NHỮNG TIÊU ĐIỂM THẨM MỸ THƠ TRỊNH CÔNG LỘC
Nhà thơ Trịnh Công Lộc
Thơ Trịnh Công Lộc là sự hòa quyện những cảm hứng lớn về nhân dân, đất nước, dân tộc cùng với cảm hứng thẳm sâu về thiên nhiên, về tình yêu và môi trường sinh thái thông qua cảm thức hiện sinh cá nhân đầy thao thức và trách nhiệm. Chính cái tôi nghệ sĩ và cái tôi công dân thông qua những trải nghiệm, kiếm tìm từ cuộc sống thật đó đã làm nên chất thơ và hồn thơ Trịnh Công Lộc.
Trịnh Công Lộc duyên nợ với văn chương từ những ngày đang là sinh viên Văn khoa trên giảng đường đại học Sư phạm Hà Nội. Từ đó, thơ ám ảnh và để lại dấu chỉ định mệnh thi ca trong tâm hồn anh, thôi thúc anh cầm bút cho đến ngày hôm nay. Và anh trở thành nhà thơ Việt Nam với đúng danh nghĩa và số phận mà anh không phải ân hận hay thanh minh gì thêm. Duy chỉ có điều là anh luôn trăn trở và tự vấn rằng mình đã làm gì được cho thi ca.
Những bài thơ đầu tay viết và được in trên báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội từ những năm 1972 - 1973, được phổ nhạc cùng thời điểm đó, nhưng mãi đến 2011, anh mới cho ra mắt tập thơ đầu tay Cánh buồm nâu. Âu đó cũng là sự thận trọng và khiêm tốn của người thơ như chính anh tự nhận “Vẫn biết mình nho nhỏ/ Cứ thế này/ Chầm chậm về sau”(Nho nhỏ thôi). Chậm nhưng không trễ trong dàn đồng ca thơ hiện đại Việt Nam sau đổi mới (1986). Sau đó, anh có hai tập thơ liên tiếp ra mắt độc giả: Mộ gió (2012), Mặt trời đêm(2014) đậm chất sống thật, được bạn đọc và đồng nghiệp đánh giá cao. Và còn nhiều tập bản thảo nữa sắp ấn hành. Đó là niềm vui lặng thầm nhưng mãnh liệt của một hồn thơ không chịu bình lặng trước hiện thực cuộc sống đang cần nhà thơ đồng hành để vui buồn chia sẻ và thông diệp.
Có thể khái quát chất thơ của hồn thơ Trịnh Công Lộc như sau: Anh luôn hướng tâm hồn mình ra tha nhân và bình tĩnh nắm bắt, đồng cảm với những ba động của cuộc đời để thể hiện chúng thành những thếgiới nghệ thuật thơ thấm đẫm chất đời tư - thế sự, bằng chất liệu ngôn từ cũng gần gũi, chân thật, đầy chất phản biện, nhưng có lúc không kém phần ảo diệu, lấp lánh chất nhân văn. Đó chính là sự hòa quyện những cảm hứng lớn về nhân dân, đất nước, dân tộc cùng với cảm hứng thẳm sâu về thiên nhiên, về tình yêu và môi trường sinh thái thông qua cảm thức cá nhân đầy thao thức và trách nhiệm của nhà thơ. Chính cái tôi nghệ sĩ và cái tôi công dân thông qua những trải nghiệm, kiếm tìm từ cuộc sống thật đó đã làm nên hồn thơ Trịnh Công Lộc vừa hiện thực vừa lãng mạn; vừa chân thành, cụ thể vừa triết lý, ảo diệu:
Mọi người ơi
đừng cố chấp làm chi
Có lúc lên cao, có khi xuống thấp
Nho nhỏ tôi- đã ra ngoài thứ bậc
Sao vẫn gập ghềnh, vẫn cứ bấp bênh
Nhưng dù sao, vẫn là phía cuối cùng
Chầm chậm đến - bớt ồn ào, inh ỏi
Nho nhỏ thôi để dễ đi, dễ nói
Để mọi người
dễ nhớ
dễ gần nhau!
(Nho nhỏ thôi)
Trịnh Công Lộc thường kiến trúc trục không gian - thời gian nghệ thuật một cách ảo diệu gắn liền với ký ức tâm hồn giàu biến thái của anh khi nghĩ về tình yêu, thiên nhiên và đất nước: “Sông mênh mông, người không trẻ lại/ Người yêu như sông, sông mãi không già ” (Hai phía một đời sông). Nghĩ về thời gian, anh lại nghĩ đến những gì cao hơn chính nó để rút ra một triết lý khác:
Nếu còn mỗi ngày trang sách
thì đâu khó nhể bấc đèn
nếu còn tình yêu soi tỏ
thì đâu có ngại bóng đêm
(Vẫn biết Sơn Tây)
Vậy mà những hiện thực đời thường lại không hề nhỏ nhặt. Nó chính là nguồn sống của thơ và đến lượt mình, thơ nói lên phận người lam lũ: “Than vẫn là than cháy/ Biển vẫn là sóng xô/ Sóng than và sóng biển/ Sóng cuộn trào trong thơ” (Phận người biển trọ).
Từ hiện thực cuộc sống đời thường, đi vào thơ Trịnh Công Lộc, nó thành tiêu điểm tư tưởng thẩm mỹ cho thi phẩm để truyền sang người đọc những suy tư mới mẻ:
Có thể là tôi
người về phía cuối cùng
Kết cục là không, như bao nhiêu người khác
Không danh giá và cũng không tiền bạc
Thả vô tư
bay xuống
đậu vai người.
(Đâu đây...)
Những bài thơ nghiêng về cảm và luận cũng được Trịnh Công Lộc thổi vào chúng những suy tư thâm trầm, khiến người đọc liên hệ đến những gì đồng nghĩa với những quy luật đời thường xảy ra chung quanh mỗi người, nhưng nhiều lúc họ vô tình không để ý đến:“Cánh buồm như tờ lịch/ Phố thợ như kim đồng hồ/ Gương than như trang sách” (Đường nét của than).
Đã hiện ra những cánh buồm nâu
Không gian giăng tơ lấp loáng
Chim gáy mùa thu bay buổi sáng
Sông xanh đậm buổi chiều
(Cánh buồm nâu)
Chính thiên nhiên thông điệp với con người bằng ngôn ngữ không lời sâu thẳm: “Người ở núi, ở rừng/ Ăn, biết nhìn người/ Chào, không cần hỏi/ Nói một câu/ thật một đời” (Nói một câu thật một đời).
Trịnh Công Lộc thường phát hiện những điều mới mẻ trong hiện thực bình thường, nhưng lại nâng lên thành những tín hiệu thẩm mỹ mới cho sự vật và hiện tượng: “Sóng như làn tóc rối/ Tóc biết hát tình ca…/ Hoa sữa thơm, đêm về/ Cầm đắm say đi trước” (Vẫn cứ là Hà Nội…). Những phát hiện bất ngờ như vậy xuất hiện rất nhiều trong thơ Trịnh Công Lộc:
Đêm câu hát trải tóc
Dịu dàng rồi buông lơi...
Một cõi riêng Kinh Bắc
Đêm say đỏ môi trầu
Nhặt thêm vầng đắng đót
Bỏ vào trái tim nhau
(Nhịp cầu Kinh Bắc)
Thơ anh không mới về thể thơ và hình thức biểu đạt. Anh không chạy theo mode, không làm dáng trong câu chữ, nhưng thơ anh có sức ám ảnh lớn về sự sống thật của cõi người qua cách tổ chức ý thơ và tứ thơ cùng việc vận dụng vốn ngôn ngữ giàu tính hiện thực tâm trạng và hoài niệm: “Sông nào nước chảy lơ thơ/ Người nào năm ấy đôi bờ lạc nhau?” (Sông Thương). Ở đó, anh soi vào chính mình trước khi nhìn ra tha nhân để nhận ra những ân nghĩa quanh đời:
Ngày ơi!
ngày là đòn gánh
gánh lên tất cả mà đi
đời ta
bao nhiêu phải gánh
có khi
không gánh được gì!
(Ngày gánh…)
Dẫu là thời đại mạng và kỹ thuật số, trái đất là một thế giới phẳng (the flat word), là làng toàn cầu (the global village) thì con người cũng cần sự gần gũi và nhân hậu giữa “cõi nhân gian bé tí” này như những sợi dây tình cảm thiêng liêng, bền vững nhất:
Thông tin mạng
Thế giới mở từ 10 ngón tay
nhưng mỗi ngày
cứ vơi đi vị ngọt
vơi đi chua chát
vơi đi đắng cay
vơi đi bóng mát
cạn đi
cái riêng có của mình
cạn đến lạnh lùng, tẻ nhạt
Thế giới 10 ngón tay
Cần, rất cần mở toang thế giới
Nhưng cần hơn
sự nồng ấm con người!
(Điện tử toàn cầu)
Bằng vốn sống thực luôn được soi chiếu qua những quan hệ đa dạng có thực của chính người thơ; đặc biệt là với vốn kiến thức sử học, văn hóa học, xã hội học và cũng như cách huy động hình ảnh thơ, liên tưởng thơ ảo diệu, làm cho hiện thực cuộc sống và tâm trạng luôn xao động giữa các phạm trù sống - chết, giới hạn - vĩnh hằng, cái thoáng chốc phù du - cái thiên thu bất tuyệt. Và sau tất cả những xao động đó là khát vọng hiện sinh đầy trách nhiệm của những con người biết sống, qua sự đối chiếu với thiên nhiên và thời gian khách quan thường nghiệm:
Đại ngàn
Nắng,
thành máu của đất
Mưa,
mồ hôi của rừng
Suối,
nước mắt của mây
Đá,
tóc trắng của trời
Thác,
tiếng của núi
Voi,
tiếng của sông
Đại bàng,
tiếng của gió
Cồng chiêng,
tiếng của người
(Đại ngàn)
Nhìn thời gian trôi, nhà thơ lại nghĩ về bốn mùa vần vũ đi qua làm nên sự sống thật trong mỗi một con người, dù những bước đi không ai đếm tuổi: “Bước chân không có tuổi/ Hào phóng mỗi bước đi/ Con đường như nhàn rỗi/ Cỏ đôi bên xanh rì”. Nhưng không gì cưỡng lại được quy luật khách quan của tự nhiên và con người:
Bước theo hoa theo trái
Bước theo gió theo mưa
Bước thiên nhiên trời, đất
Cứ xênh xang bốn mùa
Em ơi, đừng vội trách
Mùa này sang mùa kia
Mùa nào anh cũng đợi
Đợi em…
mùa lại mùa…
(Sang mùa)
Ngày vĩnh biệt mẹ, anh viết: “Như mẹ đã “trốn” con về chín suối/ mẹ không muốn sợi dây buồn tủi, níu vào con/ nhắm mắt không đành”. Nhưng có một thực tế mất mát, đau thương lớn hơn sự thật luôn ám ảnh trong anh:
Mẹ đi rồi
con biết hỏi về đâu
hỏi bến dưới, làng trên, hỏi bờ rau, gốc rạ
hỏi từng ngày tất tả long đong
hỏi đến trời cao, tứ phía mưa dông
hỏi mặt đất - đất mịt mùng sương gió
hỏi về đâu
mẹ vẫn đang chờ…
Mẹ đi mây chiều tím tóc
Hoàng hôn úp mặt lên trời
Nhưng cuối cùng, như một linh nghiệm: “Mẹ “trốn” con trước mặt/ Lại về đứng sau lưng” (Mẹ đã trốn con).
Hoặc nhìn những tấm bia mộ liệt sĩ trong nghĩa trang, anh liên tưởng đến những nốt dương cầm trắng, chạm vào là ngân, chạm vào là đồng vọng. Tất cả như đang đồng hiện trong tâm tưởng những người thân:
Đài tưởng niệm chạm mây
Những cánh hạc bay về phía núi
Những tấm bia không tên
Những vô danh không tuổi
Ở đây, trắng lặng đến bao giờ
(Tìm cha ở nghĩa trang liệt sĩ)
Một ngày trôi qua, một tháng trôi qua, một năm trôi qua và một đời người trôi qua, đó là quy luật, nhưng mỗi chủ thể hiện sinh lại bơi ngược dòng sông ký ức cội nguồn, soi vào từng hiện tượng thiên nhiên để biết mình tồn tại có ích: “Chẳng gì nữa/ dễ gần như lá/ Từ vườn cây, xóm ngõ, lối đi/ Chẳng gì nữa/ dễ thương như lá/ Giữa khô hanh/ nhỏ nhẹ thầm thì”. Để rồi, mỗi chủ thể hiện sinh tự mình chiến thắng những hệ lụy và đa đoan của cuộc sống:
Có những lúc buồn tênh như gió
Lá bay bay dào dạt quanh mình
Lá gọi gió mang câu chuyện nhỏ
Từ nơi xa như thể vô tình
Gió đâu biết, khi nào lá giận
Gió nổi cơn, xương cốt lá đau
Sau tầm tã, tự mình gượng dậy
Lá hàng hàng lớp lớp bên nhau
(Lá)
Hoài niệm và đồng hiện là biện pháp tâm lý tốt nhất để con người nối liền hiện tại với quá khứ và mơ ước đến tương lai. Liên hệ đến những người lính đã ngã xuống ở Truông Bồn, tác giả đã tạo ra tứ thơ hay, thể hiện một trạng thái thiêng liêng có thật. Hồn những người đã khuất không mất đi, hồn họ hóa thân vào đất đai, lịch sử để “Thành nhịp đập Trường Sơn/ Nhịp đập chiến tranh/ tầng tầng lớp lớp/ Sẽ không sách nào ghi hết/ Chỉ có trái tim mới biết/ Mọi tận cùng lịch sử đi qua” (Nhịp đập Truông Bồn).
Nghĩ về thời gian, Trịnh Công Lộc liên hệ trực quan đến những tờ lịch mỗi ngày để biết đời người là khoảnh khắc:
Thay lịch sang ngày
sang tháng
sang năm
Như bóc mình
lớp này lớp khác
Thay lịch
như bóc tay cho sạch
Cho đơm hoa tinh khiết hiên nhà
Cho hương khói bàn thờ ấm áp
Tổ tiên về thơm mát đường xa
(Thay lịch)
Nhìn những mỏ than của Tổ quốc, anh xem nó như “đứa con một”, phải giữ gìn, không khai thác cạn kiệt thiên nhiên, phải giữ gìn để con cháu đời sau còn hưởng lộc: “Than! Thắp lửa/ Xin đừng tắt lửa đời sau”, bởi vì “Than!/ trời cho/ - đứa con một/ - mẹ đất sinh ra”. Than là của cải mà thiên nhiên ban tặng cho con người
Lớp lớp tầng sâu
Đại thụ than mọc từ bóng tối...
Rồi mẹ đất qua từng cơn vượt cạn
Than sinh ra, lửa bay lên
Hồng hào và tinh khiết
Ngọn lửa chưa bao giờ tắt
Bừng lên như sáng cuả ngày
Than là vàng là bạc hôm nay!
(Than! đứa con một)
Tôi muốn dừng lại ở những bài thơ tưởng niệm của Trịnh Công Lộc để chia sẻ những tình cảm máu thịt mà anh dành cho những ghệ sĩ lớn của đất nước. Mênh mông cõi người là bài thơ hay tưởng nhớ Trịnh Công Sơn: “Là câu hỏi/ Ngàn đời/ Là câu hỏi/ mỏi mệt đi đâu cũng máu thịt da vàng/ mỏi mệt đến đâu cũng nối vòng tay lớn/ nhân loại vẫn thỉnh cầu xá tội trần gian...”. Tình ca Trịnh Công Sơn đã thành nguồn suối tình yêu không bao giờ vơi cạn cho mỗi phận người:
Suối trong ơi!
Viên sỏi nào cũng đầy nước mắt
đôi mắt nào rót hết cô đơn
mà tình khúc - tình yêu tuôn trào như bể
Nghĩ về Hoàng Cầm, Trịnh Công Lộc lại nghĩ về những gì đồng nghiã với thiên thu long lanh tình sử: “Trách cứ gì đâu/ Người bên sông ấy/ Lá thiên thu - lá có thật đây rồi/ Lá đã đến dắt tay người bên ấy/ Vẫn nghiêng nghiêng lấp lánh một dòng sông” (Người bên kia và chiếc lá thiên thu). Vượt cạn cũng là bài thơ hay viết về Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm - tam diện thi sĩ đồng hành, đồng số phận thi ca: tài hoa, đa cảm, nhưng cũng đa đoan, hệ lụy: “Đã từng ném lên trời/ Hạt chữ ngọc ngà bay khắp ngả/ Chỉ tiếc/ Thơ lạc dòng thế sự/ che đi miền trong trẻo cuộc đời...”. Nhưng thời gian đã chứng thực cho mỗi thi nhân khi các ông cần thơ như cần sức mạnh để tiếp sức đi xa cùng nhân dân, tổ quốc:
50 năm sau
giữa trường chinh đổi mới
những trắc ẩn âm u
những chạnh lòng ái ngại
nỗi ám ảnh tiêu tan
Người ấy - câu chữ ấy
đã bước lên hàng
những cây bút tài hoa...
Sinh ra, những đứa con sáng trong ngữ nghĩa
Lấp lánh
miền xa
Tôi gọi hiện thực trong thơ Trịnh Công Lộc là hiện thực của những tiêu điểm tư tưởng thẩm mỹ mà nhà thơ hướng đến để nắm bắt, cắt nghĩa, chỉ ra bài học nhân sinh khẩn thiết của con người. Bài thơ Gửi về vùng lũkhông chỉ đề cập đến thiên tai mà còn là thông điệp về sự vô trách nhiệm của chính con người làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
Trách trời và trách đất
Sao không trách lại mình
Đâu,
nhân tình để lại
Đâu,
cõi phận nhân sinh
Nằm trong mạch cảm hứng ấy, trong bài Miền Trung, không riêng tôi!,tác giả đã chỉ ra tính chất độc ác của những con người vô nhân và vô cảm hủy hoại sự sinh tồn của thiên nhiên và đồng loại:
Biển có tội gì đâu
Mà gieo chết chóc
Bến bờ trơ xương cát
Thuyền trốn biển đi đâu
Độc tố đã ngấm sâu
Thành tội đồ hủy diệt.
Vậy nên, trong Cần một lời rõ hơntrở thành tiếng gọi khẩn thiết để tố cáo những kẻ đã hủy hoại môi sinh. Và anh dự đoán: “Và tôi biết/ 50 năm hoặc lâu hơn nữa/ Con trẻ sinh ra/ sẽ hỏi câu gì”. Nhưng giờ đây, không thể khác, cần phải hỏi và trả lời sự thật:
Cần một lời rõ hơn
Bao giờ biển sạch?
Miền Trung
chưa giàu nhưng vẫn đẹp
Độc tố hay dã tâm
Không lẽ
Con người,
phải đánh đổi mưu sinh!
Những tiêu điểm tư tưởng thẩm mỹ như trên chính là chìa khóa để đi vào thám mã và giải mã thế giới thơ Trịnh Công Lộc. Toàn bộ những ám ảnh nhân sinh thế sự, ám ảnh nỗi buồn và ám ảnh môi sinh cấp thiết trong thơ anh trở thành thi pháp đối cực, đối trọng; cao hơn là thi pháp phản biện, đối thoại để anh nói về cái trường cửu, về niềm vui và khát vọng sống thật của cõi người.
Trong bài thơ Đảo vắng, Trịnh Công Lộc đã nhìn thấy ngọn nguồn: “Không có đất, chưa có người đến ở/ Chỉ có đá và mây/ Gió và sóng/ Thay tiếng đập cửa/ Thay hơi ấm đi về…/ Đón chúng tôi đầu tiên/ Những lớp đá lô nhô vòng tay ôm xiết/ Khi ngọn sóng muốn trào dâng tiếng hát/ Người muốn làm cây cho đá ngọt ngào”. Con người tựa vào thiên nhiên và bảo vệ thiên nhiên, cũng như thiên nhiên luôn che chở và dựa vào con người để được bảo vệ. Những quan hệ trên, nếu diễn ra theo chiều ngược lại, thì có nguy cơ hủy diệt sinh thái và gây ra những hậu quả xấu khôn lường.
Sóng vẫn hát những lời của biển
Lời thẳm sâu tít tắp chân trời…
Mỗi đảo nhỏ như trái tim của biển
Những trái tim,
Nhịp đập trùng khơi…
Sống cùng biển, bao đời giữ biển
Sóng gọi hồn thiêng
Biển vọng về…
(Lời của sóng)
Vì vậy, mà mối quan hệ trên luôn được con người quan tâm và ý thức nương tựa, giữ gìn. Anh đã thực sự nhập vai vào từng đối tượng và từng sự kiện, từng tiêu điểm để bình luận, phán xét và nghĩ suy:
Tựa vào đá sống cùng với đá
Vạn chài ơi, đã vạn năm rồi
Đá vẫn đứng
không trời nào lay đổ
vẫn đi cùng
ngư lính
đường khơi
(Đá và nước)
Bài thơ Từ biển mà đicó tứ hay, cũng xuất phát từ tiêu điểm thẩm mỹ bền vững trong tư duy thơ Trịnh Công Lộc: “Đâu phải bây giờ/ mới từ biển mà đi/ Đất nước mấy ngàn năm/ Mấy ngàn năm bão tố…/ Ông cha mình đã từ biển mà đi/ Vẫn rành rọt sáng soi từng hải lý/ Những luồng lạch nông sâu/ Thuộc lòng như chữ nghĩa/ Bao lớp người đi giữ đảo không về”. Quan niệm “thiên nhân tương dữ” mà cha ông ta khái quát đã thành lẽ sống nhân sinh cho đến hôm nay:
Biển lặng giấu những nỗi niềm xa thẳm
Ru lời ru vô tận dưới lòng sâu
Mỗi đảo nhỏ
đã hóa thành ngọn nến
thắp linh thiêng rừng rực sao trời…
Bây giờ,
Lại từ biển mà đi
Nơi cuối chót Hoàng Sa,
nơi Trường Sa cuối chót
đôi bờ vai, bát ngát biển trời
gánh bao nỗi gian truân đất nước
như Trường Sơn
gánh xương máu chiến tranh
như lịch sử, gánh thăng trầm mỗi bước!
Đây Hoàng Sa, đây Trường Sa, cuối chót
lại lên vai, bát ngát mà đi
Vì vậy mà khi giặc kéo đến Hoàng Sa, biển đã “Thăm thẳm đau, nhói thềm lục địa/ Thăm thẳm xót chập chùng xương máu” để sau đó, những người giữ biển quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo cho mãi mãi “Hoàng Sa cột mốc giữa muôn trùng”. Bài thơ Mộ gióđồng vọng nghi lễ chiêu hồn những chiến binh thời Nguyễn đi bảo vệ chủ quyền biển đảo không trở về chính là ý thức khẳng định chủ quyền lãnh hải mà cha ông chúng ta đã ý thức bảo vệ và gìn giữ từ khi có sự sống trên mảnh đất hình chữ S này: “Giữa biển/ Trời cao là mãi mãi”.
Mộ gió đây
đất thành xương cốt
cứ gọi lên là rõ hình hài
mộ gió đây,
cát vun thành da thịt
mịn màng đi,
dìu dặt bên trời
Mộ gió đây,
những phút giây biển lặng
gió là tay ôm ấp bến bờ xa
chạm vào gió như chạm vào da thịt
chạm vào
nhói buốt
Hoàng Sa
Mộ gió đấy,
Giăng từng hàng, từng lớp
Vẫn hùng binh giữa biển - đảo khơi xa
Là mộ gió,
Gió hổi hoài thổi mãi
Thổi bùng lên
những ngọn sóng
ngang trời!
Cảm thức từ biển, cảm thức từ lịch sử có thật, Trịnh Công Lộc đã khái quát và ẩn dụ về một tinh thần bất khuất thông qua “mộ gió” để chiêu hồn các anh linh giữ biển và khẳng định tinh thần bất khuất của những người lính đảo hôm nay. Từ Mộ gió của Trịnh Công Lộc, nhanh chóng trở thành “hội chứng mộ gió” trong văn học nghệ thuật đương đại như cách nói của nhà thơ Đặng Huy Giang. Và theo lời bình của nhà thơ Hữu Thỉnh:“Bài thơ ẩn chứa sự đau đớn, cảm phục và tôn vinh một cách toàn bích hình ảnh sự hy sinh anh dũng của người chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió. Cảm xúc rất mạnh, dâng lên, dâng lên cao trào. Cấu trúc chặt, không rườm rà, tứ thơ cứ được đẩy lên đến vô tận. Không có chỗ "phô". Tác phẩm dự thi của Trịnh Công Lộc thực sự là một bài thơ có tầm, hướng về giá trị lớn. Đó chính là sức mạnh toàn dân tộc. Mới mẻ về nhận thức, sâu sắc về tư tưởng, nó xóa đi mọi sự nghi kị, hẹp hòi, chỉ còn lại là mối đồng cảm lớn lao: Bảo vệ Tổ quốc bằng tổng lực sức mạnh của dân tộc."
Bài thơ đạt 2 giải liền năm 2912: giải nhì về thơ và giải nhì về ca khúc do nhạc sĩ Vũ Thiết phổ nhạc với tên gọi Khúc tráng ca biển. Cần phải nói thêm, đây là một giải thưởng lớn của một cuộc thi toàn quốc với chủ đề “Đây biển Việt Nam” lần đầu tiên được tổ chức năm 2011, huy động tới hơn 1000 tác giả thơ và hơn 400 tác giả âm nhạc trong và ngoài nước tham gia. Nhưng quan trọng hơn, Mộ gió đã gây nên chấn động, dư vang, luôn luôn hồi thức trong tâm thức con người. Cùng với Mộ gió, bài thơ Từ biển mà đi của Trịnh Công Lộc là những thi phẩm đầu tiên khơi dậy, trở lại chất sử thi, chất bi hùng mà sau một thời gian dài trầm lắng trong thi ca. Đó là dấu ấn, vẻ đẹp nổi bật của thơ Trịnh Công Lộc ! Giường như từ đó, nhà thơ mở rộng những tiêu điểm thẩm mỹ thơ của mình .
Biển mãi là sở hữu được phân chia, không ai có quyền xâm phạm. Những ngôi sao là mắt của trùng dương luôn canh giữ biển trời: “Sao là mắt của biển/ Đảo là mắt trùng khơi/ Đăm đăm xa vời vợi/ Bao nỗi niềm biển ơi!” (Biển đêm). Muôn đời, biển là lãnh hải của lòng dân:
Biển sâu là mãi mãi
Hoàng Sa đi cực bắc
Trường Sa đi cực nam
Cũng là mãi mãi
Biển đây
Tổ quốc của mình!
(Giữa biển)
Các hòn đảo Việt Nam như những trụ trời bất tử :
Trường Sa đấy bốn bề dông bão
Đón người ra với đảo, gửi niềm tin
Song Tử - như trụ trời - bất tử
Gọi ngàn xa,
tung cánh bay về...
(Ngàn xa)
Từ hệ qui chiếu ấy, Trịnh Công Lộc đã tiến thêm một tiêu điểm chân lý nữa: nhìn biển trong mối quan hệ bền vững với núi để trở thành đường chân trời mơ mộng muôn đời như những cổ mẫu (archétypes) trong tâm thức mọi người. Bài thơ Đỉnh núi từ đó, có tứ thơ hay:
Đất là núi
là sông
là biển
Núi ngất cao, sông biển rộng dài
Sông và biển giăng thành như núi
Giữ bình yên bờ cõi đất đai!
Từ đó, ý thức bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ hiện lên mãnh liệt trong mỗi hồn người. Mỗi đỉnh núi mỗi bàn thờ Tổ quốc là hình tượng có sức ám ảnh bất ngờ:
Mỗi tất đất
đã bao nhiêu máu
Thắm lên tùng vách núi, ngọn cây
Mỗi đỉnh núi
một bàn thờ Tổ quốc
Ngát linh hương nghi ngút trời mây!
Anh thấy được đảo và rừng nương tựa vào nhau để làm nên tâm hồn Việt Nam, sức mạnh Việt Nam:“chi chít mọc, đảo thành rừng của biển”,“như binh đoàn ào ạt tiền phương”, để rồi:
Biển một ly không thể cắt rời
Người yêu đảo, mặn mòi với đảo
Đảo yêu người, hạt muối cắn đôi
Máu thắm đất hồng tươi mặt đất
Máu biển loang sóng đỏ chân trời
(Rừng đảo)
Vẫn với cách nhìn cự ly từ những tiêu điểm thẩm mỹ mang tính thời sự - thời đại ấy, Trịnh Công Lộc đã ký mã được những vẻ đẹp của tình người, tình đời. Đó là thơ nhập cuộc. Và nói theo cách của Chế Lan Viên:“Thơ cần có ích/ Hãy bắt đầu từ nới ấy mà đi”. Bài thơ Vành tang núicũng nằm trong mạch cảm xúc đời tư - thế sự quen thuộc của Trịnh Công Lộc, nhưng nâng lên tầm dân tộc qua hình tượng nghệ thuật vừa cụ thể vừa khái quát. Sự tàn bạo của kẻ thù không khuất phục được tinh thần dân tộc của mỗi con người Việt Nam. Sự hy sinh mất mát đó không mất đi, đã hóa thân vào đất đai, sông núi:“Chưa thấy ở đâu/ Đạn bắn vào đến nỗi/ Đá chín thành vôi/ Thanh Thuỷ - Lò vôi thế kỷ”. Và sau những dữ dội đến khủng khiếp ấy, chúng ta “Mới rõ hết sự tình/ Núi - không thể hất đi!”. Vành tang núi đã trở thành tượng đài bất diệt nhắc thức mọi người về tình yêu Tổ quốc và tinh thần dân tộc qua ngàn năm dựng nước và giữ nước:
Thanh Thuỷ “Lò vôi thế kỷ”
Vôi - vành tang núi
Trắng lên trời!
Đó là những khái quát nghệ thuật có sức lay động, khiến trong hiện tại, có lúc người thơ không khỏi mang tư tưởng bi đát và hốt hoảng, nhưng liền sau đó, anh trở thành người phản biện và bảo vệ cho những gì thuộc về nhân bản và nhân văn của dân tộc:
Đất có rừng, biển cùng rừng như đất
Biển mỡ màu, rừng đảo ngàn xưa
Đại dương bao la, đại ngàn rừng đảo
Đại ngàn xanh, xanh ngập bến bờ
(Rừng đảo)
Đến đây, ta có thể thấy những ám ảnh tâm lý và tiêu điểm thẩm mỹ trong thơ Trịnh Công Lộc đã đi trọn hành trình âu lo hiện sinh và trách nhiệm nghệ sĩ của mình để hóa giải niềm vui và nỗi buồn theo biện pháp đồng nhất hóa những chân lý của lịch sử dân tộc trong bài thơ Mười hai ngày đêm, nỗi mong đất nước như một chân lý nhân văn và khát vọng hòa bình trong nhân đạo: “Có phải dấu xưa rung Cửa Bắc/ Hào quang xưa đã thắm hoa đào/ Tìm dấu voi xưa rung Cửa Bắc/ Lại vang Trúc Bạch năm nào”. Cuối cùng, anh khẳng định chân lý Việt Nam, dáng đứng Việt Nam:
Hà Nội, như nỗi mong đất nước
Chiến thắng không cần chiến tranh!
Đấy là toàn bộ những ẩn số của thế giới thơ Trịnh Công Lộc mà anh muốn thông điệp đến chúng ta. Những tiêu điểm tư tưởng thẩm mỹ trong thơ anh chính là dấu chỉ thi pháp giúp chúng ta tiếp tục đi sâu giải mã thế giới nghệ thuật thơ anh từ nhiều yếu tố và cấp độ như ngôn ngữ, giọng điệu, biểu tượng, motif, thể loại…mà trong bài viết này, chúng tôi chưa có dịp nắm bắt và giãi mã tất cả.
Vỹ Dạ, 07 - 2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trịnh Công Lộc, Cánh buồm nâu, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2011.
Trịnh Công Lộc, Mộ gió, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2012.
Trịnh Công Lộc, Mặt trời đêm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 2014.
Trịnh Công Lộc, Chùm thơ in ở Báo Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, số 846,
6-2016.
Trịnh Công Lộc, Chùm thơ in ở Báo Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, số 846,
7-2016.
Trịnh Công Lộc, Chùm thơ in ở Báo Văn nghệ quân đội, số 47,
ngày 19-11- 2016.
Trịnh Công Lộc, Chùm thơ in ở Tạp chí Thơ, số tháng 11- 2016.
Trịnh Công Lộc, Chùm thơ in ở Báo Văn nghệ quân đội, số Chủ nhật ngày 17-12- 2016.
( Nguồn Tạp chí Thơ số tháng 1-2 năm 2018)