NHÀ THƠ CHẾ LAN VIÊN
Nhà thơ Chế Lan Viên (ảnh: Internet)
CHẾ LAN VIÊN
(1920-1989)
Nhà thơ Chế Lan Viên, tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14 tháng 1 năm 1920 tại Diễn Châu, Nghệ An. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Mất ngày 24 tháng 6 năm 1989 tại TP. HCM
Trước cách mạng sống ở Quy Nhơn. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội sau đó vào Sài Gòn làm báo rồi ra dạy học ở Thanh Hóa và Huế. Tham gia cách mạng tháng 8-1945 tại Quy Nhơn. Sau đó ra Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, làm báo chí ở Liên khu IV, khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng bị chiếm Bình Trị Thiên. Hòa bình lập lại, hoạt động ở Hà Nội. Đã đảm nhiệm nhiều công việc: ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội các khóa 4,5,6,7, ủy viên Ban thống nhất của Quốc hội khóa 4 và 5.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Thơ: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); Ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Hoa trước lăng Người (1976);Hái theo mùa (1977); Hoa trên đá (1984); Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990); Di cảo thơ I, II (1992, 1993). Văn xuôi và ký: Vàng sao (1942); Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963); Những ngày nổi giận (bút ký, 1966); Giờ của đô thành (bút ký, 1977). Tiểu luận phê bình: Nói chuyện thơ văn (1960); Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981).
Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I (1996); Giải A giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1995 (tập thơ Hoa trên đá); Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1994 ( Di cảo I và Di cảo II)
THƠ CHẾ LAN VIÊN
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
..................................
..................................
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn
Lừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui!
Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận
Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang
Máu Chàm cuộn tháng ngày niềm oán hận
Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn
Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi
Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay lại ấp
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui
Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành
Đây, trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo
Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa
Những cảnh ấy Trên Đường Về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi
Và từ đấy lòng ta luôn tràn ngập
Nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời
ĐIỆU NHẠC ĐIÊN CUỒNG
Hầu ran nóng, lửa hồng bừng cháy mắt
Máu hồng tươi lay vỡ cả thành tim
Ðâu điệu nhạc điên cuồng ta khao khát
Chẳng vang lên tràn ngập suối träng êm?
Ðem mau đây, chiếc sọ dừa ứ huyết
Chiếc xương khô rợn trắng khí tinh anh!
Và rót mau trong hồn ta tê liệt
Những nguồn mơ rồ dại, hỡi yêu tinh!
Ta sẽ nhịp khớp xương lên đỉnh sọ
Ta sẽ ca những giọng của Hồn Ðiên
Ðể máu cạn, hồn tàn, tim tan vỡ
Ðể trôi đi ngày tháng nặng ưu phiền!
Ðể hưởng lấy một giờ không tục lụy
Ðể uống vào một phút chết say sưa!
- Nhạc trần gian khôn vui hồn quạnh quẽ
Rượu trần gian gây nhớ vết thương xưa
ĐỢI NGƯỜI CHIÊM NỮ
Tối hôm nay chị Hằng nghiêm nghị quá
Dãy cây vàng đợi mộng, đứng im hơi
Không một mối trăng ngà rung muôn lá
Không một làn mây bạc vẩn chân trời
Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo, lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ
Tan dần trong Im Lặng của đồng quê
Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ
Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng
Vài ngôi sao lẻ loi hồi hộp thở
Một đôi cành tơ liễu nhúng trong trăng!
Nàng không lại, và nàng không lại nữa!
Cả thân ta dần tan trong hơi thở
Ôi đêm nay, lòng hỡi, biết bao sầu!
Kìa trời cao, trên mãi chín từng cao
Hồn ta bay trong một làn khói tỏa
Chẳng biết rồi lưu lạc đàn nơi nao?
NGƯỜI THAY ĐỔI ĐỜI TÔI, NGƯỜI THAY ĐỔI THƠ TÔI
Những năm ấy tôi đi giữa lòng Hà Nội
Không hay trong xà lim anh Hoàng Văn Thụ đang nằm
Không biết anh Trần Đăng Ninh bị cùm tay mỗi tối
Không hay trên biên thùy Bác đã dừng chân
Tôi đến Nha Trang ngắm trời bể đẹp
Có hay đâu hang Pắc Bó gió lùa
Giường lãnh tụ là hai hàng đá ghép
Mảnh áo chàm Bác mặc quá đơn sơ
Đất nước sắp đổi thay rồi mà tôi chẳng biết
Người thay đổi đời ta đã về kia, ta vẫn không hay
Tôi vẫn khép phòng văn hì hục viết
Nắng trôi đi oan uổng biết bao ngày
Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng!
Ta làm con nai lạc giữa rừng thu
Làm hổ sa cơ giận vườn bách thảo
Làm bóng ma Hời sờ soạng đêm mơ
Làm tất cả! chỉ trừ không đổ máu!
Nở trắng hoa kim anh trên biên giới, Bác về
Xa nước ba mươi năm một câu Kiều, Người vẫn nhớ
Mái tóc Bác đã phai màu quá nửa
Lòng son ngời như buổi mới ra đi
Người đánh thức hồn dân tộc đã về kia. Ta nghe bừng tỉnh dậy
Câu quan họ, xẩm xoan xưa vứt ngã ba đường
Điệu lục bát và màu nâu nơi ruộng rẫy
Bức tranh làng Hồ và cô Tố nữ dáng quê hương
Người đánh thức tương lai đã về kia, Bác hôn lên hòn đất
Nghe trong tay trở dậy những thành đồng
Nghe thay đổi cả vóc hình Tổ quốc
Chừng Điện Biên rực lửa đã nằm trong
Tôi ở đâu? Đi đâu? Tôi đã làm gì?
Đời thấp thoáng sau những trang sách Phật
Đất nước đau dưới gót bầy ngựa Nhật
Lạc giữa sao trời, tôi vẫn còn mê...
Chưa có gì dính líu giữa thơ tôi và truyền đơn Bác viết
Tôi không biết khi Bác đau phải ăn một nắm lá rừng
Trong nước mắt thơ tôi, tôi chưa ngờ chất thép
Chưa thấy trong máu mình sắp cuộn máu nhân dân
Ôi giữa lòng ta, Bác đến tự hồi nào?
Bác vĩ đại mà chẳng làm ai kinh ngạc
Một buổi sáng, nhìn lòng ta, ta thấy Bác
Nước mắt ràn, ta cảm hết ơn sâu
Ấy là khi ta có thể nhảy vào đồn mà không sợ lửa
Ăn một miếng khoai bùi ta cảm thấy là ngon
Khi riêng tây, ta thấy mình xấu hổ
Khi nhìn đời, mỗi lá mỗi tơ non
Khi uống ngụm nước trong, lưỡi ta không còn đắng chất thị thành
Đời tươi mát như ao sen mùa hạ
Anh em bốn bên mà ta ở giữa
Có được trái cây thơ, ta biết quí cả mùa lành
Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc
Thành một nhành hoa mát mắt cho đời
Khi mỗi bước đi lên của lòng ta đều thấm tình giai cấp
Ta biết trong đời ta Bác đã đến rồi
TỔ QUỐC BAO GIỜ ĐẸP THẾ NÀY CHĂNG?
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn!
Trái cây rơi vào áo người ngắm quả
Đường nhân loại đi qua bóng lá xanh rờn
Mặt trời đến mỗi ngày như khách lạ
Gặp mỗi mặt người đều muốn ghé môi hôn...
Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời
Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khoá
"Những pho tượng chùa Tây Phương" không biết cách trả lời
Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ...
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi!
Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ
Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng
Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ
Thịt xương ta giặc phơi ngoài bãi bắn
Lại tái sinh từ Pắc Bó, Ba Tơ...
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thuỷ triều vẫy gọi những vầng trăng
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt
Gỗ trăm cây đều muốn hoá nên trầm
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng...
Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!
Ta tựa vào Ngươi, kéo pháo lên đồi
Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát
Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ Cát
Rồng năm móng vua quan thành bụi đất
Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!
Đều lộng hương thơm những cánh đồng hợp tác
Chim cu gần, chim cu gáy xa xa...
Ruộng đoàn tụ nên người thôi chia cắt
Đêm no ấm, giọng chèo khuya khoan nhặt
Lúa thêm mùa khi lúa chín về ta
Rồi với đôi tay trắng từ Đinh, Lý, Trần, Lê... Đảng làm nên công nghiệp
Điện trời ta là sóng nước sông Hồng
An Dương Vương hãy dậy cùng ta xây sắt thép
Loa thành này có đẹp mắt Người chăng?
Ong bay nhà khu tỉnh uỷ Hưng Yên
Mật đồng bằng mùa nhãn ngọt môi em
Cây xanh ngắt đất bạc màu Vĩnh Phúc...
Ôi! cái thuở lòng ta yêu Tổ quốc
Hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên?
Ôi, cái buổi sinh thành và tái tạo
Khi thiếu súng và khi thì thiếu gạo
Nhưng phù sa này đẻ ra những Cà Mau thịnh vượng mai sau
Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu
Ta đẻ ra Đời, sao khỏi những cơn đau
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
Ôi! thương thay những thế kỷ vắng anh hùng
Những đất nước thiếu người cầm thanh gươm nghìn cân ra trận...
Nhà thơ sinh đồng thời với mưa phùn và những buổi hoàng hôn
Cả xứ sở trắng một màu mây trắng!
Ai biết mây trên trời buồn hơn hay thơ mặt đất buồn hơn?
Chọn thời mà sống chăng? Anh sẽ chọn năm nào đấy nhỉ?
Cho tôi sinh ra buổi Đảng dựng xây đời
Mắt được thấy dòng sông ra gặp bể
Ta với mẻ thép gang đầu là đứa trẻ sinh đôi
Nguyễn Văn Trỗi ra đi còn dạy chúng ta cười...
Cho tôi sinh giữa những ngày diệt Mỹ
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến luỹ
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
TỪ THẾ CHI CA (I)
1
Anh không ở lại yêu hoa mãi được
Thiêu xong, anh về các trời khác cũng đầy hoa
Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó
2
Anh thành một nhúm xương gio trong bình
Em đừng khóc
Ngoài vườn hoa cỏ mọc
3
Cho dù trái đất không còn anh
Anh vẫn còn nguyên trái đất
Tặng cho mình
4
Những kẻ nguyền rủa anh sẽ buồn
Chả còn anh cho họ giết
Dao sẵn rồi, họ không dễ để yên
5
Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ
Trong hạt sương, trong đá...
Trong những gì không phải anh
Anh tồn tại mãi
Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
(Viết trước khi mổ 21 ngày
Bệnh viện Chợ Rẫy 29-8-1988)
TỪ THẾ CHI CA (II)
Có thể là trái đất mất anh hơn là anh mất nó
Nó mất anh như mất một hạt bụi có nghĩa gì?
Còn anh ngày mai khi đã là linh hồn, anh vẫn nhìn thấy nó
Cha vẫn nhìn thấy con, thấy mẹ, thấy khu vườn
Có điều ở thế giới ấy trong sáng, người ta không đau, không dùng nước mắt
Người ta trong như thủy tinh, chỉ còn có tình thương
Con vẫn nằm trong tầm mắt cha khi con đau khổ hay là khi hạnh phúc
Còn như mồ cha, cái bình tro xương cha
Có phải cha đâu?
Ờ, ở thêm cùng các con, cùng mặt đất này dăm năm, dăm tháng, dăm ngày
Có khi cũng là hay đấy
Nhưng biết đâu chất thủy tinh sau đấy sẽ đục hơn
Cuộc sống của vũ trụ là một Bi Kịch Vui
Hay đó là một nỗi Buồn vĩ đại làm phấn chấn
Và khi nhìn trời xanh, con yêu, ấy chính cha rồi!
8-9-1988
ĐÔNG KY SỐT
Quá nhiều bất công
Tội ác trùng trùng
Chả hiệp sĩ nào buồn xách gươm lên ngựa
Gươm muốn làm lành cùng cối xay
Bảo là nó không xay người
Mà chỉ là xay gió!
Đuynxinê khuyên chàng thúc thủ
Đừng ăn cơm nhà, đi làm các chuyện vô công!
Xăng sô tìm nơi ngủ
Tin rằng không cần nhiều sự
Tự nhiên trời đất sẽ hồng
Con ngựa gầy, thả ra cho nó đi ăn cỏ...
Đông Kisốt tản bộ
Cùng cô nàng đi dạo bên sông...
Cấm tái bản Đông Kisốt
Hoặc in toàn bộ
Tóm nó lại thành bài ca
Thiên hạ đại đồng
1985
NGƯỜI MAI SAU
Cái không đáng khóc bây giờ, ta sẽ khóc mai sau
Mai sau, mai sau khi chẳng còn ta nữa
Một chút nắng xao ở đầu ngọn gió
Là ta đấy mà, ai có biết đâu?
Họ ngờ chỉ là mùa xuân trong vườn của họ
Có biết đâu đấy là người xưa về trong gió còn đau
Họ có khóc, ngờ đấy là lệ họ
Không hay nhân loại nằm ở dưới bề sâu
THƠ THẾ KỶ 21
Thơ không thể cù lần
Các chữ hóa thần
Các chữ thành thiêng
Mà thơ cần cà chớn
Đấy là một cách đa nghi thơ
Ưng bay trên đầu người, trong khí quyển
Ta lôi thơ xuống bùn, chạm vào đất đen
Nói chuyện thường ngày, vặt vãnh quàng xiên
Lột trần áo bào và mũ triều thiên
Thơ cầm bị gậy đi ăn xin ở bên đường nhân loại trẩy...
Thơ thế kỷ 21 mà!
Làm sao có thể hồn nhiên
Sau hai ngàn năm tìm tòi phá phách
Râu dưới cằm và lông trong nách
Tóc trên đầu hay bóng người trên vách...
Thơ cũng nói hết rồi!
Hàng ngàn năm nghiêm trọng đủ rồi!
Giờ thơ thử chơi:
Chơi! Nghịch. Đùa. Thế tục.
Thượng đế có tên: Cậu Huế
1987
ĐỊNH NGHĨA DÂN TỘC
Dân tộc muốn sống giữa lửa chiến tranh và lũ lụt của người
Vỡ đê biển với vỡ đời
Dân tộc không thể biến đi mà chỉ hóa
Không để Tháp, Mộ Lăng, Mồ Mả...
Để Hề Gậy, tiếu lâm và một chuỗi cười
Dân tộc bốn nghìn năm bị cái dạ dày làm khổ
Buôn đầu chợ bán cuối chợ
Khổ trên sông và khổ bên sông
Lụt sông Mã, sông Thương, sông Cái, sông Hồng...
Bo bo hạt gạo bằng trời của mình
Tấm mẳn của mình
Vơ bèo gạt tép mà tồn tại
Do đó phải nhờ Bụt, nhờ Trời, nhờ Chúa, nhờ Nàng Tiên cứu rỗi
Khi sống ăn cơm
Chết nhờ húp cháo lá đa mà tồn tại
Dân tộc có quá nhiều kẻ thù
Nên phải làm lành
Dân tộc Thiền tông
Hết giặc rồi, đổ căm thù xuống bể xuống sông
Gieo nắm thóc trên đất đen cho nó nảy mầm
Gieo nắm thóc trên đất đen như máu đỏ bầm
Gieo cái hôn trên môi như thóc cháy nảy mầm
Ấy thế mà hay lật ngược mình ra phơi tiềm lực
Hôm nay (...) chỉ vì hôm qua có
Hôm nay lợn ỷ, gà chuồng
Mà ngày mai gà lợn âm dương
Đám cưới chuột huy hoàng
Ngũ sắc
Hóa, hóa chứ sao?
Không thể chỉ có một bề, một mặt
Hôm qua là chú bé Gióng
Hôm nay roi, ngựa sắt
Hóa xoan đào, hóa vàng anh, hóa Nàng Tiên...
Nhiều tai ương
Nên phải nhờ thần Kim Qui, nhờ Đạm Tiên, nhờ Bụt...
Dân tộc trầm luân trong sóng Tiền Đường
Thế nhưng đánh giặc xong rồi
Thì vất đi roi sắt
Vất cả khóm tre ngà nhổ lên đánh giặc
Hóa làm đứa trẻ thơ
Lạy mẹ
Rồi bay về trời, mắt thơ ngây đầy lệ
Bay về trời hút bóng giữa tre xanh
Dân tộc làm gián cách
Hề về những nỗi đau khiến mình xé rách
Lấy tiếng cười tạo ra nỗi đau, quãng cách
Trước khi đau
Thành Hề Gậy, Hề Mồi, tiếu lâm, chú Tễu...
Cuộc đời rất đểu
Phải vui mà đương đầu
Ừ dù sao cũng không thể biến đi mà cần tồn tại
Và phải hóa thì mới đương đầu nổi
Trở thành Ta cật vọt hơn mình
Bác đã làm như vậy
Đất nước nghèo, từ người thư sinh áo vải
Hóa thân thành lãnh tụ
Xong giặc rồi, hóa tinh thần
Về lại giữa ca dao
1987
(Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (Vũ Thị Thường sưu tầm, biên soạn)
QUAN NIỆM THƠ
Làm thơ xưa như ông từ trịnh trọng vào đền
Như chú rể lần đầu tiên sang nhà bố vợ
Như thần tử quì trước ngôi mặt Chúa
Như là người mọc cánh thành tiên...
Làm thơ ngày nay như người diễn xiếc
Như chú hề lùn yêu cô nàng mắt biếc
Có cái gì quỉ quái ngây ngô
Primitif như tranh của Rousseau
Rất đỗi dại khờ
Tỉnh bơ
***
Làm thơ chứ không để thơ làm
Càng không để rượu làm, chữ làm, vần làm
Cuồng tín
Thơ là chưa bay mà đã đến
Là đang yêu bỗng giã từ
Là ba chữ thôi mà là bể, là giếng, là kho vàng hiển hiện
Là hoa sen cười nửa miệng mà Chân Như
HỒI KÝ BÊN TRANG VIẾT
Tôi tiếp cận trang giấy ngày mười sáu tuổi
Bây giờ sáu ba
Cái trang mơ ước một đời chưa với tới
Dần xa
Tôi như người xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt
Chỉ sắp lọt rồi. Kim bỗng lùi xa
Tôi bước lên một bước. Kim lùi thêm một bước
Ấy thế mà hết một cuộc đời văn học
Tính tháng ngày, nửa thế kỷ trôi qua...
***
Phải đâu tôi quá nhác lười
Khi gà te te đầu thôn, gà te te cuối xóm
Tôi đã dậy, cày vào trang giấy trắng
Ngọn đèn thơ đối chọi ánh sao Mai
Khi trong tổ mẹ con chim còn ngái ngủ
Sông bên ngoài còn chậm chạp dòng trôi
Lá còn giọt sương đêm trong mắt nhỏ
Con ong thơ đã bay đi kiếm mật phía chân trời...
Biết bao đêm, trang giấy ngủ rồi, tôi thức gắng
Con vạc ăn khuya, con mối chết bên đèn
Mùi hoa bưởi lừng lên giữa trời vắng lặng...
Những gì chưa kịp nghĩ ban ngày, tôi đợi giữa lòng đêm
Tôi tỉnh dậy! Chói lòa Trang giấy trắng
Như con đường hun hút về Vô Tận
Để bơ vơ ngòi bút của tôi qua
Nhìn trang giấy biết mình hữu hạn
Ngủ đi thôi! Kìa lại sắp tiếng gà!
Nhớ buổi đầu trang giấy gọi kêu tôi
Cái quãng trống, quãng trắng, quãng vô hình cần chiếm lĩnh
Cái đỉnh tư tưởng, ngôn từ lên cao sẽ với được trời
Tôi ngỡ dễ! Lao ào vào trận đánh
Mẹ đói cần cơm ăn, tôi cho mẹ Trang Thơ và nhúm cỏ hái trên Trời
Ôi, tuổi trẻ thơ ngây và khờ dại
Một chút biếc ở đầu cây, tôi ngỡ đấy là tài
Sức lực bé mà ham nói điều vĩ đại!
...
1983
(Bài thơ còn dở dang, chưa viết xong)
KỊCH 2
Như nhà đóng kịch, đóng trăm vai bây giờ chán kịch
Về cuối đời chơi con rối ngu ngơ
Không tin vào cái thông minh của mình mà tin vào con rối dại khờ
Nó gật đầu ư, hồn mình gật theo
Nó chớp mắt, lòng ta chớp với
Như nhân loại đã nghìn vạn năm nhân loại
Bây giờ muốn đóng đứa trẻ thơ một tuổi
Xưa tôi làm thơ, giờ thử để Thơ làm
1987