Thi về trồng trong góc vườn, nơi cha mẹ tôi chôn núm ruột tôi ở dấy. Ngồi với Cỏ Thi, tôi lầm rầm những lời mơ vọng… Cỏ Thi…”
Viết đến đây tôi chạnh nhớ lời phát biểu của nhà thơ Hữu Thỉnh trong buổi ra mắt cuốn “Tôi và làng tôi”: “…chỉ có hồn quê mới lưu giữ và bảo tồn được cốt lõi, giá trị văn hóa Việt một cách bền vững và sâu sắc nhất. Đánh mất hồn quê ta sẽ mất tất cả”.
Có thể khẳng định, hầu như toàn bộ sáng tác của Văn Đắc, dù là thơ, dù là trường ca, dù là ký đều nặng tình quê hương; hồn cốt xứ Thanh, hồn làng hiện lên trong từng câu, từng chữ, kể cả trong thơ tình. Văn Đắc là nhà thơ luôn luôn thủy chung với quê hương mình, luôn luôn “bám trụ” quê hương, có thể nói Văn Đắc “Thanh Hóa đến từng mi li mét”. Đến nỗi anh còn có hẳn một tập thơ với tiêu đề nghe như một lời tuyên bố: “Tôi nói, tôi người Thanh Hóa”. Trong lời tuyên bố dõng dạc này của anh tôi nhận ra một Văn Đắc đầy tự hào, đầy kiêu hãnh, đầy cương nghị với tư cách là một người con của vùng đất được mênh danh là “ăn rau má phá đường tàu”. Và đây là một minh chứng hùng hồn, khẳng định lời “tuyên bố” của anh: “Trời Thanh Hóa của tôi là cái vó/ Thả lúc nào cũng vớt được tôi lên”. Quá hay. Tôi thật sự tâm đắc, thậm chí thán phục và cảm ơn Văn Đắc về câu thơ ví von trời phú này. Đề tài quê hương định danh Văn Đắc chính là nhờ những câu thơ hay như vậy.
Tôi và Văn Đắc là bạn đồng môn. Hai chúng tôi học cùng một lớp hồi Cấp III Lam Sơn, Thanh Hóa, khi đó tên anh là Nguyễn Tiến Tới. Tốt nghiệp cấp III, tôi đi du học nước ngoài (Ba Lan), hai đứa bặt tin nhau. Mấy chục năm sau, tình cờ tôi phát hiện ra, nhà thơ Văn Đắc chính là nguyễn Tiến Tới, bạn tôi. Thế rồi, tôi và Văn Đắc, hai thằng gặp nhau như trong mộng, cả hai cùng bất ngờ, mi, tau miệng rối rít, như hai thằng con nít. Đoạn kết bài thơ Gặp bạn đồng môn, làm tặng Văn Đắc, tôi viết: “Đi tìm thời trai trẻ/ Lạc vào miền bơ vơ/ May còn rượu và thơ/ Giúp mi đi tìm mộng”. Một chiều hè dạo chơi với bạn trên bãi biển Sầm Sơn, tôi đọc lại bài thơ này, bạn tôi xúc động nói: Rượu bây giờ kém rồi, rốt cuộc chỉ còn mỗi thơ. Tôi vỗ vai anh, bảo rằng: Thơ không phù phiếm, thơ theo cậu suốt đời, kiếp này và cả kiếp sau.
Và bữa nay, mỗi lần ngồi đọc lại tập thơ “Một mình với cỏ thi”, hình ảnh Văn Đắc lạihiện ra trước mắt tôi, và tôi đích mục sở thị: Bạn tôi đang ngồi với Cỏ Thi. “Một mình với Cỏ Thi”.