Nhà văn - Tác phẩm

6/7
4:24 PM 2016

NHÀ THƠ HUY CẬN

Vanvn.net ra mắt trang Nhà văn- Tác phẩm để giới thiệu tiểu sử và tác phẩm của hơn 1000 nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nhằm phục vụ nhu cầu của các nhà văn, các nhà nghiên cứu, các thầy, cô giáo và đông đảo bạn đọc yêu mến văn chương.

                                                                                          Nhà thơ Huy Cận (ảnh: Internet)

                                 HUY CẬN

                                 (1919-2005)

 

 

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31 - 5- 1919 tại xã Ân Phú, huyện Dương Sơn, Hà Tĩnh, mất ngày 9 - 2 - 2005 tại Hà Nội. Trước khi mất ông sống tại Hà Nội, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (Tú tài, Cao đẳng Nông Lâm...) và hoạt động Văn học. Từ đầu năm 1942, vừa học Nông Lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7-1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) và vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm Thời. Từ 5-11 năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông (12-1946 đến 7-1947) rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế (1947-1949). Từ 1949 đến 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. Từ 1955 đến 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hoá; Từ tháng 9-1984: Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch uỷ ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhà thơ còn là Đại biểu Quốc hội khoá 1, 2 và 7,8. Nhà thơ Huy Cận còn là ủy viên Hội đồng chấp hành UNESCO từ 1978-1983, đồng Chủ tịch Hội đồng văn học Á Phi 1962 tại Cairo, đồng Chủ tịch Hội đồng Văn hóa thế gới 1968 ở Lahabana, ủy viên Hội đồng Pháp ngữ 1985-2000. Năm 2001 được bầu làm Viện sỹ Viện hàn lâm Thơ thế giới. Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt I-1996). 


Tác phẩm: 
THƠ: Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Trời mỗi ngày lại sáng (1958); Đất nở hoa (1960); Bài thơ của đời (1963); Hai bàn tay em (1967); Phù Đổng Thiên Vương (1968); Những năm 60 (1968); Cô gái Mèo (1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973); Chiến trường gần chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975); Sơn Tinh, Thuỷ Tinh (1976); Ngôi nhà giữa nắng (1978); Hạt lại gieo (1984); Tuyển tập Huy Cận tập I (1986); Chim làm ra gió (1991); Tào Phùng (1993); Thơ tình Huy Cận (1994); Marées de la Mer orientale Paris (1994); Tuyển tập Huy Cận II (1995); Thiên việt lương việt lãng (Bắc Kinh, 1959); Messages stellaires et terrestres (Canada, 1996); Thơ Huy Cận (1996).
VĂN: Tâm sự gái già (1940); Kinh cầu tự (1942); Suy nghĩ về nghệ thuật (1980 - 1982); Culture et politique république socialiste du Việt Nam. Paris (1985); Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993); Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (1994); Các vùng văn hoá Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khán, 1995); Culture Vietnamienne (traditionnelle et contemporaine, 1997).

 

THƠ HUY CẬN

 

BUỒN ĐÊM MƯA

 

Đêm mưa làm nhớ không gian 
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la... 

Tai nương nước giọt mái nhà 
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn 

Nghe đi rời rạc trong hồn 
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi... 

Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi... 
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ... 

Tương tư hướng lạc phương mờ... 
Trở nghiêng gối nặng hững hờ nằm nghe 

Gió về, lòng rộng không che 
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...

 

TRÀNG GIANG

 

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài 
H.C 
Tặng Trần Khánh Giư
 

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, 
Con thuyền xuôi mái nước song song. 
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; 
Củi một cành khô lạc mấy dòng. 

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, 
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều 
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; 
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. 

Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; 
Mênh mông không một chuyến đò ngang. 
Không cầu gợi chút niềm thân mật, 
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. 

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, 
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. 
Lòng quê dợn dợn vời con nước, 
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.


 

NGẬM NGÙI

 

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi... 
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. 
Sợi buồn con nhện giăng mau, 
Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây. 
Lòng anh mở với quạt này, 
Trăm con chim mộng về bay đầu giường. 
Ngủ đi em, mộng bình thường! 
Ru em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ... 
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ... 
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? 
Tay anh em hãy tựa đầu, 
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...

 

 

ĐI GIỮA ĐƯỜNG THƠM

Tặng Thạch Lam 

Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm... 
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm, 
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng. 
Đất thêu nắng, bóng tre, rồi bóng phượng 
Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu: 
Lên bề cao hay đi xuống bề sâu? 
Không biết nữa - Có chút gì làm ngợp 
Trong không khí... hương với màu hoà hợp... 

Một buổi trưa không biết ở nơi nào, 
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, 
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ 
Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự. 
Buổi trưa này xưa kia ta đã đi, 
Phải cùng chăng? Lòng nhớ rõ làm chi! 
Chân bên chân, hồn bên hồn, yên lặng, 
Người cùng tôi đi giữa đường rải nắng, 
Trí vô tư cho da thở hương tình, 
Người khẽ nắm tay, tôi khẽ nghiêng mình. 
Như sắp nói, nhưng mà không - khóm trúc 
Vừa động lá, ta nhận vào một lúc 
Cả không gian hồn hậu rất thơm tho; 
Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ... 
Trong cảnh lặng, vẫn đưa mùi gió thoảng... 
Tri bâng quơ nghĩ thoáng nhưng buồn nhiều: 
"Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu". 
Chân đang bước bỗng e dè dừng lại 
- Ở giữa đường làng, mùi rơm, hoa dại....

 

 

ĐẢO

 

Những đảo mù khơi ai viếng thăm! 
Chim con mòn mỏi cánh giam cầm 
Rêu vàng nở gượng đôi hoa gió, 
Không hạt phương xa đến gởi mầm 

Chỉ có nghìn năm triều sóng động 
Mai chiều trải lại nếp vô biên 
Mây phiêu lưu cũng không ngừng bóng, 
Cát nổi đòi cơn trận tủi phiền. 

Tôi nhớ bân quơ những chiếc hồn 
Muôn trùng biển rộng, đảo con con. 
Thuyền không giao nối đây qua đó, 
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm.


1940

 

GẶP CHỊ ĐIÊN

 

Chủ nhật qua tôi gặp một người điên 
Trên mặt ngây thơ nét nét dịu hiền 
Lấp loáng dọi hai mắt đà mờ ảo. 
Sự sống thọt, đời không tỉnh táo 
Chị cầm roi nhưng nào biết đánh ai. 
Các trẻ em bu quanh chị, đùa dai, 
Chị vút gió rồi đứng cười rờn rợn. 
Người qua phố xem lâu, cũng chán 
Bỏ chị đi như chợ vãn chiều hôm. 

Chị là ai? Đau khổ lắm? Tay ôm 
Bó quần áo rách tươm như giẻ vụn. 
Chị đứng đó, thuyền trôi mất hướng 
Mà bỗng nhiên biển hoá đá mênh mông. 

Hỡi tâm hồn mắc cạn giữa dòng 
Có phải chị còn chờ mong hướng gió ? 
Ai nhìn được trong tâm hồn mờ tỏ, 
Trong não cân đã loang loang lổ vùng đêm ? 
Mắt chị nhìn đâu leo let ngọn đèn, 
Tôi bất giác nhớ ngày nhật thực 
Bóng tối ăn hoen mặt trời sáng rực. 

Đời tôi đã gặp nhiều chết nhiều đau, 
Đã thấy những thân người như hoa héo nhựa xàu 
Sự sống khô đi như dòng nước cạn 
Nhưng nói sao hết lòng tôi đau đớn 
Thấy chị đứng, đi, da thịt hồng tươi 
Nói năng mà như không sống nữa rồi... 
Sương chiều xuống như xoá nhoà cây cỏ. 
Trong mắt chị chút hồn còn mờ tỏ 
Cũng dường như pha loãng biến trong sương. 

Chị về đâu? Mẹ chị đến, yêu thương 
Nâng đầu chị như tay già chống chọi 
Với trái sắp rơi, với hồn sắp tối. 
Chuyện đau thương mẹ chị kể đầu đuôi, 
Chuyện gia tài xâu xé, tình nghĩa pha phôi, 
Chuyện đời cũ hơi tiền làm lạnh máu... 
Chị mất trí, bị "cuộc đời" lừa đảo. 
Sau màn sương trắng đục mặt trời chiều 
Đỏ bầm như cục máu uất ai treo, 
Cả hồn chị đã tím bầm trong đó. 
Tôi tưởng nghe trong hồn ai sụp đổ 
Rít vang lên cả quá khứ bạo tàn 
Trong buổi chiều sương trắng lạnh màu tang.


12/54 - 5/59

 

 

 

CẨM THẠCH- HƯƠNG TRẦM

Hỡi em yêu, hỡi em thương 
Thân em cẩm thạch tẩm hương rừng trầm 
Mưa trời ướt lá lâm thâm 
Tương tư ngày tháng ướt dầm hồn anh 
Em yêu: tượng ngọc vân xanh 
Anh yêu gốc cội, yêu cành đung đựa 
Yêu đôi trái chín đang mùa, 
Yêu vòm biển động triều khua nhịp đời 
Là cây anh mọc đất tươi, 
Là sao anh mọc đỉnh trời vô biên, 
Là tình yêu dại, yêu điên 
Yêu em da diết triền miên tháng ngày

 

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

 

Mặt trời xuống biển như hòn lửa 
Sóng đã cài then, đêm sập cửa. 
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, 
Câu hát căng buồm cùng gió khơi. 

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng, 
Cá thu biển Đông như đoàn thoi 
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng. 
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! 

Thuyền ta lái gió với buồm trăng 
Lướt giữa mây cao với biển bằng, 
Ra đậu dặm xa dò bụng biển, 
Dàn đan thế trận lưới vây giăng. 

Cá nhụ cá chim cùng cá đé, 
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng, 
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé, 
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long. 

Ta hát bài ca gọi cá vào, 
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao, 
Biển cho ta cá như lòng mẹ, 
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào. 

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng, 
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng, 
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông, 
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng. 

Câu hát căng buồm với gió khơi, 
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời. 
Mặt trời đội biển nhô màu mới 
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.


 

DIỆU ƠI, DIỆU ĐÃ VỀ YÊN TỊNH

 

Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh 
Cận hãy còn đây trăm xốn xang, 
Cận mới về thăm quê Nghệ Tĩnh 
Gặp tuần trăng sáng ngẩn ngơ trăng. 

Cận ra Thanh Hoa nằm bên biển 
Biển lại dồn xao không phút ngưng. 
Diệu đã đi xa về tới bến 
Cận đang biển động sóng lừng dâng. 

"Hồi kí song đôi" đang viết dở 
Hai chương tuổi nhỏ chép xong rồi 
Đời ta, trang khép, còn trang mở 
Cận viết đầy trang, tay mới xuôi. 

Biển lớn băng qua, ấy biển đời 
Biển vào vũ trụ, ánh sao mời 
Diệu dò thế giới bên kia trước 
Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.


Sầm Sơn sáng 27-7-1986

 

ANH ĐẦU THAI VÀO ĐỜI EM MỖI SÁNG

 

Anh đầu thai vào đời anh mỗi sáng 
Đời tinh khôi theo hướng mắt em nhìn 
Anh đi trên bờ của biển em sâu thẳm 
Và anh trở về sâu thẳm của hồn anh, 
Theo làn sóng em; vận mệnh đôi ta 
Là hai đợt sóng giao hoà 
Trên biển lớn. 
Liệu hai ta có đổ xuống lúc cập bờ? 
Anh dựa vào bờ em chiều lặn 
Anh tự nhận mình trong gương em xán lạn 
Để yêu em tận cội, tận nguồn 
Để óc toàn em: hoa hồng và gai nhọn. 
Anh đầu thai vào đời em mỗi sáng 
Em là bình minh, em là rạng đông 
Là chân trời lùi xa mãi mãi 
Và chiếc đồng hồ cố định đời anh 
Đánh những giờ số mệnh. 
Em là hương vị của ngày, hương vị của đêm 
Hương vị nhựa nồng và trái ngọt 
Mà anh hít thở để làm êm đói khát 
Của hồn anh nung chảy khát thèm.

 

CHIÊM BAO THỈNH THOẢNG EM VỀ

 

Chiêm bao thỉnh thoảng em về 
Mắt còn toả mộng cuồng mê thuở đầu. 
Gặp nhau không ngợ ngàng nhau 
Má xuân trời cũ đọng màu ráng xưa 
Chiêm bao yêu muộn nhớ thừa 
Là nơi họp mặt ngày đưa tiễn rồi 
Thân dù sông núi xa xôi 
Giấc mơ qua lại lứa đôi tự tình 
Yêu nhau nhớ dáng tưởng hình 
Chiêm bao em có một mình chăng em? 
Đời buồn lạnh gối đêm đêm 
Biệt li gì mộng! Nhớ tìm thăm nhau

 

CÁC VỊ LA HÁN CHÙA TÂY PHƯƠNG

Chùa Tây Phương (Sơn Tây) có những pho tượng La Hán rất đẹp, rất sinh động tạc vào thế kỷ 18. Nhà nghệ sĩ xưa đã vô tình hay hữu ý mượn đề tài chuyện Phật mà miêu tả xã hội quằn quại đau khổ trong nhiều biến động, và bế tắc không tìm được lối ra. 

Các vị La Hán chùa Tây Phương 
Tôi đến thăm về lòng vấn vương. 
Há chẳng phải đây là xứ Phật, 
Mà sao ai nấy mặt đau thương? 

Đây vị xương trần chân với tay 
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy 
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt 
Tự bấy ngồi y cho đến nay. 

Có vị mắt giương, mày nhíu xệch 
Trán như nổi sóng biển luân hồi 
Môi cong chua chát, tâm hồn héo 
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi. 

Có vị chân tay co xếp lại 
Tròn xoe từa thể chiếc thai non 
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối 
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn.... 

Các vị ngồi đây trong lặng yên 
Mà nghe giông bão nổ trăm miền 
Như từ vực thẳm đời nhân loại 
Bóng tối đùn ra trận gió đen. 

Mỗi người một vẻ, mặt con người 
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời 
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã 
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi. 

Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau 
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu 
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp 
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau. 

Có thực trên đường tu đến Phật 
Trần gian tìm cởi áo trầm luân 
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót 
Các vị đau theo lòng chúng nhân? 

Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu? 
Sống lại cho tôi hỏi một câu: 
Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh 
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau? 

Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão 
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời 
Là cha ông đó bằng xương máu 
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi. 

Cha ông năm tháng đè lưng nặng 
Những bạn đương thời của Nguyễn Du 
Nung nấu tâm can vò võ trán 
Đau đời có cứu được đời đâu. 

Đứt ruột cha ông trong cái thuở 
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ 
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn 
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương. 

Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la 
Sờ soạng, cha ông tìm lối ra 
Có phải thế mà trên mặt tượng 
Nửa như khói ám, nửa sương tà. 

Các vị La Hán chùa Tây Phương! 
Hôm nay xã hội đã lên đường 
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại 
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương. 

Cha ông yêu mến thời xưa cũ 
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần! 
Những bước mất đi trong thớ gỗ 
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.


27-12-1960

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *