GIỚI THIỆU TRANG THƠ NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ
THƠ NGUYỄN THỊ NGỌC HÀ
KHÉP VỘI GIÓ HEO MAY
Ngược lên cao nguyên
vấp giọt nước mắt tứa ra từ đá
bấy nhiêu mặn mòi không vỡ
cứ hồn nhiên hóa bùa
hồn nhiên
nhuộm tím sắc hoa
ủ hi vọng
chênh vênh giữa trời với đất
hết mùa Tam Giác Mạch
bùa tan
dốc quen
không còn khách lạ
từng cánh hoa mỏng manh
nép mình sau bóng núi
những đứa trẻ H’Mông
đầu trần chân trụi
lại chạy lên cổng trời
khép vội gió heo may
CÓ MỘT HÀ NỘI TRONG TÔI
nhà nhà
lô xô mái chóp
chen nhau chạm tới đỉnh trời
ngõ phố
người xe tấp nập
dửng dưng
ngang dọc ngược xuôi
nhưng
có một Hà Nội trong tôi
vẫn âm thầm lặng lẽ
thả hương thơm ngan ngát lối về
có câu thơ
buộc từng tiếng ve
treo lên tận ngọn me cành sấu
có tình yêu
vụng nơi cất dấu
mượn lá sen ủ giữa cốm Vòng
tôi lang thang
tận có và không
bất chợt
gặp hồn muôn năm cũ
từng ánh mắt nửa quen nửa lạ
đang đăm chiêu nhìn thấu tháng ngày
SÁU MƯƠI TƯ ĐỐM ĐÈN
Tưởng nhớ 64 Liệt sỹ hy sinh ở Gạc Ma, rạng ngày 14 / 3 / 1988
Những người trai tuổi mới chạm xuân
bờ môi non chưa biết mùi con gái
nơi các anh nằm lại
không hoa
không mộ
sóng vỗ vô hồi chẳng mềm nổi đá
vẫn san hô toát lạnh nắng trời
lời cha ông
như tiếng sóng giữa trùng khơi
“lũ giặc ấy là kẻ thù truyền kiếp”
những viên đạn
bùng cháy trong từng đôi mắt
sao trên tay họng súng vẫn lặng câm
biển chao đảo
giông tố nổi lên
khi bia căm hờn hằn thêm tội ác
máu từ Gạc Ma chảy về ta chưa dứt
cuộn thắt nỗi đau âm ỉ tháng năm dài
64 linh hồn trẻ trai
đã hóa những đốm đèn
nhớ quê hương
chỉ chờ gió lặng
về lạy mẹ già rồi lại ra khơi
lạy đôi mắt mẹ khóc đẫm bóng đời
trắng xóa vùng đau
vỡ tràn con nước
64 đốm đèn đang rọi vào còn mất
soi thấu đục trong đến tận muôn đời
GIẤC PHÙ VÂN
chốn này Từ Thức gặp tiên
chỉ còn heo hắt cửa thiền sương rơi
thoảng trong tạnh vắng bóng người
đục trong nhịp mõ vô hồi nhặt thưa
lá đa rụng lõm sân chùa
nghe đau tiếng chổi vãi khua cuối chiều
thâm u tận dưới phong rêu
nâu sồng đã bạc bao nhiêu kiếp trần
cạn bao nhiêu túi kinh luân
vẫn chưa thấy giấc phù vân tỉnh về
tiếng chuông vọng tận cõi mê
cửa không vẫn chỉ bốn bề gió không
LẮNG HỒN CHÍ SĨ THĂNG LONG
vào Hoàng Thành tìm về muôn thưở
chạm dấu hài còn đọng sương khuya
chạm câu thơ ướt đầu ngọn gió
chạm bóng xưa như vẫn quay về
lật tầng tầng bão giông đổ xuống
chạm giáo gươm lớp lớp suy tàn
mọi mưu ma vùi sâu lòng đất
vẫn rùng mình trước những án oan
thoáng vọng lên tận trong hoang phế
tiếng khóc cười vùi dưới ngàn năm
âm thanh nguyên xen âm thanh vỡ
va với nhau còn rõ thăng trầm
nghiêng
nghiêng khoảng trời xanh tựa ngọc
nghiêng Hồ Tây soi sóng sông Hồng
nghiêng tiếng chuông võng chiều Trấn Quốc
để lắng hồn Chí sĩ Thăng Long
CHỢ ÂM DƯƠNG
Mẹ sau trăng mỏng sương dày
trông lên chỉ thấy gió lay đốm đèn
đốm đèn nửa lạ nửa quen
nửa trên cõi Phật nửa bên cõi Người
vẳng như tiếng mẹ ơi…hời
ấm trầm thao thiết từ nơi vô thường
rằng: Con đến chợ Âm Dương
giận hờn trút bỏ nhớ thương tìm về
mẹ dần khuất ánh sao khuya
giận hờn con biết dãi dề ai hay
ví bằng cầm nổi trong tay
thì con buông thả từ ngày đương xoan
trăng lu bóng chợ sắp tàn
mưa gieo lất phất ướt tràn đêm thâu
biết tìm thuở ấy nơi đâu
nhớ thương xa lắc nỗi đau vẫn gần
mỗi xuân chợ họp một lần
xin mẹ chầm chậm bước chân về trời
giúp đời níu lại tình vơi
để con tìm thấy một thời khó quên
ĐÊM GÓA PHỤ
Kính tặng vợ liệt sĩ hy sinh ở Gạc Ma
Người đàn bà
trắng đêm không ngủ
sóng vỗ vô hồi rát đêm góa phụ
gió trở mình mỏng mảnh vạt áo xuân
người đàn bà
ôm nỗi buồn có tên
cuộn từng đêm vùi trong nước mắt
lắng vùng đau không thể nào lành được
nơi kẻ thù đã cướp Gạc Ma
đêm mông lung quanh dải Ngân Hà
có đốm sao dập dềnh mộ gió
thoảng mùi chồng ấm đêm góa phụ
vấn vít hồn thiêng mơ giấc gối chăn
đêm lạnh dần khi giấc mơ tan
người đàn bà
vác cơn khát chồng chạy ra hỏi biển
biển rùng mình
vỡ trên đầu sóng
LÃNG ĐÃNG LUY LÂU
rẽ nắng mới tìm sang Kinh Bắc
đồng mạ non mướt mát bên đường
dòng Nhật Đức thuyền chưa cập bến
đã bâng khuâng một thưở Tiêu Tương
ngước nhìn lên mây chuyền cánh Hạc
vỗ cao xanh bạc sóng sông Cầu
trận Như Nguyệt sáng trong muôn cõi
vẫn âm trầm chuông đổ Luy Lâu
trưa Thuận Thành vọng hồn Tháp Bút
nghiên mực trời cạn mấy nắng mưa
mà giấy Điệp mỏng hơn sương khói
cứ ưng rưng từng nét Đông Hồ
bàn cờ tiên đã mòn vân đá
đỉnh Tiêu Sơn vẫn lộng gió lùa
tướng sĩ tượng rạc xe pháo mã
biết bao giờ mởi ngả thắng thua
nén nhang vít cong chiều Phật Tích
bước phiêu du nửa tỉnh nửa mê
lá đa khẽ chạm vào cô tịch
ngỡ ngàn xưa Từ Thức trở về
VÙNG MẮT ƯỚT
mùa thu ấy qua đã lâu
gió vẫn rơi vàng nỗi nhớ
mưa vẫn từ quá khứ
thấm vào hồn ta đã rợm phong sương
mỗi lần tựa vào bóng đêm
lại thấy ước mơ ải trong mưa nắng
thấy bấy nhiêu ngọt bùi cay đắng
theo gió thu xao xác quay về
gió
thả vào ta một vùng mắt ướt
biết cất quá khứ vào đâu cho hết
cất gió vào đâu cho thôi gió
để
giận hờn trong suốt trước nhau
mùa thu bây giờ có khác đâu
sao lối cũ mịt mờ bụi gió
để người đàn ông ta đắm say một thưở
rất gần nhưng lại rất xa
CÁNH ĐỒNG THÁNG MƯỜI
mơ cánh cò
khoát nắng tháng sáu rẽ bão tháng bảy
cho con trở về những ngày còn mẹ
con gặp lại con tung tăng thơ bé
thênh thang chân sáo chạy mỏi đồng chiều
mẹ khỏa sóng lúa
lúa vờn gió reo
ú òa trước con ngậy hương cốm mới
tháng mười rời rợi trong ánh mắt mẹ cười
trong con non tươi ngọt thơm cỏ mật
mùa nối mùa bây giờ đã mất
hoang cánh cò vỗ trắng miền mây
hoang giọt mưa đêm hoang bóng nắng ngày
chỉ nỗi nhớ mẹ chẳng thể nào hoang nổi
trên ruộng thấp ruộng cao thưở ấy
dọc ngang đường phố đã thênh thang
nhưng trong con
vẫn vẹn nguyên lối nhỏ
một đời mẹ sớm tối đi về
nay
lạc tận đâu
cánh đồng tháng mười rời rợi
chỉ còn cây bàng trước ngõ
muôn ngàn mắt lá khóc úa chân trời
Phú Xuyên / tháng / 10 / 2015