CÓ MỘT NHÀNH HOA LỤC BÁT CẠNH TA
Tôi thưa với Vũ Cao: người Nam Định hiện có Phạm Công Trứ làm thơ Lục bát rất hay, rồi kể và đọc thơ trong các tập Lời thề cỏ may (1990), Phồn thi (2 tập, ra liền ngay trong năm 2004), nhà thơ lão thành nghe và nhẩm theo, tôi biết là ông đã đọc Phạm Công Trứ và thuộc một số bài, thì dừng lại. Vũ Cao nói ra cái câu đã quen quen: Không lẽ chỉ có Phạm Công Trứ?
Chúng tôi lại cố tìm và động viên anh em viết. Đất Vụ Bản và Ý Yên của Nam Định đã lác đác có người kể và tự nhận: Tớ là chân truyền của Nguyễn Bính đây, rồi lại đọc thơ mình viết ra, nghe cũng đường được ở chữ này từ nọ. Thật đáng mừng.
Lúc đó Nguyễn Thế Kiên quả thực, chưa là gì. Chàng trai Kiên dạo ấy mới vào tuổi băm, đang lội ruộng bùn, be tát, đang lo cày ải cày vỡ cho kịp vụ, đôi ngày tranh thủ, thì dong thuyền ngược dòng Hoàng Long, sông Đáy kiếm con cá, con tôm…
Hơn mười năm gần đây, cái danh Kiên lục bát bắt đầu có, từ lúc Nguyễn Thế Kiên đi học ở Trung tâm Bồi dưỡng Viết văn Nguyễn Du của Hội Nhà văn Việt Nam (khóa II, 2008), từ Câu lạc bộ Thơ Lục bát Hà Nội, rồi từ đẩu đâu như trên facebook và trong sổ tay của một số người yêu thơ Lục bát quê ta nữa thì phải.
Đã có người tìm đọc rồi ngạc nhiên và trầm trồ về thơ Lục bát của anh nhà quê này - hắn ở đâu ra vậy? Tôi biết Kiên cũng đã lâu lâu, bắt đầu từ một dụng ý kiếm tìm, và từ một đoạn đối thoại rồi thành ràng buộc. Tôi bày tỏ với anh em trong Hội Nhà văn Việt Nam: Hội ta nên trẻ hóa… Nhà thơ - Chủ tịch Hữu Thỉnh bảo: Chú nhận việc ở Trung tâm Viết văn rồi, chú làm đi. Công phu lắm mới tìm được Kiên đưa về, cái khóa II ấy Kiên ở tuổi 37, người cao tuổi nhất là nhà thơ Dương Danh Dũng tròn 60, mấy bạn trẻ nhất ở tuổi 22, 23.
Bảo rằng Kiên rời nhà xa quê lên Hà Nội là chim chích lạc rừng, là tháo cũi sổ lồng, là rợn ngợp mà không e sợ… đều đúng cả. Được cái là ham viết, thích tranh luận; Ít lâu sau, còn thêm một ít tham lam nữa, là đọc. Kinh Dịch cũng đọc, thơ Tố Hữu và Bùi Giáng, thơ của nhà nảo nhà nào cũng đọc. Có lúc chàng trai này như cái anh ngộ chữ, may mà được/ bị ngăn chặn là đừng tội vạ gì mà đi làm phu chữ - người ta ngẫm ra thế thì cứ để người ta nói thế, mình có bắt đầu hiểu rằng viết cũng phải công phu thì cũng hà tất phải nói theo.
* Khái quát và chi tiết
Thơ đọc được, thơ nhớ được, rồi thơ được lan truyền và cộng hưởng… là do đâu?
Là do rất nhiều lý do từ bản thân câu thơ, bài thơ…, là do cảm hứng và trình độ của người đọc nữa. Các nhà thơ và nhà nghiên cứu, cũng như công chúng, đều đã và có sự trả lời và bàn luận về câu chuyện này.
Trong tập Sáu mươi tám nhánh cỏ thi mà bạn đang đọc, Nguyễn Thế Kiên có rất nhiều khái quát về nông thôn Việt Nam ta dăm ba chục năm gần đây, về thân phận người nhà quê, về các chặng đường chiến tranh và bao cấp, hợp tác xã rồi Khoán 10, về đô thị hóa… mà dân ta đã trải, thật nhiều, không thể kể và chép ra đây cho tạm đủ được, đó là những câu những dòng như:
Mẹ ơi, đồng ruộng quê mình
Lúa khoai gánh cả chiến chinh, cơ hàn
Nước non sinh tử mấy lần
Vành khăn trận mạc thắt ngằn ngặt đau…
(Khúc 11 - Trường ca)
và:
Gió mưa bảo: Vạn đời qua
Cứ cay đắng lại sinh ra ngọt ngào
Trời thì lúc thấp lúc cao
Chỉ riêng hạt gạo thời nào cũng trong.
(Chuyện với cánh đồng - Phụ bản I)
Lục bát Nguyễn Thế Kiên khi có dụng ý khái quát, dù đã có sự chuyển giọng trình thuật, dẫu đã giàu tính biểu trưng, thỉnh thoảng vẫn phảng phất chất diễn ca.
Khái quát bằng chi tiết là cách anh cũng làm. Nếu lúc nào tác giả huy động được vốn sống trực tiếp cũng đã sẵn, đã phong phú, thì đọc lên, thấy thú vị hơn, ví dụ, anh gợi dựng gương Mặt quê ở rất nhiều trang (và bài), mà đây là một:
Nghe từ róc rách ngày xưa
Chú rô xù lách trận mưa vào nhà
Bờ tre bỏ lại tiếng gà
Giấc trưa khép mở la đà đợi say.
(Mặt quê - Phụ bản I)
Tôi muốn lưu ý: Cái cách dùng chi tiết của hiện thực và của cả trí tưởng, cả tâm trạng đặt thật khéo trong một khuôn vần lục bát nghiêm ngắn ngỡ như không thể thay được một chữ nào, mà vẫn rất dìu dặt nên có sức liên tưởng và lan tỏa… ấy là một đặc sắc của Nguyễn Thế Kiên những năm gần đây.
Có người bảo: Kiên Lục Bát đã có bài đến độ thập thành. Tôi nói: Có lẽ vậy. Nhưng lục bát là thể thơ bình dân mà cũng ma quái lắm. Nó không lừa ta nhưng ta lại cứ bị cái vần cái điệu của nó cuốn đi mê man lúc nào không biết, khiến cho mình sa vào mòn sáo và dễ dãi, thậm chí là lặp ý nữa. Đọc mấy câu này của Kiên, tôi chờn chợn, sợ tác giả bị trượt:
Đôi bờ xanh giữ mênh mông
Mùi thơm dẻo giữa bão giông bộn bề
Bến làng đằm tuổi thơ quê
Cái đêm em tắm trăng về trúc xinh.
May mà anh thoát ra được. Quý thế.
Thực tiễn thơ ca Việt Nam dăm bảy chục năm qua đã cho những người đọc mẫn cảm một ý nghĩ: Nghiêng về thời sự - thế sự quá nhiều, rất dễ sinh ra một dòng viết có tính chiến đấu cao trong tâm trạng bi tráng (có khi hơi ai oán xót xa nữa); để bút thơ dầm chân từ nhiều trải nghiệm, suy nghiệm (coi đó như là xuất phát điểm tối ưu) mà sáng tác, thì nhiều tác giả đã có một số bài được cho là sắc sảo, đạt đến tầm phổ quát nhân sinh nhân thế, nhưng chất “thơ giữa đời thường” bị vơi đi quá nhiều. Tôi chưa biết rõ là Nguyễn Thế Kiên và một số nhà thơ mới nổi gần đây có nghĩ thế không, các anh chị có ý thức tránh một lối viết dễ rơi vào các cực kia không.
Về chuyện này, ta có thể nói theo một cách khác: Thơ hay không chỉ do trái tim, tấm lòng… và bút khéo, thơ hay và để được nhớ lâu, còn phụ thuộc vào học vấn với sự lịch lãm lịch duyệt do văn hóa của cộng đồng, đặc biệt là của người viết “sinh thành” ra nó nữa.
Nguyễn Thế Kiên không phải là người hào hoa, mà là một tác giả có duyên với thể thơ Lục bát. Hơn chục năm qua vật lộn mưu sinh nuôi mình, nuôi thơ, nuôi cả vợ con và các cộng sự trong và ngoài Công ty Đất Việt, rõ là vất vả. Vậy mà té ra, phải đọc nhiều thêm, nghĩ ngợi nhiều thêm về sự đời, nỗi đời từ chính hoàn cảnh gian khó cheo leo của riêng mình, mà thơ anh có vút lên ở dòng / đoạn này, hay đằm lại, luyến láy dọc ngang ở trang kia,… thì khả năng tổng hợp - khái quát của thơ mới càng được bộc lộ và nâng lên. Đã lâu lắm tôi mới được gặp lại mẫu nhà thơ “chân đất” mà lấp lánh vẻ tinh anh, dịu dàng và sắc nhọn trong sáng tác thơ ca như Nguyễn Thế Kiên lúc này. Đây là một trong những đoạn thơ tiêu biểu của anh.
Cúi đầu thì gặp đất đai
Thời nào chả có chông gai thế này
Nước non đầy những vơi đầy
Gia tài trắng nỗi đắng cay trên đầu
(Chuyện quê - Phụ bản I)
và:
Mặt này hốc hác nhân dân
Luống cày chân đất xanh tăm tắp mùa
Mặt này cơm áo an chưa?
Lo mưa nắng vẫn chẳng chừa ngược xuôi…
(Khúc 45 - Trường ca)
Thơ Lục bát của Nguyễn Thế Kiên đang dần ổn định theo một cách riêng riêng. Nông thôn ta trong thơ anh ngổn ngang thế sự, gợi vẻ buồn thương tiếc nuối hơn là reo ca cờ trống hội hè như Nguyễn Bính thuở trước - trong đói nghèo vẫn cứ tạo ra mơ tưởng đẹp. Kiên viết thực hơn:
Tuổi làng già với đăm chiêu
Tiếng cười trai trẻ đã xiêu bạt rồi
(Khúc 4 - Trường ca)
Quả thực, đang có một nỗi đau dội lên từ những dòng thơ thế này.
* Chiêm nghiệm và thời sự
Đây cũng là một nét nổi trội dễ nhận ra trong thơ Lục bát của Nguyễn Thế Kiên.
Có lúc chiêm nghiệm, rõ là chiêm nghiệm mà đúc kết ra:
Hành trình lặng lẽ muôn phương
Mồ hôi lúa đọng thành xương cốt làng
(Khúc 21 - Trường ca)
Còn đây là lời căn dặn con trai rút ra từ thời sự:
Bên ngoài “hữu nghị” thôi con
Bên trong là những mất còn đất đai
Thủy triều đỏ trước mắt ai
Máu tiên tổ đọng bên ngoài biển xanh.
(Trò chuyện với con trai - Phụ bản II)
Và nhiều hơn cả trong thơ Kiên, là những dòng những trang chân thành, tha thiết được viết ra “nhẹ như không”, mà đọc đi đọc lại, ta không thể nào mà tách bạch rằng đâu là thời sự, đâu là chiêm nghiệm. Nếu có thể coi hai chất chiêm nghiệm và thời sự là hai đại lượng, thì chúng đã nhuần nhuyễn trong nhau, hài hòa theo phép biện chứng tự nhiên, khiến cho ý thơ, lời thơ, giọng thơ, và cả người thơ trở nên vững chắc mà vẫn uyển chuyển.
Nhà thơ viết về khúc ruột miền Trung, nơi từng được các thi nhân và các nhà cải cách xã hội ví là chiếc đòn gánh gánh hai đầu Bắc Nam của đất nước là:
Ta nhìn cát sỏi rưng rưng
Biển xanh đã uốn cong lưng đất này
Miền Trung trở lạnh chiều nay
Lại nghe thấp thỏm sông đầy biển vơi.
(Với miền Trung - Phụ bản II)
Viết như thế, mặc nhiên, tác giả đã gợi nhắc đến những cuộc chiến đẫm máu và nước mắt trên các vùng biển đảo của Tổ quốc mà miền Trung là hậu phương trực tiếp suốt hàng trăm năm nay. Còn đây là thời sự nước mình ở đâu:
Công nghiệp hóa cả cuốc cày
Khổ thân khoai lúa thợ thầy dở dang
Trong cơn quy hoạch ngập tràn
Bờ xôi ruộng mật bỏ hoang gió vầy.
(Khúc 19 - Trường ca)
Chiêm nghiệm và thời sự trong thơ Nguyễn Thế Kiên thường đi liền nhau, như cùng nẩy sinh trong tâm thức tác giả rồi cùng đồng hiện trên các trang thơ.
Trên nền đất cát xa xưa
Những nham nhở lặn vào mưa nắng đời
Rêu sân xanh cạn phiên rồi
Những gì nát vụn hết thời lại thay.
(Khúc 23 - Trường ca)
Hình như Nguyễn Thế Kiên có nói đâu đó rằng sau tập Sáu mươi tám nhánh cỏ thi này thì anh tạm dừng viết đã, để còn đọc, còn thâm nhập gì gì đó. Tôi nửa tin nửa ngờ, là vì chợt nhớ anh có mấy dòng như tự bạch - ngẫu hứng mà tự bạch, là:
Sắn khoai mọc dại ven chùa
Thơ tôi ở cữ giấc mơ cánh đồng
(Khúc 2 - Trường ca)
Ở cữ, thì chặng tạm ngơi nghỉ này chắc không lâu được. Tính tình bản ngã Kiên Lục Bát là thế, cuộc đời lại đang lắm nỗi với nhiều đa đoan nữa cơ mà!
Tôi muốn mượn cái tứ “hoa vừa đi vừa nở” của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Vâng, tôi và các bạn vừa nhặt được mà nâng lên một nhành hoa có tên là Kiên Lục Bát từ dòng chảy dập dềnh kia… Phần trên thì rõ là mướt xanh và tim tím, phần dưới chìm trong nước thì… chao ôi là là… Đừng ngần ngại nhé, tách rời cái phần bùn đất nước nôi ấy là teo tóp đi đấy thơ ạ.
Giá một số tác giả thơ Lục bát như Nguyễn Thế Kiên xuất hiện sớm hơn mà gặp được Vũ Cao nhỉ.
4h10 ngày 2 tháng 10 năm 2020
TRÍCH TRƯỜNG CA LỤC BÁT “SAU MƯƠI TÁM NHÁNH CỎ THI” CỦA NGUYỄN THẾ KIÊN
1.
Ngôi làng
Bể dâu biến cải bao phen
Tên làng vẫn cứ vẹn nguyên tên làng
Nước non thời thế mất, còn…
Làng - theo trời đất vuông tròn sinh sôi.
Muôn đời dân đặt lên ngôi
Làng là mẹ, với đất trời sinh ta.
Bão bùng, chinh chiến tràn qua
Lúa khoai làng vẫn thật thà bùi thơm.
Tên làng riêng một nguồn cơn
Mồ hôi, nước mắt trộn sương gió thành
Thế thời thay hiệu, đổi danh
Tên làng muôn thuở vẫn lành lặn riêng…
Trăm năm chép tự một miền
Mấy trang kim cổ vẹn nguyên dâng làng.
2.
Từ bến sông quê
Từ lòng sông Đáy vạn năm
Phù sa ngấn lũ hạt xuân bật mùa
Đuôi trâu hiện kiếp cày bừa
Cánh cò trắng bón nắng mưa lên đồng.
Đôi bờ xanh giữ mênh mông
Mùa thơm dẻo giữa bão giông bộn bề
Bến làng đằm tuổi thơ quê
Cái đêm em tắm trăng về trúc xinh.
Cầu ao đá nước rùng mình
Sương run rẩy đọng đầu cành dân ca...
Cõi thần tiên dưới hiên nhà
Sông Ngân mang cả trời xa đắp bồi...
Tình quê dệt tấm duyên đời
Trong veo đôi nụ mắt cười xanh mơ
Sắn khoai mọc dại ven chùa
Thơ tôi ở cữ giấc mơ cánh đồng.
Bến sông Lục bát xanh dòng
Bình minh gieo những phập phồng giọt quê...
3.
Viết ở bên đình
Mái đình lợp những câu thề (*)
Trên linh thiêng vẫn rêu bề bộn xanh
Bao nhiêu mưa nắng sinh thành
Từ nguyên vảy ngói tròng trành bể dâu…
Khói hương quánh nỗi dãi dầu
Thành tâm giọt bấc nguyện cầu xa xôi
Thềm đình nhẵn gối quê rồi
Làng trong trũng lúa dần vơi mạn nghèo.
Lúa đồng trở dạ thương yêu
Đói no canh cửi nhập theo hồn làng
Gốc đa sần nỗi cơ hàn
Lặng im cành cội đỡ ngàn mưu sinh…
Đất đai lắng lại nghĩa tình
Nuôi hoa cỏ… đợi thanh minh tự trời.
4.
Nhìn quê từ phía sân đình
Dáng đình tần tảo lúa khoai
Linh thiêng hương lửa lặng rơi tro tàn
Hội làng nhã nhạc thênh thang
Đường cày sâu lật lo toan kiếp người
Làng xanh sóng tự chân trời
Ngọt liềm hái cất nên lời lúa khoai
Đất bùn se những nguôi ngoai
Hồn quê thắp ngọn đèn chai bập bùng.
Đò chiều buộc vẹt gốc sung
Bến sông bao nỗi đục trong ngấn làng
Đổi thay dâu bể ngút ngàn
Rặng tre phất bóng miên man nỗi chiều.
Tuổi làng già với đăm chiêu
Tiếng cười trai trẻ đã xiêu bạt rồi
Khói hương thắp tự phố người
Ngàn xa đồng hiện đầy vơi nét làng.
5.
Biên bản ở đình làng
Chả cần đề tháng đề năm
Cứ nhìn dân, biết thánh thần còn linh.
Kệ ai tô vẽ cho mình
Trúc bao giờ mọc đầu đình chả ngoa.
Bao nhiêu phiên họp đình qua
Khói nhang ghi hết gần xa chuyện người.
Chuyện sinh - tử, chuyện buồn - vui
Gieo trong sấp ngửa tiền đài âm dương.
Sớ vàng - biên bản nắng sương
Hóa hồn lửa đỏ mười phương cầu lành…
Bước quê thẫm gạch sân đình
Thành di tích của chính mình ngày xưa.
Đất đai trong phía cày bừa
Hiện ngang dọc những nắng mưa thế thời
Mái xưa nhang khói lên trời
Nền xưa nước mắt luân hồi chảy xuôi.