NHÀ VĂN-TÁC PHẨM: NHÀ THƠ PHẠM TIẾN DUẬT
Nhà thơ Phạm Tiến Duật (ảnh: Internet)
Nhà thơ Phạm Tiến Duật, sinh năm 1941, quê gốc thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Cha ông là nhà giáo, dạy chữ Hán và chữ Pháp. Mẹ ông làm ruộng, không biết chữ. Từ bé Phạm Tiến Duật đã đi học xa nhà. Ông học qua bậc phổ thông, đến hết Đại học Sư phạm Văn khoa Hà Nội rồi gia nhập quân đội. Phạm Tiến Duật sống và viết trong chiến tranh trên đường mòn Hồ Chí Minh ở Trường Sơn (8 năm trong trong tổng số 14 năm quân ngũ). Sau khi được trao giải nhất cuộc thi thơ báo Văn Nghệ năm 1969-1970, ông về làm biên tập thơ rồi làm Phó trưởng Ban đối ngoại Hội nhà văn VN và Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ VN. Các tập thơ đã xuất bản của nhà thơ Phạm Tiến Duật: Vầng trăng và quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971), Ở hai đầu núi (1981), Vầng trăng và những quầng lửa (1983), Thơ một chặng đường (1994), Nhóm lửa (1996), Tiếng bom và tiếng chuông chùa (1997). Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về HNT năm 2001 và Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 2012. Nhà thơ Phạm Tiến Duật qua đời ngày 4.12.2007.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt nổi trội của thi ca Việt Nam thời chiến tranh chống Mỹ, thậm chí có nhà phê bình đánh giá, thời ấy một mình Phạm Tiến Duật làm nên một trường phái thơ chiến tranh mà bài thơ “Lửa đèn” của ông là một đỉnh cao của phong cách Phạm Tiến Duật. Một số nhà văn đã dùng hình ảnh “Con đại bàng” của thi ca Trường Sơn để nói về nhà thơ Phạm Tiến Duật trong những năm 1969-1970, những bài thơ của ông viết trên đường mòn Hồ Chí Minh giữa những đợt bom B52 rải thảm, đã vượt bay lên trên bầu trời thi ca yêu nước, làm xúc động hàng triệu trái tim thanh niên đang ra trận và thơ của ông như cánh chim đại bàng kiêu hãnh dự báo ngày toàn thắng đang đến gần.
THƠ PHẠM TIẾN DUẬT
LỬA ĐÈN
I - ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chín đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè,
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu,
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng...
Mạch đất ta dồi dào sức sống
Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau bay như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Thấy que diêm sáng mặt người
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp loé
Mà có cần đâu khoảng cách thấp cao
Chúng lao xuống nơi nao
Loé ánh lửa,
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm
Sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm về trước,
Lấy từ thuở hoang sơ,
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trấu nhà ta.
Ôi ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy!
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy
II - TẮT LỬA
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi tắt lửa đêm đêm khiến đất trời rộng quá
Không nhìn thấy gì đâu
Bóng tối che rồi
Cây trúc làm duyên phải nhờ gió thổi
Cô gái làm duyên phải dùng giọng nói
Bông hoa làm duyên phải luỵ hương bay...
Bóng tối phủ dày
Che mắt địch
Nơi tắt lửa là nơi vang rền xe xích
Kéo pháo lên trận địa đồng cao
Tiếng khẩu đội trưởng ở đâu
Đấy là đuôi khẩu pháo
Tiếng anh đo xa điểm đều
Vang ở đâu, đấy là giữa điểm đồ
Nơi tắt lửa là nơi in vết bánh ôtô,
Những đoàn xe đi như không bao giờ hết,
chiếc sau nối chiếc trước ì ầm
Như đàn con trẻ chơi u chơi âm
Đứa này nối hơi đứa khác.
Nơi tắt lửa là nơi dài tiêng hát
Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường;
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương
Đêm tắt lửa trên đường
Khi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
Là tiếng những đoàn quân xung kích
Đi qua.
Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
Bóng tối dâng đầy toả ngợp bao la,
Thành những màn đen che những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khoảng tối giữa hai màn kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao,
Bóng đêm che rồi không nhìn thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
III - THẮP ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm,
chiếc đèn chui vao lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vời vợi,
Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc lá thư thăm
Ta Thắp đèn lên trên đỉnh núi
Gọi quân thù đem bom đến dội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá xây cầu, lấy đá sửa đường tàu
Ta bật đèn pha ôtô trong chớp loè ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi...
Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi chit sao giăng
"Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm"
Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.
1967
VỚI KHÁNH LY
Tiếng hát em còn trong băng nhạc ấy
Em ơi em, sao em không về
Cả Sài Gòn đông vui nhộn nhịp
Tôi gọi em mà em có nghe?
Đời em đi qua những khúc hát sầu bi
Hạnh phúc lội tìm, lặn tìm chẳng thấy
Trả nợ đời em, chỉ có đồng tiền giấy
Mỏng như là hơi thở cắt vuông ra
Đặt đồng tiền xuống, thấy nước mắt sa
Soi đồng tiền lên, chỉ thấy hình vợ Thiệu
Như mụ xì ke nhìn đời bêu riếu
Và bóng triệu người vất vưởng khuất sau lưng
Tiếng hát gieo sương chót lá rưng rưng
Thoắt cái giọng hiền thành lời phẫn nộ
Giọng em bỗng già như giọng bà quả phụ
Khóc chồng đi theo Mỹ lìa nhà
Để gió cuốn đi rồi tình nhớ với tình xa
Tất cả cạn dần chỉ còn mơ ước
Ngày đoàn tụ ôi vẹn tròn đất nước
Cầu mong, cầu mong, em hát khúc cầu mong
Thì đầu phố nhà em cây điệp lại lên hồng
Môi của mùa hè hát trời xanh giải phóng
Người về. Giặc tan. Đất lành yên tiếng súng
Bè bạn quây quần mà thiếu bóng em
Tôi thương em dù chưa một lần quen
Dù giữa hai ta có khác nhau đến mấy
Thì sẽ gần lại với nhau nếu em ở lại
Khánh tận chi mà ly biệt vội vàng?
Lặng rồi giọng hát mịn màng
Kìa bao cánh nhạc rộn ràng lại bay
Đời vui rạng rỡ ánh ngày
Chút riêng lựa một khúc này tiếc thương.
(Sài Gòn, đêm 21/5/1975)
TIỄN CÁC CHÁU ĐÁNH GIÀY VỀ QUÊ ĂN TẾT
Đường phố sẽ rộng ra vì vắng các cháu
Những gốc cây, hè phố sẽ buồn thiu
Có các cháu thì ồn ào, vướng bận
Các cháu đi rồi chú nhớ biết bao nhiêu.
Ôi những mái tóc rối bù, khét mùi nắng, mùi bụi
Nửa chất phác ngây thơ, nửa du đãng bụi trần
Đô thị hóa đi kèm ô hợp hóa
Những dòng sông nâu sồng giữa phố,
những đoàn quân
Khi các cháu trở lại nơi này, thế kỷ cũ đã hết
Mà người cần đánh giày thì ngày một đông lên
Chăm sóc hai bàn chân thì loài người rất nhớ
Chăm sóc trái tim mình,
có lúc có người quên.
Chỉ mấy ngày thôi về với cha với mẹ
Các cháu sẽ gặp lại quê mình xanh như thể tre xanh
Từ nghìn năm xưa tre vẫn xanh như thế
Dẫu chẳng phồn hoa mà cuộc sống an lành
Chú kể các cháu nghe một tên người. Cố nhớ!
An-đéc-xen viết chuyện Nàng Tiên Cá
thật là hay
Ông ấy là nhà văn của trẻ con toàn trái đất
Cũng xuất thân từ chú bé sửa giày
(Cuối năm 2000)
LÝ NGƯ TÔI VỌNG NGUYỆT
Tặng Thành Chương
Vẫn cá đớp tranh nhưng tranh anh đã khác
Không phải cá chép ngu ngơ ngó mặt trăng lành
Trăng cũ kỹ đến như là khuôn sáo
Mà cá tinh ranh hiện đại với tinh ranh
Cá ấy là anh, cứ thấy hoa là lú
Suốt một đời du đãng với mây trời
Cá ấy là tôi ham mê vùng vẫy
Để bây giờ sững sờ đứng ngắm mặt trăng trôi.
HỎA THIÊU CHO MỘT NGƯỜI ĐANG SỐNG
(Tặng Nguyễn Khắc Phục)
Trong bóng tối bùa mê, anh ấy tự làm ma
Tự thiêu cái bóng mình giữa thanh thiên bạch nhật
Thân xác ngỡ còn mà biến mất:
Đã cháy rồi những ngày tháng bơ vơ
Chàng thủy thủ không tàu, không biển
Túi không tiền, đầu không ý nghĩ
Ngủ lang với một sợi tóc rụng của đàn bà
Đã cháy rồi những hào quang huyễn hoặc
Những năm tháng làm vua mà không có triều đình
Đã cháy rồi những vướng bận linh tinh
Những xuẩn ngốc, tham lam cùng dối trá
Những thân thể lưu manh mặc áo trịnh trọng
Những phản bội ngọt ngào đòi được mang ơn
Đã cháy rồi những trống rỗng đầy ắp
Với rượu với bia và trăm thứ bà rằn
Không cô đơn ồn ào không chỗ nấp
Những con đường nhựa bị rải đinh 5 phân
Đã cháy cả rồi những thành công đích thực
Những ân nghĩa của dân và của lính
Thành công nào cũng chỉ là quá khứ mà thôi
Anh tự thiêu cái bóng và gia tài của mình
Tất cả đều cháy tàn cháy rụi
Từ đám tan trở về, tôi quay trở lại
Thấy một trái tim không cháy
Những trang giấy không cháy
Và những giọt nước mắt đàn bà hóa ngọc giữa tàn tro…
Hà Nội, trưa 27 tháng 7 năm 2005