GIỚI THIỆU TẬP THƠ “HƯƠNG THỜI GIAN” CỦA NHÀ THƠ PHÚC AN “CÓ MỘT NGƯỜI THƠ KHÁC TRONG THƠ…”
Theo những gì Phúc An tâm sự thì đây là trái ngọt anh hái sau khi anh theo học khóa VII nâng cao nghiệp vụ sáng tác và thẩm bình văn chương do Khoa viết văn – Báo chí trường Đại học văn hóa và Hội Nhà văn Hà Nội vừa mới phối hợp tổ chức. Tại đây, anh và hơn 50 học viên đã được các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học như: Nguyễn Việt Chiến, Trần Quang Quý, Văn Giá, Sương Nguyệt Minh, Lê Minh Khuê, Mai Anh Tuấn… lên lớp giảng giải những kỹ năng cơ bản về sáng tác thơ, sáng tác truyện ngắn, những tri thức cơ bản về văn học, những kinh nghiệm của nghề viết.
Sau khóa học này, Phúc An như bừng tỉnh. Anh đã có sự chuyển mình mạnh mẽ trong sáng tác thơ về mặt tư duy và cấu tứ. Thơ anh giờ đây vẫn giầu chất thiền đấy nhưng nặng trĩu triết lý, ưu tư, và bớt đi sự diễn giải nông nổi, giản đơn như trong các bài thơ trước đây.
Trong chuyến đi thực tế sáng tác về Bắc Giang cùng hơn 50 học viên khóa VII sáng tác và thẩm bình văn chương, sau khi viếng thăm chùa Vĩnh Nghiêm có kho tàng mộc bản Kinh Phật với 3.050 bản ván khắc chữ đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới, Phúc An đã viết bài thơ “Chùa Vĩnh Nghiêm” với những câu thơ giầu chất nghĩ suy và chiêm nghiệm:
Vĩnh-an khi được về
Nghiêm-tâm không còn mê
Ngọn nến im, lặng gió
Mặc-chẳng bận khen chê
Mộc bản-lời Kinh Phật
Chạm khắc từ ngàn xưa
Lưu muôn đời con cháu
Mãi mãi được truyền thừa
Bài thơ “Chùa Vĩnh Nghiêm” mở đầu tập thơ “Hương thời gian” như một dấu mốc đáng ghi nhận trong sự chuyển mình về chất trong thơ của tác giả Phúc An. Bài thơ ngắn gọn với sự cô đọng của cảm xúc, súc tích trong khắc họa cảm nhận và lắng sâu trong diễn đạt ý tưởng. Dường như, với tập thơ này, Phúc An đã bước sang một trang mới, một chặng thơ mới.
Trước mỗi bài thơ khai triển Phúc An dường như thấy tự tin hơn. Anh chủ động một cách “chơi thơ” mới cho “Hương thời Gian”. Một loạt những bài thơ ngắn được xếp cạnh nhau có chủ ý, từ “Xuân”, “Hạ”, “Thu”, “Đông” đến “Đất”, “Nước”, “Gió”, “Lửa” hay “Hoa”, “Lá”, “Cỏ”, “Cây”, từ “Sáng”, “Trưa”, “Chiều”, “Tối” đến “Sắc”, “Thanh”, “Hương”, “Vị”, “Xúc”, “Pháp”. Mỗi bài thơ phảng phất nét Hai – Kư của thơ Nhật Bản. Không tham lời và cô đọng đến mức có thể:
Sớm, dạo tìm hương trời
Đêm vương tới muôn nơi
Vầng sao mai mê mải
Trả lại ngày cho người
(Sáng)
Bóng đứng tròn một phương
Dáng cụ già qua đường
Miền không gian ánh sáng
Nghiêng tây, thuận vô thường
(Trưa)
Gói lại một ngày qua
Không gian, thời an hòa
Chiều, sân chơi đợi bạn
Gom về miền bao la
(Chiều)
Mênh mông trong một màu
Không gian tìm về nhau
Vớt chiều, kéo dài tối
Trăng vắt mình ngang cầu
(Tối)
Quả thực, để hiểu hết những bài thơ này không dễ một chút nào. Sự bí ẩn làm tăng tính hấp dẫn để ta khao khát muốn tìm hiểu, khám phá đến tận cùng thơ Phúc An. Chìa khóa bước vào tâm hồn này có lẽ là sự đồng cảm về giáo lý nhà Phật, về “Tâm thơ hướng thiện dọc đường nhân gian”.
Thơ Phúc An nhiều năm qua đã có hương vị của thiền mặc và giác ngộ Phật pháp với chân tâm thành kính của một người thơ luôn hướng về cái thiện và sự từ bi. Đến tập “Hương thời gian” và trước đó là tập “Hương rừng”, thơ anh đã hướng từ đạo sang đời nhưng cái cốt lõi của ý thơ và hình tượng thơ vẫn nằm trong không gian Thiền Thi với nhiều tự nghiệm mà bài thơ “Nói về Tết” của Phúc An đã đặt ra một câu hỏi cho con người thời đương đại khi có một vị giáo sư đề nghị “Bỏ Tết truyền thống theo lịch âm để người dân xứ ta ăn Tết theo lịch dương”:
Vị Giáo sư đề nghị
Bỏ Tết, theo lịch dương
Ngày âm không cần nữa
Lịch tây chung hai đường
Tết cổ truyền dân tộc
Duy trì từ cổ xưa
Là vốn văn hoá quý
Con cháu được truyền thừa
Tết chu kỳ tháng năm
Hư không hiện tuần trăng
Địa đại ứng con nước
Trăng tròn đúng ngày rằm
Ngày khi dài khi ngắn
Tuần trăng hiện đầy vơi
Tháng năm, ngày chậm tối
Dài đêm sang tháng mười
Thiên văn và địa lý
Kim cổ cùng đông tây
Lịch âm thuận tính toán
Theo con giáp từng ngày
Hàng năm ngày nhật kị
Tổ tiên và ông bà
Theo ngày âm định sẵn
Thỉnh vong, con cháu hoà
Đạo Mẫu và đạo Phật
Kỷ niệm theo ngày âm
Muôn đời con và cháu
Nương tựa thuận muôn phần
Ngày Tết theo lịch âm
Anh em xa và gần
Gia đình tụ xum họp
Mấy ngày nghỉ rất cần
Bỏ Tết dần bỏ ngày
Không nay thì ngày mai
Nên chăng người phải tính
Giáo sư bậc nhân tài?
(Nói về Tết)
Qua bài thơ trên, không cần phải tuyên ngôn ồn ào, nhà thơ Phúc An đã đưa ra những hình ảnh gần gũi, đầy kỷ niệm trong cái Tết truyền thống của dân tộc và cách tính khoa học của thuật tính toán lịch âm gắn liền với nền văn minh lúa nước để khẳng định không gian lễ hội văn hóa ngàn xưa của người Việt đã gắn liền với những ngày tết cổ truyền
Một bài thơ khác xuất hiện như một chấm xanh trong “Hương thời gian” của Phúc An là bài thơ “Trà”. Vẫn thể thơ ngũ ngôn được anh lựa chọn gần như bao trùm trong tập thơ này. “Trà” là sự chuyển vận không ngừng từ bản thể tự nhiên:
Xanh vắt từ lá nhỏ
chưng cất thành vị trà
Màu và vị sau những hóa sinh chuyển thành hương theo làn “khói thơm leo miệng chén”
Chén trà cuộc đời “Nâng cả chiều thi ca” cho người thưởng thức.
Thiết nghĩ, biết “vắt” và “chưng cất” từng ý thơ, từng cảm xúc thơ, từng hình tượng thơ như đời trà, hy vọng Phúc An sẽ có những “chiều thi ca” tỏa hương./.
Hà Nội 31/10/2018
THƠ PHÚC AN
CHÙA VĨNH NGHIÊM
Vĩnh - an khi được về
Nghiêm - tâm không còn mê
Ngọn nến im, lặng gió
Mặc - chẳng bận khen chê
Mộc bản - lời Kinh Phật
Chạm khắc từ ngàn xưa
Lưu muôn đời con cháu
Mãi mãi được truyền thừa
SẮC
Cái thấy thu vào lòng
Đục trong, vọng hay dở
Sáng suốt tỏ lầm lỡ
Sắc không, chẳng còn mơ
THANH
Gần hướng vào hơi thở
Xa sóng vỗ vô bờ
Không rong ruổi theo gió
Thanh trúc hoà tiếng tơ
HƯƠNG
Hoa ngược gió bưởi, nhài
Thoảng bay, tỏ phân hai
Nặng nhẹ trong khí quyển
Hương tận, tới từ ngoài
VỊ
Đắng trọng bệnh dùng thuốc
Mặn mòi triều biển ròng
Ngọt, chát đều thấy được
Vị, tỏ từ nước trong
XÚC
Giữ nóng đồng ngăn lạnh
Da mịn tươi sắc màu
Mềm mại nhẹ sau trước
Xúc, chạm khi mong cầu
ĐẤT
Đất Mẹ hiền muôn đời
Dung chứa và sinh sôi
Muôn loài cùng chung ở
Đất yêu thương con người !
NƯỚC
Thể ướt mềm thấy được
Dịu êm với muôn loài
Nổi giận khi hồng thuỷ
Nước chẳng rời được ai
GIÓ
Nhẹ tựa thở vào ra
Trời mát tự khí hoà
Cuồng phong khi gió giật
Tan hoang bão đi qua!
LỬA
Thiên nhiên tự hiện lửa
Có nóng lạnh chẳng đồng
Cuộc đời cần đến lửa
Như khí quyển hư không
NẮNG MỚI
Sớm nghe chim ríu rít
Hoà âm chẳng tơ vương
Hư không trong cơ thể
Thay đổi khác ngày thường
Mở cửa nghe đất thở
Hoa khép tán ủ hương
Ngày mới như cũng vội
Đất thao thức đêm trường
Màu trời xanh bao la
Trắng một làn mây tới
Tiếng chim đồng vọng xa
Hạ giao mùa đã khởi
Lặng nghe, ngóng bến đợi
Gói lại dấu bước chân
Không xa không thấy mệt
Tuy đích đến chẳng gần!
MUỐI
Quê Mẹ vùng biển mặn
Thuỷ triều vơi lại đầy
Nước khi ròng biển cạn
Muối ngợp trắng, vai gầy
LÚA
Sáng, tối phơi sương lạnh
Trưa nắng cháy trên đồng
Mồ hôi người cày cấy
Nhọc nhằn cây trổ bông
CÁT
Len lỏi trong thớ đất
Gom lại những hạt rời
Dựng toà nhớ tới cát
Nhỏ bé dày trùng khơi
GẠCH
Đất quyện nước mềm môi
Vào khuôn để lên ngôi
Gian nan lửa thử sức
Gạch đỏ, đất vươn trời
BIỂN
Biển mênh mông sóng nước
Hè tới bao người qua
Nay giữa đông về lại
Sắc biển tựa như già
Sóng vờn sóng theo nhau
Nhớ tới cánh hải âu
Biển chuyển màu nâu sậm
Đông hiện, biển thêm rầu
Sóng vồn vã lời chào
Vui buồn biển có nhau
Tuổi thơ xưa da diết
Mặn mòi tình nghĩa sâu
Đêm nằm nghe biển hát
Âm vang lời ru xưa
Tiếng Mẹ hoà muôn thuở
Sinh tồn sóng dẫn đưa