GIỚI THIỆU TẬP THƠ “THÊM MUỐI VÀO LỜI” CỦA NHÀ THƠ TRẦN THỊ LƯU LY, PHÓ CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN HẢI PHÒNG
THƠ TRẦN THỊ LƯU LY
KHÔNG TRĂNG 2000
Thế giới của đàn bà là ngôi nhà
Thế giới của đàn ông là thế giới
Thế giới của đàn bà là ngôi nhà
Nơi ngọn lửa sáng lên mỗi sớm chiều
Để dạ dày bọn trẻ đỡ mốc meo
Nơi dàn đồng ca nồi niêu
Thường hay tự hỏi:
Vì sao chỉ có lò vi sóng là được hát lúc nửa đêm
Ông chủ đã say mèm
Lùa bát canh hâm nóng yêu thương xuống tận cùng tì vị
Ngôi nhà mùi quả chín rữa cuộn lên
Hỡi làn gió thơm thoảng trước hiên
Mười sáu tuổi, em vầng trăng cao ngát
Khát vọng mịn màng áp mặt
Hai mươi năm dịu dàng thành quá khứ
Trăng ư? Hành tinh trần thế thiếu ô xy
Ánh sáng toả quanh mặt tối gồ ghề
Tìm gì, ơi phù vân những nẻo vợi xa
Tình yêu đừng như tiếng thở dài quạnh quẽ
Đêm cần trăng và chiếc đinh tường nhà cũng muốn nở hoa.
NGƯỜI KÉO ĐÀN RONG BÊN SÔNG TAM BẠC
Trăm năm sông trôi rêu mờ bờ đá
Thoáng bóng người kéo đàn rong nỉ non con nước níu nương
Váy quai cồng tha hương
Mẹ đem ước mơ làng đắp cuối nguồn Tam Bạc
Vật đổi sao dời mẹ sang kiếp khác
Thương con váy hoá cánh buồm
Sợi gầy dây vĩ người kéo đàn rong
Màu sắc bức sơn dầu ngậm âm thanh tổng phổ
Một Hải Phòng kềnh càng mang thai sinh thành Tam Bạc phố
Người kéo đàn rong bìu díu khúc sông này
Những ngôi nhà Tam Bạc đứng mong ai
Tiếng dây ngân tỏa thịt da mát mẻ
Phố nghiêng bóng đổ
Dán lên võng mạc mình bóng người kéo đàn rong.
ĐI TÌM SÔNG DÂU
Sông như dải lụa bay ngang bầu trời
Thành cổ im lìm nổi chìm huyền hoặc
Áo mớ ba tự ngàn xưa gió phất
Vạt chao nghiêng dậy sóng Ngũ Hồ
Cánh trầu cong têm thắm chuyện xa xưa
Người dứt áo đào về triền sông Dâu* bãi hẹp
Gieo làn điệu cung đình nảy hạt
Giọng tía gác son
Giọng xanh bến nước
Con tằm nghe hát nhả tơ mềm
Người hát người nghe bện lòng khăng khít
Giai điệu nào cùng mở hội tình nhân
Bắc thuộc nghìn năm mờ tỏ vết Luy Lâu
Cái đẹp mong manh e sợ tường thành pháp trị mà bay mất
Phải sông chìm vào hơi thở, trong huyết quản người Kinh Bắc?
Ngọt môi người ngân mỗi nhịp í a
Quan họ mênh mang nuôi hồn Việt hồng hào châu thổ phù sa.
----------------------------------------------------------------------------------------------
(*) Sông Dâu là một dòng sông cổ tại vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, nay đã bị bồi lắng. Sông Dâu gắn liền với sự phát triển của vùng Dâu - Luy Lâu, thủ phủ của chính quyền cai trị phương Bắc thời Bắc thuộc và trung tâm Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam
CÁT VỌNG
Con nhớ cha
Nỗi nhớ biển xanh ăn nhập với nắng vàng...
Ở nơi ấy sạch trong và ấm áp
Nắng kiên nhẫn soi vào con nhận thức
Biết mình là hạt cát của đại dương
Vẫn cát thôi, nhưng hạt cát sinh linh
Lăn theo gió bồi nên cồn, nên đụn
Cát đồng vọng với gió tràn, nắng rướm
Cộng hưởng cùng ào ạt sóng triều lên
Vẫn cát thôi, đã nhận vía nhập hồn
Cát đằm thắm của thiên nhiên tươi thắm
Nơi tình cha như biển lớn bao dung vô tận
Giấu lo buồn dưới thăm thẳm sóng xanh
Chỉ cát thôi mà cộng hưởng long lanh
Ủ nồng ấm trong lòng sâu biển biếc
Cho dẫu đêm về, biển xanh nắng tắt...
Dư nhiệt còn ấm mãi cát mồ côi.
ĐỀN MẪU *
Lặng lẽ…
Dòng Nậm Thi rủ Hồng Hà cuộn xuôi biển lớn
Đền Mẫu- Hồ Kiều ngàn năm soi bóng
Thởi gian trôi bên mốc đường biên
Cửa Mẫu mở ra một khế ước tâm linh
Cương thổ Hoàng triều còn thẫm bóng vọng phu hoá đá
Phù sa…
Không gian nặng đằm sứ mệnh
Ngút trời hoa gạo
Mướt mát bãi đồng ngô lúa hát
Chăm bẵm vạt tre ngà chờ dũng sĩ rượt qua
Trùng trùng gió
Cỏ hoa không ngã rạp
Cây sum suê- dáng Mẹ muôn đời
Vươn trời nâng đài thiêng- Nước Việt
Bóng nhân từ che chở đất sinh sôi
Từ tâm linh nơi đây đến Trường Sa sóng vỗ
Gió đại ngàn vần xoay lịch sử
Hồn dân tộc bốn ngàn năm hương khói gọi về
Ngùn ngụt hoá…
Ngang trời hào khí
“Vững âu vàng”, sông láy điệu văn xưa.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đền Mẫu Lào cai toạ lạc tại điểm đầu cầu Hồ Kiều- khu vực hợp lưu hai dòng sông Nậm Thi và sông Hồng chảy vào đất Việt, cũng là điểm cột mốc biên giới số 102 giữa Viêt nam và Trung quốc
NHÀ ỐNG
Tầng một lên tầng tư
Em sở hữu khoảng không gian hẹp mà cao
Chạy nhanh dây quần áo tầng tư vẫn ướt
Mưa chẳng bao giờ báo trước
Trời bình yên mây cũng bình yên
Nắng mỗi ngày đắp đổi yêu tin
Cơm đúng giờ anh về đúng bữa
Hôi hổi gạo thơm hương tỏa
Trời bình yên mây cũng bình yên
Bất ngờ chẳng thủy triều, bất ngờ chẳng trăng lên
Em ngoảnh mặt chợt con tim thấu tỏ
Gió phiêu lãng rải bùa ngoài khung cửa
Mắt anh sóng sánh mắt ai chìm
Từ tầng tư
Hụt nhịp trái tim
Quả táo Newton rớt về cội buồn truyền kiếp
Cái kiến chạy mưa leo dọc
Hạnh phúc hẹp ngang - nhà ống bốn tầng lầu
Ngôn ngữ lập trình rồi cũng nát nhàu
Nhiều hiện đại đã trở thành cũ kỹ
Để lấp đầy những trống trải của không gian vật lý
Thử thả vào đây đôi câu lục bát nhé anh:
Hơi người thân thiết nuôi mình
Làm tươi tắn cả chiếc đinh trên tường.
NHƯ ÁNG MÂY TRÔI
Cha mẹ già là những áng mây trôi
Trôi qua bầu trời
Trở mùa gió thổi
Ký ức nóng ran rụng vào chân tóc rồi dần dần nguội
Những tổn thương cứ trẻ nguyên sao chẳng chịu già
Dường như là chẳng có đúng có sai
Chỉ còn phù hợp hay không phù hợp
Mắt mờ tìm rờ bơ phờ trang sách
Con chữ hay con cháu mình ở đâu
Di sản ngang vai
Gồng gánh thiên nhiên gió mây nhặm nhuội
Mong nước sạch đất lành từ tay đau chân mỏi
Tiếng rên rẩm là dân ca, cầm nhịp là xênh phách gõ trong xương
Thương mẹ cha con nối mạng wi-fi từ những đám mây xuống những con đường
Để không lạc tuổi già thời hội nhập.
KÝ ỨC
Khe khẽ cho mặt trời ngủ thêm
Ban mai thì thào...
Nhón nhén bàn chân
Tóc mai xòa rối
Ta - đứa trẻ tập lo toan như chim bay chuyền
Vật chất và tinh thần, thực phẩm và nhân phẩm
Cất cánh thì ngờ bước chân thì lấm
Ký ức in hình một đứa trẻ rong chơi
Lấp loáng mắt xanh
Bình minh ngõ vắng
Chạy rong bờ sông
Tinh sương thinh lặng
Lá phượng vân vi gió vờn mắt thẳm
Côn trùng vo ve kéo vô thức dưới chân lên ý thức đỉnh đầu
Sâu đo quăng mình đi đâu
Từ ngọn xanh này đến gốc già kia là nhị nguyên hay tam đoạn luận?
Mùa cạn
Loang vệt muối
Mồ hôi trắng áo thợ xanh
Sông Lấp chắt mình từng giọt
Qua đập Tam Kỳ về biển biếc
Yêu hạt phù sa vịn kè nghiêng bịn rịn
Thuyền mỏng xoay ngang, đá tảng gập ghềnh
Ta nương náu vào hoa phượng tháng năm
Nhịp sang mùa
Náo nức chân sáo nhỏ
Chợ Sắt nhón qua...
Gót nhớ lại quay về
Sông giờ ăm ắp, trời óng tiếng ve
Nước ít vào ra, chậm về biển biếc
Đâu rồi dòng nước hồng hào mịn phù sa ký ức
Từ siêu thực bồi đắp vào hiện thực
Hoa phượng đỏ dưới trời, đỏ cùng máu trong ta.
MƯA QUẢNG CHÂU
Cơn mưa ngậm ngùi tưới vào ngẫm ngợi
Cho ta thấy con đường mờ nhòe như từ trong tranh lụa vẽ ra
Mặt trái phồn hoa
Vẫn lam lũ xé giằng giữa văn hóa tinh thần và văn minh vật chất
Xoan cũng tím ngay cả vùng đất khác
Hoa gạo nở đầy trời đâu chỉ cố hương ta
Cơn mưa Trung Hoa
(Ôi! Giá đừng vấp vào lịch sử như từng cơn nấc cụt
Biên giới phía Bắc, dàn khoan HD 981…*)
Sóng Châu Giang vỗ vào lòng người vồ vập thế kia...
Mình mang sang đây hơi ấm người từ Việt Nam qua
Hiện đại non tơ xòe trên mái si già
Giầy thể thao váy model cao ốc
Quảng Châu mưa tươi răng trắng mắt đen triết học
Khổng Tử hay Lão Tử dưới mái phố cổ kia cười nói rõ nhu hòa.
------------------------------------------------------------------------------------------------
(*) Chiến tranh biên giới 1979, vụ dàn khoan HD981 Trung Quốc đưa vào vùng biển Việt nam năm 2014
PHẦN CÒN LẠI CỦA THIÊN NHIÊN
Ngày qua ngày dòng Cấm nặng phù sa chảy vào hồn vía dân gian bức tranh thủy mặc
Vẻ đẹp ấm no ngàn đời mùa màng trĩu hạt
Vẻ đẹp lịch sử chống ngoại xâm bão tố can trường
Vẻ đẹp ngày nay khu công nghiệp xanh soi mình bóng nước…
Con trai Yết Kiêu ngực vồng sóng biển
Con gái Thủy Nguyên eo gió trùng khơi
Doanh nhân hữu duyên Kiền Bái nắng đất đai và gió biển mặn mòi
Dệt khát vọng từ muôn triệu đường tơ ân tình, con ngưởi cùng thiên nhiên giao hảo
Biết trồng cây để biết yêu thương đồng loại
Biết gieo hạt cho mùa vàng lúa nặng bông
Biết nhìn sâu vào thiên nhiên nên thấu hiểu những nỗi lòng
Trái đất luôn thích đôi chân trần nhón trên cỏ non lá mướt
Làn gió thích chơi đùa với mái tóc mềm trí tuệ hơn mũ sắt lì lợm gồ ghề
Và tận cùng của sự kiếm tìm
Ơi những chú chim bói cá rực rỡ ánh kim
Không chỉ là cá đâu
Từ cặp mỏ sẽ có nhiều hơn những gì mặt nước mênh mông mang lại
Sứ mệnh xanh, mảng trời cao sải cánh qua sợ hãi
Chính trị thành triết học giúp cho loài người tồn tại
Là phần còn lại của thiên nhiên.
RU LẠI SA PA
Sa Pa nhà thờ cổ
Linh hồn muôn năm trong mây xám dõi nhìn
Công trình mới như đứa con cùng huyết thống
Vi vút sáo Mèo chẳng làm mềm từng mảng cứng bê tông
Dị tật ngổn ngang
Nắng gắt quảng trường …
Ta tìm lại Cha Pả nơi đứa bé H’ Mông
Không nói lời bán mua trong veo đôi mắt biếc
Sa Pa ngợp mây, Sa Pa cổ tích
Giao hưởng bốn mùa cuốn theo bước em qua
Núi non thác ghềnh như là rồi lại chẳng phải là
Ai mà biết ai đang hài lòng hay tức giận
Văn minh 4.0 khô khát những hoang sơ
Tiếng thở dài trong gió chuông xa
Mây quẩn Hoàng Liên Sơn nắng ngớt
Ru Sa Pa, ru cả nỗi niềm…
SHANGRI-LA
Ta mang gì đi Shangri-La
Miền đất hứa ngọt ngào huyền thoại
Bầu khí quyển thiếu ô xy đỡ nâng vồng ngực mỏi
Hay trái tim xơ vữa ưu phiền
Cho ta gần thiên đường hơn?
Ngọn Tuyết Sơn ảo ảnh sờn mòn
Rực rỡ thăng hoa dối lừa cảm xúc
Tình yêu ai thiên táng, tình yêu ai thuỷ táng
Liệu có nghỉ yên trong ẩn ức
Sau bức tường trắng răng cưa và rặng cây già
Hạt xá lị màu gì sau mỗi chuyến đi xa…
Shangri-La*
Làn da đất nâu an nhiên ước cầu hạnh phúc
Vận mệnh huyền vi
Đường chân trời đã mất
Thấy được gì
Tường trắng mái đao cong
Bản thể nguyên sơ giữa ngàn mây biếc xanh và thảm lá phong vàng.
--------------------------------------------------------------
*Shangri-La: địa điểm được miêu tả trong tiểu thuyết “Lost Horizon” của nhà văn Anh James Hilton xuất bản năm 1933, thuộc Trung Điện tỉnh Vân Nam. Shangri-La được hình dung như một vùng đất hạnh phúc vĩnh viễn, biệt lập với thế giới bên ngoài.
THÀNH PHỐ, PHƯỢNG VÀ CÁT
Chẳng ngắm nhìn lâu
Biết bóng dáng cuộc đời mình trên nếp hằn khuôn mặt bạn
Biết phong ba tràn qua cay đắng
Sau điệu cười dịu ngọt dường kia
Thành phố nơi chúng mình được sinh ra có những con đường nương theo chiều
gió biển
Hàng cây nghiêng ghé mái hiên nhà
Từ khoảng lặng nốt trầm lòng canh chừng hướng bão
Lá tơi bời, gió ào vào khoảng trống kiếm tìm ta
Phượng đỏ hun hút trút hồng hào về chân trời xưa
Dã tràng duy lý hay duy tình say mê muôn thuở
Mùa hạ cuối cùng chia tay tóc xõa
Nắng gắt sân trường, sỏi đá hóa đơn côi!...
Cánh phượng lăn lóc lấm lem mê đắm của tôi ơi!
Ta đi tìm, sách bút mỏi mòn u mê kinh điển
Đám mây ưu phiền trôi qua đơn giản
Bộn bề học thuyết phong quang
Hạt cát nào ẩn tàng năng lượng Big Bang
Tự thêu cánh phượng hồng từ muôn vàn đầu tơ mối chỉ
Chắt dè niềm tin cho mặn mòi kết tinh thành muối bể
Con còng mới của triệu năm biển cũ
Những hạt cát lại nở sinh, cộng hưởng âm vang với lớp lớp sóng trào.
TRUNG DU
Chạm vào trung du vòng bánh xe đầu tiên
Viên sỏi cằn đầu tiên văng vào tiềm thức
Đất đỏ quê cha đỏ trong từng thớ thịt
Giọt mật nuôi mình ngọt xuống gót chân
Mười hai phiến cọ non xoè bung từ gốc già lên ngọn thời gian
Đọt cỏ gianh thơm chuồn chuồn nhấp gọi
Ngũ sắc bồng bềnh hương hoa cổ tích
Lá sắc tay mềm mẹ nhắc mải quên
Ta lớn trong mắt người cơm áo bạc nỗi lo
Đất trung du cằn, nước chảy xuôi tìm về miền khác
Heo hút khói lam lần mò vào vui buồn quên nhớ
Nụ cười vùi âm ỉ tàn tro
Lịch sử cắn răng nhè ra hơi khói sương phủ chiều mờ mái cọ
Bủ trở tay thềm nhà hong nắng ứa
Nếp thời gian hằn mặt nước sông Thao
Vân đá lát sân ga mòn dấu chân người những chuyến ly quê
Nỗi nhớ trung du gửi lại tán bàng xanh mải miết
Trung du đá ngân nga từ tiền kiếp
Trung du trăng mê man dàn ngợp mây trời
Trung du suối như lòng ta í a biển lớn
Trung du gửi ba-zan hồng ấm gốc lúa bờ ngô
Mùa vàng từ ý nghĩ thành thảo thơm trong bát
Cái bát nhân gian không đổ vỡ bởi từ trường trái đất bao giờ
Vườn đêm trở mình giữa hai nhịp còi tàu khuya khoắt
Trái lỗi thời rụng rồi, trái chín tiếp đượm hương
Ta có thành người ta, mây trên trời ngũ sắc
Ai thấy tên mình treo vòm lá biếc trung du.