TẢN VĂN CỦA LÊ HÀ NGÂN
Vanvn – Nhà văn Lê Hà Ngân, quê Hải Hậu, Nam Định, tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học sư phạm, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện dạy học và viết văn tại quê.
Đã xuất bản: Tập bút ký, tản văn Giấc hoa (NXB Hội Nhà văn); Tập truyện ngắn Gieo hoa ( NXB Hội nhà văn); Tập tùy bút Nắng triền sông (NXB Hội nhà văn)).
Giải thưởng văn học: Tập bút ký Giấc hoa, giải ba cuộc thi viết về nông thôn mới do Hội nhà văn VN và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức; Tập truyện ngắn Gieo hoa, giải thưởng Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật VN; Tập tùy bút Nắng triền sông, giải ba, viết về đề tài thương binh liệt sỹ và người có công do Hội nhà văn VN và Bộ Lao động thương binh xã hội tổ chức.
Cùng với truyện ngắn, Lê Hà Ngân yêu thích thể loại tùy bút, tản văn, và tỏ ra mạnh khi bàn về các thú chơi tao nhã. Tản văn của Lê Hà Ngân gần như truyện, hơi hướng cổ văn và giàu chất thơ ,...
Vanvn giới thiệu 3 tản văn tự chọn của nhà văn Lê Hà Ngân:
Nhà văn Lê Hà Ngân,
LÁ TRÚC CHE NGANG MẶT CHỮ ĐIỀN *
Một chiều đông, nơi vườn chùa bỗng cất lên tiếng sáo. Tiếng sáo ma mị vút cao, trong vắt ban mai, rời rợi như hoàng hôn héo úa, lúc nồng nàn mời gọi, khiến nàng bồn chồn lòng dạ chẳng yên. Tiếng sáo thôi thúc bước chân thiếu phụ tới hồ sen tự lúc nào. Người thổi sáo dường như không để ý tới thiếu phụ mà vẫn say sưa mê luyến với giai điệu. Thiếu phụ ngơ ngác rồi vụt bỏ chạy về nhà. Đêm không ngủ giai điệu của tiếng sáo vẫn ám ảnh nàng. Những chiều đông hiu hắt, tiếng sáo bên đầm sen tàn nỉ non dẫn dụ. Cũng từ đó nàng và người thổi sáo quen nhau. Đó là một người đàn ông đẹp. Đẹp trong ánh nhìn, sang trọng trong ngôn từ. Sự tài hoa không chỉ vút lên trong âm điệu mà ánh nhìn của ông khiến kẻ khác phiải nao lòng. Đi qua ngõ trúc nàng lại thẩm thỉ nhớ tới giai âm luyến láy của tiếng sáo, nhớ câu nói của bà Nội nhắc nhở cháu gái thưở nào: thanh rồi mới đến sắc con nhé! Âm thanh cất lên cần phải dịu dàng, tiếng phải thanh trong thì đời mới bớt khổ. Đàn bà mà âm thanh khàn đục hoặc the thé thì số sẽ vất vả long đong. Ngắm nhìn đốt trúc óng lên trong nắng chiều nàng lại thầm thĩ chiêm nghiệm những điều về trúc.
Cây trúc thường gắn bó với âm nhạc. Người ta nói rằng những ai phát triển bán cầu đại não trái thường có khiếu về âm nhạc mà thiên hướng nghiêng về âm nhạc phương Đông. Trong đó có tiếng ty, tiếng trúc, tiếng bầu, tiếng thạch. Các nghệ sỹ tài hoa trác tuyệt, họ khai thác tiếng trúc tới tận cùng. Khi tiếng trúc cất lên giai âm luyến láy có thể gọi người yêu. Người yêu nghe tiếng trúc lòng chợt thổn thức nhớ thương dẫu muôn dặm quan san lòng vẫn gọi lòng về cố quận. Thân trúc làm sáo, lá trúc có thể làm chiếc khèn môi réo rắt gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân ngơ ngẩn. Tiếng khèn môi từ lá trúc vút cao giai điệu đắm đuối gọi mời, thủ thỉ tâm tình dẫn dụ. Thân trúc thân tre cũng tạo lên tiếng đàn Prông pút, đàn Tơ t,rưng gợi âm hưởng hùng vĩ của núi rừng Tây nguyên. Cánh diều bay vi vút trên bầu trời mang theo tiếng sáo như khúc nhạc đồng quê vi vút hương đồng gió nội. Nhạc trúc tạo thành tiếng nhạc lòng đắm say mê luyến.
Giai âm của tiếng trúc có đủ cung bậc của cảm xúc: ai, lạc, hỉ , nộ, ái ố dục.. trúc đã đi vào âm nhạc với muôn hình vạn trạng. Tiếng tiêu của Tử Phòng vút lên làm mê hoặc quân lính, làm tan rã hàng vạn tinh binh. Có thể nói tiếng trúc là một sức mạnh huyền diệu, làm thổn thức cõi lòng, làm tan rã lòng quân làm nát tan đầu tướng..
Cây trúc là bóng hình quen thuộc gắn bó với hiền nhân quân tử. Trong con mắt của người Á Đông cây trúc là hiện thân của đất trời trường xuân. Trúc mang lại may mắn, tượng trưng cho sự vững vàng vượt qua gian khó gian. Trúc còn thể hiện sự uyên bác, trí tuệ tinh thâm, cốt cách quân tử chính trực nhưng vẫn mềm dẻo vượt qua bão tố vững vàng.
Trong ngôn ngữ văn chương người ta cũng dùng khá nhiều hình ảnh ví von bằng mỹ từ nói về trúc. Phải chăng vẻ đẹp của trúc còn biểu hện sự cao khiết tao nhã chính trực. Bóng hình trúc đã đi vào đời sống, đi vào thú vui nhàn tản của người hiền. Người ta dùng ống trúc để cắm hoa, làm ống bút như hiện thân của cái đẹp. Đêm lạnh luồn qua rèm trúc, nghe mưa lay động ngõ trúc quanh co. Thi nhân không ngủ, nhẹ cầm hồ rượu rót ra chén trúc được tiện tinh xảo rồi bất chợt cảm khải nhớ câu thơ của Ức Trai tiên sinh khi người ở ẩn nơi Côn Sơn.:
“ Trong rừng có bóng trúc râm
Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn…”
Triết lý về cuộc đời của Nguyễn Trãi thấm đẫm một nỗi buồn sâu thẳm về nhân sinh thế sự qua những chiêm nghiệm về lịch sử. Ông lánh đục về trong ẩn mình nơi rừng trúc xanh mát để giữ cho tâm hồn mình tiết sạch giá trong. Cây trúc ngay thẳng là biểu tượng của sự thanh cao cũng gắn bó với con người ngay trong ẩm thực. Bạch Vân cư sỹ đã từng đứng trên đỉnh cao của danh vọng nhưng ông lại giữ cái cốt cách thanh sạch của mình thật ung dung tự tại giản đơn trong đời sống thường nhật:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Cuộc đời như chớp bể mưa nguồn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lánh xa sự hào nhoáng của giàu sang phú quí bầu bạn với những sản vật của thiên nhiên như măng trúc, giá đông để nụ cười vẫn toả sáng trong tâm hiền sỹ.
Trúc còn có rất nhiều công dụng, nó gần giũ và gắn bó với con người đã từ rất lâu. Xưa người ta không có bút thường lấy thân trúc đập dập ra để làm bút viết. Chả thế mà khi người ta viết chữ Bút phải có chữ Trúc bên trên chữ Duột. Hoặc sau này chữ trúc bên trên là chữ Mao khi người ta đã biết dùng bút lông. Người ta lấy trúc làm giấy viết như trong Bình Ngô Đại Cáo đã từng nói: “ Trúc Lam Sơn không ghi hết tội”
Cây trúc gắn bó với con người, hàng trúc xanh tốt trước nhà còn có ý nghĩa phong thuỷ trấn trạch đem tới sự sang trọng hanh thông may mắn tốt lành cho chủ nhân..
Trúc đi vào văn chương không chỉ kí thác tâm sự mà còn là biểu tượng của đạo đức. Có biết bao nhiêu tao nhân mặc khách ca ngợi trúc gắn bó với trúc. Người ta làm thơ về trúc khác nhiều để nhấn mạnh phẩm tiết cao quí của người quân tử. Chính vì thế tao nhân mặc khách cũng rất thích vẽ và ngâm thơ về trúc. Đã từng có những trường phái vẽ trúc và thơ ngâm vịnh về cây trúc. Tôi lại nhớ tới câu chuyện của Mạc Đĩnh Chi khi đi xứ nước Tàu. Bức tranh trúc sứ Tàu đem treo sống động như thật khiến trạng ta không biết có phải mắt kém hay không mà thấy con chim sẻ đậu trên cành trúc thì lại đưa tay vồ con chim sẻ trong tiếng cười nhạo báng của sứ Tàu. Tưởng rằng ế ẩm nhục nhã cho quốc thể, nhưng ai ngờ Mạc Đĩnh Chi đã đưa tay giật rách bức tranh rồi điềm nhiên mắng: Trúc là biểu tượng của người quân tử, sẻ ( tước) là hiện thân của kẻ tiểu nhân. Quân tử làm sao để tiểu nhân đậu lên vai được. Xin hãy chém đầu kẻ vẽ bức tranh này. Sứ Tàu thấy trạng ta ứng đối như nước chảy liền xấu hổ lủi mất.
Thế mới biết rằng trúc khổng chỉ là biểu tượng của sự cương nghị xem thường phú quí, cho khí phách hiên ngang của bậc trượng phu. Trúc đã trở thành những thi liệu những biểu tượng của văn hoá phương Đông.
Trúc đi vào âm nhạc, thi ca và đi vào hội hoạ. Có những trường phái vẽ trúc hết sức ấn tượng.
Vẽ tranh đã khó thưởng thức tranh lại là một điều không hề đơn giản. Tôi trộm nghĩ rằng khi đọc tranh khó hơn đọc tiểu thuyết rất nhiều. Người ta vẽ gì? Muốn nói gì thì người thẩm cảm bức tranh phải có sự đồng điệu với hoạ sỹ thì ta mới cảm được. Chiêm ngưỡng bức tranh Ngũ Trúc của hoạ sỹ Lê Trí Dũng tôi bắt gặp gió thổi từ Đông sang Tây. Tôi nghe thấy tiếng xạc xào của lá trúc bên sông trăng lóng lánh ánh vàng, chứ không quằn quại âm thanh tiếng trúc trong những ngày giông bão. Thân cây trúc trong bức tranh vừa thẳng vừa cứng đan xen vào nhau, nương tựa vào nhau vững như một trường luỹ sẵn sàng chống đỡ phong ba. Vài nét chấm phá nhẹ nhàng nhưng gieo vào lòng người xem cái đẹp bền vững khảng khái, cứng cáp ung dung của một đấng quân tử.
Nhìn bức tranh, cảm như hoạ sỹ chớp nhanh một đoạn đời của trúc. Không ngọn, không gốc mà người xem vẫn gặp gốc và ngọn. Một kiểu tư duy rất đặc biệt chỉ riêng Lê Trí Dũng mới có. Bảo sao nhìn thân trúc mà như thấy cả cội nguồn. Cái ngang tàng tao nhã, khí phách bừng lên trong bức tranh. Nhìn bức tranh “ Ngũ Trúc” tôi lại nhớ tới câu nói của cổ nhân:
“ Mộc hữu bản
Thuỷ hữu nguyên”
Nghĩa là cây có gốc, nước có nguồn. Bức tranh trúc còn tắm màu sắc của thiền. Nhị nguyên là có đầu có cuối nhưng nhị nguyên cũng là hai đầu. Nhìn vào bức tranh Ngũ Trúc thấy bất nhị trở về vô vi. Chỉ những người có tố chất Thiền mới có được điều đó.
Ngắm tranh của hoạ sỹ Lê Trí Dũng như thấy gió ở đâu. Xin hãy nhìn bằng nhãn tâm, sẽ cảm thấy được sự vững chãi bền bỉ nghênh đón bão táp mưa sa. Phải chăng đó là sự trường tồn mạnh mẽ, trường sinh trong tranh trúc của ông.
Nhạc của trúc là nhạc của lòng. Tranh của trúc là tranh của tâm là bao điều kí thác và gửi gắm ân tình trong đó.
Chiều nay ngắm bức tranh “ Ngũ Trúc” của hoạ sỹ Lê Trí Dũng bỗng dưng tôi lại nhớ Hàn Mặc Tử đến vô cùng. Nhớ thôn Vĩ Dạ mướt xanh bóng trúc, nhớ người con gái có khuôn mặt chữ điền thấp thoáng giữa vườn xanh. …Mơ một lần đặt chân tới Huế như đã từng thương nhớ câu thơ:
“ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
(* nhan đề là câu thơ của Hàn Mạc Tử)
Tranh sen của họa sĩ Lê Trí Dũng (minh họa)
BIẾT LẤY TAY AI LÀM LÁ SEN
Gió nồm nam thổi từ biển mang theo hơi nước mát rượi của đại dương ve vuốt thì lá sen non cũng hối hả òa xanh mặt nước. Sen vẫn còn ngái ngủ ấp iu búp ngọc biếc xanh nơi đầm nước mát rượi cũng cựa mình đón nhận tia nắng ấm áp của mùa hè. Để rồi một sớm mai đi qua đầm làng ven chân sóng, ta ngỡ ngàng trước muôn vàn búp biếc hôm qua hôm kia nay tươi hồng nhuận sắc khoe hương. Mái chèo khỏa nhẹ sóng sen, cảm giác cánh tay mềm của thanh nữ gượng nhẹ đẩy con thuyền trôi mãi vào cõi hương quyến rũ đến nao lòng. Nắng tháng năm chín rực của mùa hè là lúc sen mãn khai, từng búp hồng hàm tiếu bung nở mặt đầm hoặc trong bình gốm đặt phòng khách. Đi qua khoảng nắng chói chang, gặp đầm sen trắng lòng chợt hồi sinh. Bao nhiêu cánh trắng phiêu linh tề tựu về đây dâng lên sắc trắng tao nhã tinh khiết, lòng chợt dịu lại, đứng trước sen lại ngơ ngẩn bởi vẻ đẹp thanh khiết thánh thiện đến vô cùng. Lại nhớ câu chuyện kể của anh bạn nhà văn về ao sen mà có lần mình đã từng đặt chân lên chiếc cầu nhỏ xinh vắt qua ao sen để khách văn bước qua ngắm sen vịnh cảnh. Thật kỳ lạ, ao rộng mênh mông một bên là sen đua nhau khoe sắc, nhưng bên phía ao gần chiếc cầu thì trơ trụi mặt nước mà chẳng có khóm sen nào lan sang. Ngỡ ngàng khi thắc mắc của mình được nhà văn giải đáp: rằng sen có mạch, mạch sen tưởng mềm yếu nhưng có thể ăn xuyên lan xa hàng mấy cây số vào một mạch đầm nào đấy rồi mọc thành sen. Hình như dù sinh ra từ bùn lầy tanh hôi, sen vẫn tránh xa thói tục, chọn địa linh để trường tổn. Mạch sen cứ âm thầm phát triển và lớn lên
Người đời gọi sen là quốc hoa quả không sai. Bởi sen gắn bó với người như hình với bóng. Ta quên sao được chén trà sen trong sương sớm. Đất trời se lạnh chớm đông, bên chậu thanh ngọc hương quyến ngọt, nhấm một chén trà sen lại nhớ câu cổ thi mà bà nội từng ngâm nga trong sớm mai bảng lảng.
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Nhất nhật cứ như thử
Lương y bất đáo gia
Trà sen là hương là tuyết, ấp iu chắt lọc từ những gì thượng đế ban cho con người. Này em thắt đáy lưng ong, thương nhớ ai chưa mà đôi mắt lá đào như mùa thu tỏa khói? Nhẹ tay nhẹ tay khỏa mái chèo sớm mai, nghiêng tay ngọc hồ lô vào những lá sen còn đọng sương khói. Hứng lấy giọt sương tinh túy của đất trời bơi thuyền thúng vào bờ đúng lúc mặt trời lên. Sương trên lá sen chính là giọt ngọc ướp cho chén trà thêm thanh khiết quyện hồn mây gió. Nâng chén trà sen trên tay, xin đừng vội uống luôn mà hay để hồn hoa bóng khói quyện vào lan tỏa trong hư không chút tình thu thảo. Bàn tay mềm dịu của ai kia lựa những nụ sen hàm tiếu mập mạp trước lúc mặt trời lên. Búp sen hồng xếp đầy thuyền thúng khỏa nhẹ trong gió sớm. Trà móc câu bạch tuyết sao đúng cữ, nhẹ tay tiên vén cánh sen hồng. en ngậm trà, trà ủ giữa cánh sen, hương thanh khiết nhuần đượm nâng niu ấp ủ cho trà một hương vị rất riêng bay lên bằng đôi cánh thảo mộc.
Còn gì nồng đượm hơn khi bát chè sen ngọt thanh mát từ tay người đầu gối má kề của mình ân cần đặt vào tay làm dịu đi những cơn nồng vì rượu. Chè sen ngọt ngào âu yếm nồng nàn như cậu với mợ lúc khuaya về. Khi gió se lạnh mặt hồ hạt sen già được tách ra bóc hết lớp lụa nâu trên đôi tay đảm khéo, tâm sen được thông khéo cho hạt vẫn trắng tròn vẹn nguyên. Chè sen bở tơi, trắng mịn màng quyện nước đường phèn thanh mát ướp hương bưởi níu gọi những trai xa quê nhớ vợ lúc tàn rượu, dứt men. Bát chè sen như xua đi những mệt mỏi vất vả lầm lụi đời thường, mà lắng sâu như tình chồng nghĩa vợ.
Em xinh đẹp mới về làm dâu bên nội, bữa kỵ giỗ mùa thu chắc cũng không thể thiếu món gỏi sen. Món gỏi thanh nhã được chế biến từ ngó sen trắng nuột nà, từ tôm đồng tươi rói cùng bao gia vị thơm ngậy bùi....tạo nên món ẩm thực sẽ làm đẹp lòng họ hàng nhà chồng. Ánh mắt mẹ chồng sẽ vui hơn và chan chứa yêu thương vì cưới được một nàng dâu đảm khéo. Lá sen ủ hương cốm mới, ủ hạnh phúc lứa đôi như bàn tay của tình nhân ấp ủ tình nhân, ấp ủ những nhớ thương khắc khoải. Lá sen ủ nếp cái hoa vàng, ủ rượu vò di, ủ những lấng khấng say khi nhãn chín sen tàn, ủ men đa đoan chênh chao nỗi niềm nhân thế.
Chiều nay có ai về không mà thiếu phụ đứng lặng bên đầm sen sắp tàn, ngắt một cuống sen, ưu tư bẻ nhợm, tơ sen vướng víu cứ kéo dài ra day dứt. Nàng lại bồi hồi muốn dệt cho người yêu chiếc áo lụa sen lúc đông sang. Tơ sen có ấp ủ hồn lữ thứ hay không mà sợi tơ ấy lênh đênh trong tiếng hồ đêm khuya quay quắt....Duyên phận phải chiều....này ai ơi duyên phận phải chiều í a.....
Hoa sen, mật sen, nhụy sen, lá sen, ngó sen, tơ sen....cứ ấm thầm dâng hiến cho đời hương sắc. Sen không hề luyến tiếc, dẫu mai cánh có tàn lại luân vũ để chuẩn bị cho đời một kiếp sen tươi mới khác. Sen đâu giống con người ham hố quá nhiều đời sống nhân gian. Những sân si tục lụy ái ố hỉ nộ...Những vương giả luẩn quẩn bận bịu của cõi người mà chưa đến được cõi trong.
Vì vậy vẽ hoa sen không phải là đơn giản. Ai yêu sen thì sen thấm vào hồn chắp cho cánh bút bay lên, nhưng với kẻ không yêu sen thì vẽ sen cực khó. Họa sỹ chốn kinh kỳ Lê Trí Dũng đã mang hồn sen từ độ ấy chưa trở lại đầm làng. Ông si mê bao kiếp sen tàn dãi trên màu cà phê giấy dó. Sen của ông nôn nao lòng người kẻ chợ. Ông không tìm sự tươi mởn của những khắc hoa hàm tiếu hay mãn khai, mà chọn lúc sen tàn, khổ hạnh, sen cam chịu và gân guốc, chút hết sinh lực chỉ còn cọng sen khô úa xác xơ. Nhưng lúc này nhìn dáng sen tàn khiêm nhường lặng lẽ, bao dung, không khoe khoang hãnh tiến, âm thầm ủ mầm sống dưới bùn sâu cho một hy vọng tốt tươi bật dậy cho một mùa sen tươi mới. Sen tàn mà vẫn tồn tại trong mưa gió rét mướt của mùa đông. Những bức tranh sen của họa sỹ đẫm màu thiền, nhưng không hề gợi lên sự ảm đạm thê lương mà vẫn luân hồi bật dậy phục sinh của kiếp thảo mộc rồi lan tỏa phúc sinh trong lòng người thưởng thức tranh sen.
Giê- Su đến tận cùng của cái chết ông vẫn nói với Chúa Cha trên trời: “ Xin Cha tha tội cho chúng nó”. Nếu không có giã từ sẽ không có phục sinh, con người không làm cho cái cũ, cái xấu xa thấp hèn chết đi thì làm sao có được cái mới cái tốt đẹp nảy sinh. Huống hồ trong mỗi con người lúc nào cũng tồn tại sự sinh ra và mất đi, từng khắc từng giây. Chính vì thể cái khoảnh khắc sen tàn chính là khoảnh khắc đẹp nhất tươi mới và rạng ngời nhất.
Ai có dịp tới động thiên đường chắc sẽ không thể nào quên Liên Hoa Tháp. Không có một họa sỹ nào có thể tạo ra được tháp sen như thế. Chỉ có bàn tay của tạo hóa hàng tỷ năm mới dựng lên từng sóng hoa văn, từng cánh hoa sống động và lung linh vi diệu. Ngắm bức tranh sen tàn của họa sỹ tôi lại nhớ tới câu thơ của ông anh nhà văn:
“ Khi ta sinh ra mọi thứ đã có rồi
Có tất cả những gì chưa có”
Rồi kết thúc bài thơ cũng là câu:
“ Quỹ thời gian không dùng cũng kiệt
Dưới đáy kia cái chết đã có rồi”
Vâng! Tàn rồi lại nở, luân hồi những kiếp sen... Nhìn bức tranh sen tàn mà lòng lại gặp những cụng cựa dịu dàng tươi mới dâng lên những hồng phai của sắc hương.
Chiều nay trong giấc sen mộng mị lại lênh đênh buồn.... thương nhớ đẩu đâu...lòng lại hỏi lòng “ Biết lấy tay ai làm lá sen” .....
(*Ý thơ Nguyên Sa)
Tranh ngựa của họa sĩ Lê Trí Dũng (minh họa)
DẶM NGÀN THIÊN LÝ BÓNG CÂU
Kính tặng họa sỹ Lê Trí Dũng
Người ta nói rằng trong khung của lá số tử vi có bốn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi gọi là tứ sinh, tứ tuyệt, tứ mã. Tôi chả dám nói nhiều về bốn cung ấy, chỉ xin vạnh quyện một chút về ngựa.
Nhớ câu:
“ Trên trời có đám mây xanh
Có con ngựa bạch chạy quanh gầm trời “
Câu hát ấy ngân nga ríu rít, thỉnh mời hầu đồng giá Cậu Bé về. Bởi từ ấu thơ người ta đã thích ngựa, thích vó câu khấp khểnh dặm ngàn thiên lý dìu dặt nhớ thương. Còn bây giờ người đời bỏ ngựa vì có động cơ và chạy theo động cơ. Hình ảnh chiếc xe thổ mộ dập dờn con đường ngan ngát hoa vàng chỉ còn trong hoài niệm. Ai muốn hoài cổ nhớ thương chiếc xe ngựa thuở nào, hãy tìm đến với Đà Lạt, mơ màng rực cháy sắc dã quỳ khi trời mới sang thu. Chiếc xe ngựa sẽ đưa các đôi rình nhân đến thung lũng tình yêu, qua hồ Xuân Hương sương khói, cầm tay giai nhân đỡ lên lưng ngựa như hoàng tử bạch mã thủa nào.Cái thú trên lưng ngựa đó giờ sống lại với những kẻnhiều tiền khoác áo quý tộc no đủ. Lại nhớ tới vó ngựa trên sa trường, hóa ra Huyền Đức cưỡi bạch mã. Trước khi Huyền Đức mua con Đích Lư người chủ ngựa dặn rằng: ông nên cho người khác cưỡi, đừng dùng con ngựa này luôn mà để nó hại xong một chủ đã, thì nó mới thuần và đứng số. Huyền Đức liền trả lời: ta không bao giờ làm được điều đó, dù ta mất mạng vì con ngựa này nhưng ta chưa bao giờ có tư tưởng hại người bao giờ.
Còn con Xích Thố đâu dễ để cho Quan Vân Trường cưỡi ngay. Nó chọn chủ sau khi Lã Bố chết, chỉ một mình Quan Công thuần phục được nó. Phải chăng nó chỉ chọn anh hùng. Chính nhân quân tử làm chủ. Cái đó đã hội tụ trong bậc anh hùng thời Tam quốc. Quan Công hiển thánh Xích Thổ buồn ứa lệ bỏ ăn, sau mười ngày cũng chết theo. Không trách người đời bảo là khuyển mã chi tinh là vậy. Nói đến ngựa thì không thể nào quên được Thanh Long Mã- câu chuyện chỉ là huyền thoại vì chẳng có con ngựa nào mang hình rồng. Vì có ai nhìn thấy rồng đâu, mà nó chỉ là biểu tượng cửa tứ linh trong trí tưởng tượng bay bổng của nhân gian. Nhưng về Ô Truy Mã thì vào một buổi chiều sương mù và gió bấc, lá phong lả tả cành đông, Bá Vương trong cơn sầu chất ngất, nỗi buồn vô tận não nề nhân thế, cùng dạo bước qua đồi núi hoang sơ hiểm trở. Nỗi buồn trùng điệp nỗi buồn. Chàng khóc. Nước mắt của vị anh hùng đã rơi xuống bởi lực bất tòng tâm. Chàng ngửa mặt hỏi trời ta có chí dời non lấp biển sao không có thần mã xuất hiện.? Chàng vừa thoáng ý nghĩ thì bỗng một cơn giông gió mịt mù xuất hiện. Cây trên núi ngả nghiêng, đồi núi như muốn dời chuyển, con ngựa đen hiện ra. Chao ơi nó bay đẹp như trong giấc mơ của Sở Bá Vương đêm qua. Chàng bỗng reo lên: Trời giúp ta rồi. Qủa nhiên Ô Truy mã đang đứng đợi chủ nhân từ lâu. Không chần chừ chàng bay mình lên lưng ngựa. Ô Truy hí lên một tiếng mừng rỡ, hai chân trước tung lên như tế cáo trời đất.Võ Đông Sơ truyện nhà Tống tử trận trên sa trường, máu hùng anh và giọt lệ đa tình còn thẫm đẫm trong tim. Trước lúc lìa đời chàng đã nhắn nhủ cùng tuần mã với bức viết bằng máu gửi cho người yêu Bạch Thu Hà...Từ sa trường máu lệ tuấn mã đã phi thẳng về triều đình báo hung tin. Con ngựa khôn ngoan tiết nghĩa ấy trên
đời này thật khó tìm lại. Khi người ta có chim sắt bay trên bầu trời, có bốn bánh lăn trên xa lộ thì người ta hay quên đi vó ngựa. Có ai nhớ tới vó ngựa Naponeon lừng danh thế giới, của Quang Trung miệt mài từ phương Nam xa xôi hành quân ra Bắc đánh tan giặc Thanh trong mùa xuân Kỷ Dậu năm nào? Nhưng người đời cũng dễ nhầm lẫn giữa vó ngựa của bạo chúa và anh hùng. Lại nhớ thuở nào vua Trần tiêu thổ kháng chiến đi qua miền Sơn Nam Hạ quê tôi. Vó ngựa của bậc minh quân thi sỹ đã dừng lại trên đê Hồng Đức, cảm quan lịch sử, tinh thần thân dân ùa dậy trong trái tim đế vương khiến ông thốt lên:
“ Ẩn ẩn kim ô sơn dĩ nhập
Đằng đằng ngọc thỏ hải sơ đằng “
Kim ô là hoàng hôn. Ngọc thỏ là mặt trăng, tôi cứ hiểu tạm rằng: mặt trời lặn thì mặt trăng nhô lên. Đất nước này dù binh đao khói lửa thì vẫn tồn tại muôn đời, như mặt trời lặn thì vầng trăng dịu dàng lại tỏa sáng. Linh khí và hồn thiêng sông núi sẽ chẳng bao giờ tàn lụi cả. Phải chăng chỉ có các bậc minh quân có tầm nhìn chiến lược. giao cảm với khí thiêng của trời đất mới đúc kết ra chân lý đó
Thực ra trên cuộc đời này đâu có nhiều người hiểu được tính cách, hiểu được bước chân của ngựa nói gì, nó muốn đi đâu về đâu? Ví như trên đường Hoa Dung, Tào Tháo định đi về bên trái thì ngược lại ngựa lại đi về bên phải, nên Tào Tháo mới bị sa cơ.Vó ngựa đã gián tiếp diệt kẻ bạo tàn. Vậy chúng ta hãy nhìn ngựa tung bờm trong gió, nhìn nước tế của nó, hiểu nước kiệu rong ruổi ung dung, nước đại bay như mưa tuôn khói tỏa. Ngựa đồng cảm với chủ, tri ân chủ, ngựa đưa nàng về dinh trong tiếng lục lạc reo vui của hạnh phúc. Chứ không hẳn lúc nào vó ngựa cũng gấp gáp trên chiến trường.
Chính vì thế vẽ ngựa là cả một bầu trời kiến thức. Họa sỹ kinh kỳ Lê Trí Dũng cả một đời đam mê nghiên cứu vẽ ngựa, không mệt mỏi mà vẵn đắm say với nhiều góc độ khác nhau. Ô Truy đón bình mình, Bạch Mã nghênh xuân, Tuấn Mã mơ Ngân Hà, Ô truy ngắm Kim Ô, Bạch mã ngóng sen, Mã đáo thành công. Hàng trăm bức tranh ngựa với nhiều dáng thế khác nhau, đẹp đến ngỡ ngàng đã đi vào lòng người. Phải chăng những người đam mê vẽ ngựa họ cần cù, tài hoa, năng động.. Dẫu người ta có ngồi một chỗ đi chăng nữa thì tâm hồn họ vẫn bay bổng thăng hoa như Đích Lư vượt suối Đàn Khê, như Bạch mã chảy nước mắt khóc Bàng Thống, như Ô Truy ngơ ngẩn vì mất chủ. Nếu người nghệ sỹ không thăng hoa, không đắm say thì không thể có những bức tranh ngựa đẹp. Cái tài hoa đôi lúc đã trở thành trác tuyệt bay lên từ những bức tranh.
(NCN giới thiệu)