CHUYÊN MỤC NHÀ VĂN-TÁC PHẨM: NHÀ THƠ, NHẠC SĨ VĂN CAO
Nhà thơ-Nhạc sĩ Văn Cao
Tác phẩm chính của Văn Cao đã xuất bản: “Cái hầm sông” (kịch, 1948) “Những người trên cửa biển (trường ca 1956); Lá (thơ, 1988). Ông mất năm 1995 và được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, đợt 1, năm 1996.
THƠ VĂN CAO
THỜI GIAN
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi
Những tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước
Xuân Đinh Mão, 2-1987
PHỐ PHÁI
(Tặng Bùi Xuân Phái)
Không người ở
Không số nhà
Không tên phố
Tôi gửi bài thơ về
Phố Phái
Người đưa thư sẽ tìm đến phố anh
Một góc phố Hà Nội
Một góc phố Việt Nam
Trước khi Tây chiếm thành
Hà Nội
Một góc phố anh sống
Một góc phố tôi sống
Không người ở
Không số nhà
Một mình
Phố trắng
Một góc phố tồn tại
Vĩnh viễn.
QUY NHƠN 3
Từ trời xanh
rơi
vài giọt tháp Chàm
quanh Quy Nhơn
tôi như đứa nhỏ yêu huyền thoại
Từ núi xuống
từ biển vào
từ cánh đồng mọc lên
con trai
con gái
Bình Định
một lưỡi mác
vẳng tiếng trống Quang Trung
xác xe tăng bên đường Mười Chín
mọc những làng dừa
Mẹ ơi muối đâu Sa Huỳnh
phải mồ hôi làm nước biển
Mẹ ơi đường ngọt từ đâu
phải mồ hôi đọng
Mẹ ơi các con từ đâu
phải từ sữa mẹ
Mẹ ơi Quy Nhơn từ đâu
mảnh trời chim yến
Mẹ ơi! Bình Định từ đâu
phải từ máu thắm
Không
đất này mọc lên
từ
nước mắt… !
15-4-1985
NĂM BUỔI SÁNG KHÔNG CÓ TRONG SỰ THẬT
"Những mái nhà như những cánh chim đêm
Ủ những giấc mơ dưới trời sao lồng lộng"
I
Ngủ dậy một sáng
Cả phố biến đâu mất
Không một bóng người đi
Im lặng hồ nước sâu thăm thẳm
Mặt đất đỏ màu gạch nung
Như miệng quả núi lửa
Anh đi tìm em
Tìm dấu vết những con đường
Chúng ta thường đi lại
Giữa mênh mông tôi gọi em mãi mãi
Thế kỷ chúng ta dừng lại nơi đây
Em ở đâu
Thế kỷ chúng ta còn đang tiếp tục
Trên trái đất này
Hàng ngày đứng lại nơi đây
Tôi gọi em mãi mãi.
II.
Buổi sáng nay không nghe tiếng chim hót
Một buổi sáng không thực
Tôi bước đi không thấy tiếng chân đi
Cả thành phố cùng tôi im lặng
Tất cả những con người
Chỉ thấy mắt đen lay láy
Cả tiếng xe không thành tiếng
Tại sao? Tại sao?
Không ai nhìn miệng tôi gào thét không ra tiếng
Trong kinh hoàng tôi chạy trên đất
Một mình
Giữa thành phố mọi người im lặng
Tại sao? Tại sao? Không tiếng nói
Không tiếng động, không sự sống
Tại sao thành phố sa mạc
Không nghe gió thổi
Những hình người như bị đẩy
Qua nhanh
Hình như nơi đây
Bị đày trong im lặng…
III.
Buổi sáng nay không phải mình thức dậy
Một người nào trong tôi đang thở
Trước mặt tôi
Buồn nửa đêm nửa ngày len lỏi
Nửa phố mặt trăng nửa phố mặt trời
Từ khi ấy chúng tôi, hai người suy nghĩ
Hai kẻ thù nhau
Hai thái cực tâm hồn
Hai người ấy trong một người chịu đựng
Mưu hại lẫn nhau
Không biết ngày đêm, không biết giả thật
Từ phút ấy, tôi không còn thật nữa.
IV.
Buổi sáng nay cả phố phường như mở hội
Mỗi con người đeo mặt nạ đi chơi
Những bước chân nhảy múa
Vui lên cành non
Lá bàng trên phố xanh màu ngọc
Xuân tháng hai
Cửa hàng rượu bên đường
Tơ lụa pha len, hoa giấy ni-lông
Những mặt nạ gặp nhau chào hỏi
Những em bé búp bê mùa xuân
Hồng hào da thịt
Ngồi đập nút chai làm tiền bạc chơi xuân
Mở tròn mắt nhìn kinh ngạc
Họ vui làm sao
Ô kìa
Nước mắt mồ hôi
Sao chảy ra trên từng mặt nạ
Từng con người
Vội vàng lau mồ hôi và nước mắt
Trên những mặt nạ giấy bồi.
V.
Những cánh cửa đều khóa chặt
Trong gian phòng trong suốt thủy tinh
Em ở đây với anh
Cho bớt lạnh sáng mùa xuân náo níu
Thịt da em cho anh sưởi
Hơi ấm mình con chim khuyên
Trong lòng bàn tay
Run rẩy
Giữa hai cành non
Nghe nhựa mùa xuân
Những nụ hồng mới nở
Và mật vừa thơm và ong đã tới
Chúng ta đi vào bí mật mùa xuân
Ngày đầu tiên của em trên biển.
KHUÔN MẶT EM
Giữa những ngày dài dằng dặc
Chỉ còn khuôn mặt em
Sáng trong và bình lặng
Dù hai đứa chúng ta
Chưa lúc nào sung sướng
Những ngày đau khổ ấy
Khuôn mặt em
Như mảnh trăng những đêm rừng cháy
Trên đường đi
Anh đặt em trên đồng cỏ
Thấy đẹp mãi màu xanh cỏ dại
Trên đường đi
Anh đặt em trên dốc núi
Ðể tìm lại những đường mềm của núi
Trên đường đi
Khuôn mặt em làm giếng
Ðể anh tìm lấy đáy ngọc châu
ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng
Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng.
ANH CÓ NGHE THẤY KHÔNG
(Gửi một nhà thơ xưa đã nổi tiếng)
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi
Dù những ngôi sao đang nở trên trời
Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân các cô gái
Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm
Chúng nó còn ở lại
Trong những tuổi bốn mươi
Đang đi vào cuộc sống
Như nấm mọc trên những thân gỗ mục
Người bán giấy cũ
Đã hết những trang tiểu thuyết ế
Những trang báo ngày xưa
Đang bán đến những trang sách mới
Những bài thơ mới nhất của anh
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng
Những con mèo ngủ yên trên ghế
Trong một cuộc dọn nhà
Những con sên chưa dám ló đầu ra
Những cây leo càng ngày càng, tốt lá
Một nửa thế giới
Một nửa tâm hồn
Một nửa thế kỷ
Chưa khai thác xong
Bây giờ không còn những tiểng nổ to
Nhưng còn những tiếng rạn vỡ
Có thể thu hết những khẩu súng phản động
Nhưng vẫn còn
Những khẩu súng đưa người tự tử.
Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta.
KHÔNG ĐỀ
Con thuyền đi qua
để lại sóng
Đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
Đoàn người đi qua
để lại bóng
Tôi không đi qua tôi
để lại gì?
NHỮNG NGƯỜI TRÊN CỬA BIỂN
(trích trườn ca)
Nước biển đổ vào quanh Hải Phòng ngày bão
Làng mạc bồng bềnh trời đất bềnh bồng
Ở những ngọn tre xác xơ mốc lên chất muối
Còn lại ít rơm khô của mái nhà trôi
Những mảnh lưới thuyền ai bay tan tác
Xe gạo ngày đêm từ Hải Phòng về các xóm
Chúng tôi đêm ngày vét nước nối đê
Tưới ngọt lại ruộng đồng, dựng lại từng thôn xóm
Tìm lại những nụ cười ở môi người sống sót
Lửa đỏ đêm đêm trên bãi biển bập bùng
Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẩn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những chiếc dây buồm
Đang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao nhiêu tay chân dìm chết một con người.
Đất nước đang lên da lên thịt
Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
Chúng muốn những em nhỏ mới biết đi phải rụng
Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hy vọng
Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
Chúng nó ở bên ta, trong ta, lén lút
Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men
Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi
Tôi sẽ vạch từng tên lên mặt
Hãy dừng lại
Những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
Những tên muốn làm cây to chớ cớm mầm non
Con đường ta đi tự hào lực lượng
Con đường nước nguồn thành sông thành biển
Con đường ta đi tự hào duy nhất
Con đường đi trái đất quanh mặt trời…
MỘT ĐÊM ĐÀN LẠNH TRÊN SÔNG HUẾ
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
Dòng Tiêu Kim Thuỷ gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
CÓ AI VỀ KINH BẮC
Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi nhờ đem hộ lá thư?
Trời hỡi! ốm nằm trong quán trọ
Bạn bè còn lại mấy bài thơ...
Trông qua song cửa: trời vàng úa
Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu!
Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa.
Hỡi người cưỡi ngựa về Kinh Bắc
Tôi gửi thư đưa hộ mẹ già
Cố thét song lời tôi yếu quá
Ngựa đều chân chạy, nhạc càng xa.
14-10-1941
VĂN CAO- MỘT LÒNG VÌ TỔ QUỐC
Nguyễn Thanh
Văn Cao (1923-1995), tên thật Nguyễn Văn Cao, quê ở Nam Định. Bạn thân gọi là anh Văn, ông là nghệ sĩ tiền phong, tài tình muôn mặt : nhạc sĩ - họa sĩ - nhà thơ. Văn Cao nổi tiếng trước hết với bản”Tiến quân ca” sau làm Quốc ca nước Việt Nam. Văn Cao là một nghệ sĩ đa tài nhưng phải trải qua thăng trầm trong cuộc đời. Tác phẩm chính: + Nhạc: Trước 1945 : Thiên Thai (1941), Suối mơ (1942), Trương Chi (1943), Tiến quân ca (1944)…; + Sau 1945: Trường ca sông Lô (1947), Tiến về Hà Nội (1948), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1950)…; + Sau 1975 : Mùa xuân đầu tiên (1976, được in và trình bày ở Moskva ngay trong năm và được Liên Xô trả nhuận bút 100 Rúp) ; + Thơ (khoảng 60 bài) : Một đêm Hà Nội, Những ngày báo hiệu mùa xuân, Lá (1988)…; + Họa: tại phòng Triển lãm Duy nhất Salon Unique, tại Hà Nội (1944) với 3 bức: Cô gái dậy thì, Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Thái Hà ấp đêm mưa, … Tặng thưởng : Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất (1993), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (1996). Tên của Văn Cao được đặt cho nhiều con đường, phố lớn đẹp ở : Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẳng, Nam Định, Lạng Sơn, Đắk Lăk, Lâm Đồng, Kiên Giang.
|
Văn Cao sinh ra tại Hải Phòng nhưng quê gốc ở Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha là Nguyễn Văn Tề làm quản đốc nhà máy nước, Văn Cao học Tiểu học trường Bonnal, trung học Trường Dòng Saint Joseph, Hải Phòng. Tại trường, Văn Cao tham gia làm một tờ báo cùng các bạn trong lớp, tự tay trình bày báo và biên tập bài vở của các bạn gởi đăng. Cũng lúc còn học tại trường, Văn Cao được dạy thêm trước môn âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, gia đình sa sút, Văn Cao phải nghỉ học. Khi cha mất, người chị lấy chồng trong Nam ra chịu tang cha. Có thời kỳ, Văn Cao theo chị vào Sài Gòn kiếm sống nhưng đời sống khó khăn nên lại trở ra Bắc. Văn Cao đi làm điện thoại viên ở Nhà Bưu điện Hải Phòng. Nhưng làm được một tháng, Văn Cao bỏ việc. Giữa thập niên 1930, nền Tân nhạc Việt Nam ra đời với những tên tuổi như Lê Thương (1914-1996), Đặng Thế Phong (1918-1942), Đoàn Chuẩn (1924-1992), Hoàng Quý (1920-1946)…, Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý, cùng Tô Vũ (1923-2014), Đỗ Nhuận (1922-1991),… Năm 16 tuổi (1939), Văn Cao sáng tác bản nhạc đầu tay “Buồn tàn thu”, ảnh hưởng Lê Thương, được Phạm Duy (1921-2013), trong gánh hát Đức Huy của Charlot Miều, mang đi phổ biến các nơi. Văn Cao cũng viết một số ca khúc hướng đạo vui tươi như: Gió núi, Gò Đống Đa, Anh em khá cầm tay… Từ 16 đến 18 tuổi, Văn Cao đã cắm những cái mốc trong âm nhạc với những tác phẩm trữ tình man mác: Suối mơ, Trương Chi, Buồn tàn thu…và khi mới 21 tuổi, Văn Cao viết Tiến quân ca để rồi một năm sau đó trở thành Quốc ca (1944). Nhớ lại, năm 1940, Văn Cao, trong chuyến đi vào Nam. Khi dừng chân ở Huế, Văn Cao sáng tác bài thơ đầu tay : “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế”, còn mang phong cách nghệ thuật của thơ mới, nhưng rất điêu luyện, mượt và không kém các bậc đàn anh trong làng thơ mới trước đó. Và sau này, bài thơ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” (sáng tác năm 1945), được coi là đạt đến nghệ thuật đỉnh cao, miêu tả hiện thực đến tận cùng thảm họa khủng khiếp của đồng bào thủ đô Hà Nội trong nạn đói năm đó. Ở bài thơ này, Văn Cao đã hoàn toàn vượt qua khỏi ảnh hưởng của thơ mới và có khuynh hướng về thơ tự do hiện đại. Người ta còn nhớ, năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội, thuê căn gác nhỏ số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) để theo học dự thính (auditeur libre) 2 năm tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, và làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy. Năm 1943 và 1944, trong hai lần Triển lãm Salon Unique, tổ chức tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội, Văn Cao đã gởi các bức tranh sơn dầu: “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, Nửa đêm” và “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” (Le Bal aux Suicidés) - Bức tranh sau cùng được đánh giá cao và gây chấn động dư luận - Dù được báo chí khen ngợi, tranh Văn Cao vẫn không bán được. Họa sĩ, cùng bạn bè, thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên đường phố Hà Nội, Hải Phòng. Văn Cao phải trải qua một thời gian dài sống trong cảnh thiếu thốn ở Hà Nội. Chính những năm lưu lạc, phải sống lăn lộn rất khó khăn trong cuộc đời giông bão đã giúp nghệ sĩ xót xa ngộ ra được không hiếm chuyện thế thái nhân tình. Trong kháng chiến chống Pháp, lên Lào Cai, Văn Cao tiếp tục vẽ tranh, thể hiện sự rung động nhạy bén nghệ sĩ của ông trước cuộc sống kháng chiến, với các bức tranh: Phố lu, Gối mộng, Suối tóc, Lớn lên trong kháng chiến…rất thành công, và trước năm 1945 là bức tranh sơn dầu vẽ chân dung liệt sĩ Nguyễn Hữu Tiến (1901-1941) - theo báo Văn nghệ số 36+37, ngày 3/9/2016.
Vốn là một con người yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm, không ngại gắn liền cuộc đời và sinh mệnh của mình với sự tồn vong của đất nước và quyền lợi của dân tộc, Văn Cao đã hăng hái tham gia vào tổ chức hoạt động chính trị mà không ngại chuyện tử sinh, gian khổ. Năm 1944, được Vũ Quý, một cán bộ đã quen biết từ trước, thuyết phục tham gia Việt Minh, Văn Cao lãnh nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc để cổ vũ cho phong trào cách mạng, và ông đã sáng tác ca khúc ngay tại căn gác số 171 Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) và đặt tên là “Tiến quân ca”. Bài hát “Tiến quân ca” được in trên trang văn nghệ của báo Độc lập tháng 11 năm 1944. Chưa được một năm, ngày 13 tháng 8 năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt“Tiến quân ca” làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cũng vào tháng 12 năm 1944, Văn Cao được phân công thành lập một đội vũ trang với tên gọi là “Đội danh dự Việt Minh” do Văn Cao làm Đội trưởng, có nhiệm vụ tiêu diệt những tên Việt gian phản động và bảo vệ an toàn cho các đội viên tuyên truyền tại các nơi công cộng. Đội viên hoạt động trong đội “Đội danh dự Việt Minh” đều là những người bạn hoạt động với ông ở Hải Phòng. Học võ từ năm 9 tuổi và cũng từng lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ thuật, Văn Cao thường xuyên tổ chức những khóa huấn luyện ngắn ngày về võ thuật, sử dụng vũ khí và kỹ năng hóa trang cho đồng đội của mình. “Đội danh dự Việt Minh” của Văn Cao hoạt động tích cực và hiệu quả ở Hà Nội và Hải Phòng. Tuy nhiên do một số người hợp tác với Nhật làm chỉ điểm nên nhiều cơ sở của Việt Minh bị bại lộ và không ít cán bộ Việt Minh bị bắt. Để ngăn chặn tối đa tổn thất cho cách mạng, Văn Cao đã dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ: viết thư cảnh cáo, gặp mặt trực tiếp để răn đe…Văn Cao cùng đồng đội đã khống chế, vô hiệu hóa và cảm hóa được nhiều người chỉ điểm. Ngoại trừ hai vụ quan trọng bắt buộc Văn Cao cùng anh em trong đội phải thực hiện. Thứ nhất là vụ Võ Văn Cẩm tại Hà Nội: Võ Văn Cẩm cầm đầu một tổ chức chính trị ngoài mặt trận Việt Minh, có trụ sở đóng tại phố Nhà thờ. Cẩm thường xuyên tập họp cấp dưới cùng hiến binh Nhật vây bắt các cơ sở Việt Minh. Mặc dù đã bị cảnh cáo, Cẩm vẫn ngoan cố, tiếp tục manh động. Đầu tháng 4 /1945, Văn Cao được lệnh ám sát Võ Văn Cẩm. Do tính chất quan trọng của nhiệm vụ, đồng chí Phạm Văn Mẫn - sau này là Đại tá Cục trưởng cục Kỹ thuật Bộ Công an - về hỗ trợ. Lúc bấy giờ, Võ Văn Cẩm có một cô vợ bé ở chợ Mơ. Mỗi lần về thăm vợ bé, hắn ta thường đi xe kéo, còn Ba Mai người bảo vệ hắn đạp xe đạp đi cạnh. Theo kế hoạch, Phạm Văn Mẫn bám theo Cẩm, cùng một đồng đội của Văn Cao là Đ.H.I đón ở góc phố Bà Triệu. Khi Cẩm đi qua, Đ.H.I cùng bám theo, còn Văn Cao sẽ đợi trước cửa hàng thuốc gần chợ Hôm. Khi nhận được mật hiệu của Mẫn, Văn Cao sẽ tiến lên trực tiếp bắn Võ Văn Cẩm. Rồi Mẫn và Đ.H.I có nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ Văn Cao rút lui. Tuy nhiên, mới vào đội của Văn Cao, vì hấp tấp, Đ.H.I đã tự ý vượt lên trước, bắn Cẩm bằng khẩu Browning, nhưng không trúng đích, khiến Mẫn chưa kịp phản ứng. Cẩm chui xuống gầm xe, Đ.H.I đạp xe chạy. Ba Mai bảo vệ Cẩm, đuổi theo rút súng, định bắn Đ.H.I nhưng bị Mẫn bắn chết. Thứ hai là vụ Đỗ Đức Phin tạị Hả Phòng: Đỗ Đức Phin là giáo viên tiếng Nhật có mở lớp dạy tiếng Nhật tại nhà. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Phin làm thông ngôn cho Nhật. Cuối tháng 6/1945, do Phin chỉ điểm, Nhật ra sức truy quét các cơ sở cách mạng trong thành phố. Hàng loạt cán bộ cách mạng bị bắt. Từ Hà Nội, Văn Cao được lệnh về Hải Phòng để khử tên Đỗ Đức Phin. Văn Cao giao nhiệm vụ cho Trần Liễn, một bạn đồng đội vừa chạy thoát khỏi sự truy lùng của Phin, về Hải Phòng theo dõi quy luật hoạt động của Đỗ Đức Phin. Trong khi đó, trên đường vào Hải Phòng, Văn Cao vào nhà một cơ sở cách mạng ở làng Do Nha, hóa trang thành một ông lão, mượn xe đạp vào thành phố. Tại nhà Doãn Tòng, một người quen ở Hải Phòng, Văn Cao cùng đồng đội đã có mặt đầy đủ và nghe Trần Liễn báo cáo về địa điểm Đỗ Đức Phin thường lui tới mỗi ngày. Đó là một tiệm hút thuốc phiện tại góc phố Phan Bội Châu, gần Vườn hoa đưa người. Văn Cao lên kế hoạch hành động và phân công cụ thể cho từng người. Giờ hành động bắt đầu vào hôm sau. Doãn Tòng đèo Văn Cao trên xe đạp đến hết đường Cát Cụt, Văn Cao xuống xe, bảo Doãn Tòng trở về. Đến địa điểm hành sự, Văn Cao âm thầm lách cửa vào, bình tĩnh chầm chậm đi lên gác. Đứng ở đầu cầu thang nhìn vào phòng, Văn Cao xác định được Đỗ Đức Phin nằm hút sát tường trên sập, mặt hướng ra cửa. Văn Cao rút khẩu súng Colt tiến vào, tuyên bố xử tử Đỗ Đức Phin và bóp cò. Nhưng súng bị hóc đạn. Văn Cao bình tĩnh nhét khẩu Colt vào bụng rồi móc túi áo măng-tô, rút khẩu Browning, bắn hai phát đạn ghim vào ngực Đỗ Đức Phin. Giải quyết xong, Văn Cao bình tĩnh xuống gác, lách cửa ra, nhảy lên xe đạp hòa vào dòng người đỗ ra thành phố. Mấy hôm sau là Ngảy Quốc Khánh năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên, Văn Cao bàn giao lại vũ khí. Đội Danh dự Việt Minh giải thể. Văn Cao lại trở về với công việc của một phóng viên và làm báo Lao động.
Tháng 12 năm 1946, Lê Giản- Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại quán Cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: “Mình muốn cậu sang giúp ngành công an. Cậu sẽ phụ trách đội Điều tra Liên khu 10. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này”. Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ là Nghiêm Thúy Băng lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của đội Điều tra. Văn Cao mở quán cà phê nhạc lấy tên là quán Biên Thùy. Bên phía Văn Cao có Trần Huy Liệu (1901-1969) - đại diện chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ của quán Biên Thùy tham dự. Tại đây, Văn Cao đã giác ngộ các thổ ty hiểu thêm chính sách đoàn kết các dân tộc của Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Theo lời khuyên của Văn Cao, Hoàng A Tường, Nông Vĩnh Xương, Vương Chí Sinh, Đèo Văn Long có nhiều nhành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ Chính phủ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến. Để động viên tinh thần, Hồ Chủ tịch gởi thư khen, mời họ lên thăm chiến khu và gặp Bác. Hồ Chủ tịch đã tặng mỗi người một thanh kiếm và giao cho Hoàng A Tường giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh Lào Cai. Tháng 8 năm 1947, Văn Cao hoàn thành nhiệm vụ. Đội Điều tra giải tán và bàn giao lại công việc cho ông Lê Giản. Lê Giản muốn giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an. Nhưng Văn Cao từ chối và nói : “Công việc này không thích hợp với tôi”. Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho đài Phát thanh, nhưng ít sáng tác.
Mãi cho tới cuối năm 1975, sau ngày giải phóng, Văn Cao viết ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”. Ở trong nước, bản nhạc chưa có điều kiện để được phổ biến nhưng các chương trình Việt ngữ tại Moskva, nước Nga, đã cho trình bày bài hát. Theo Văn Thao - con trai của Văn Cao : trong năm 1976, “Mùa xuân đều tiên” được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao viết giấy ủy quyền qua sứ quán để cho con gái nhạc sĩ đang học bên đó lĩnh hộ. Và Văn Cao vì lòng thương con, đã cho luôn số tiền nhuận bút ấy cho con gái rất cần để trang trải vì đang du học ở nước ngoài. Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Văn Cao’s Meditation (Sự trầm tư của Văn Cao) vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi nhạc sĩ Văn Cao qua đời (1995), Robert Ashley vẫn chưa được một lần ngặp mặt tác giả của “Tiến quân ca”.
Thực ra trong cuộc đời của một nghệ sĩ lớn như Văn Cao, về âm nhạc, ông sáng tác không nhiều. Nhưng phải công bằng mà nói rằng, những bản nhạc của Văn Cao là những viên ngọc quý hiếm, có lúc còn ẩn trong đá. Nhưng khi được khám phá, những bản nhạc của Văn Cao hiện diện như những hạt kim cương, lấp lánh sắc màu, có giá trị vượt không gian và thời gian trong vườn nhạc dân tộc. Ngoài một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như: Sóng tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa….đại bộ phận ca khúc của Văn Cao là Tình ca và Hùng ca. Những sáng tác đầu tiên của Văn Cao khi chưa tới tuổi hai mươi thường là những nhạc phẩm trữ tình, ít ảnh hưởng bởi dòng nhạc lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng giai điệu phương Đông. Với ca khúc đầu lòng Buồn tàn thu, (1939), nhạc sĩ Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để vẽ lên một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á mà ta thường gặp: người phụ nữ ngồi đan áo trong nỗi đợi chờ. Tiếp đến là hai ca khúc cũng nói về mùa thu: Thu cô liêu (1942) và Suối mơ. Riêng Suối mơ, được coi là một đoạn của bản Trương Chi 1 (1943) sau đó được Văn Cao phát triển nổi tiếng hơn là bản Trương Chi 2 (có sự hợp tác của Phạm Duy). Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết những ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân: Cung đàn xuân và Bến xuân (1942 (về sau đặt tên lại là Đàn chim Việt). Hai ca khúc Suối mơ và Bến xuân được các nhạc sĩ nổi tiếng đánh giá là cực điểm trong những ca khúc lãng mạn Việt Nam. Nhưng hai tình khúc được người nghe hoan nghênh hơn là: Thiên Thai (1941) và Trương Chi. Riêng với Thiên Thai, mà tác giả Văn Cao đã mượn cái không khí Đường thi lung linh huyền diệu như sương khói trong thơ Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai của Tào Đường . Năm 2001, ca khúc Thiên Thai được dùng làm nhạc nền cho phim Người Mỹ trầm lặng. Bài hát Trương Chi cũng dựa trên sự tích truyện cổ Việt Nam, nên ca khúc mang tính tự sự. Về Hùng ca, người ta nhớ lại, từ khi còn ở trong nhóm Đồng vọng ở Hải Phòng, nhạc sĩ Văn Cao đã viết những ca khúc hướng đạo khỏe khoắn cho tuổi trẻ. Cũng như các nhạc sĩ tiền chiến cách mạng khác, gần gũi nhất là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước (1921-1989) ở trong Nam, Văn Cao dựa vào đề tài lịch sử để viết những bản hùng ca, thể hiện lòng ái quốc như: Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ, Bạch Đằng giang, Tiến về Hà Nội (1948), Thăng Long hành khúc ca…Tham gia Việt Minh, Văn Cao viết những ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam (1945), Không quân Việt Nam (1945), Hải quân Việt Nam (1945), Công nhân Việt Nam,… Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô - một tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... - bản nhạc đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc, là đỉnh cao của nhạc kháng chiến. Sau năm 1954, những ca sĩ hàng đầu của Sài Gòn như: Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh, Ánh Tuyết…đã trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Đặc biệt, bản nhạc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao viết về sự kiện trọng đại của dân tộc: Mùa xuân mới đầu tiên thực sự của Nam - Bắc cùng đoàn tụ, vui chung một nhà, hòa vào tình cảm yêu thương ruột thịt, cùng nhau đón Tết, thể hiện đúng với lòng mong ước sáng trong của Hồ Chủ tịch : “Bắc-Nam sum họp xuân nào vui hơn !”
Trong lĩnh vực thi ca, độc giả biết đến Văn Cao với những vần thơ tự sự làm theo thể tự do, về chính cuộc đời ông, về quê hương, về cuộc sống tự do với bạn bè, những vần thơ về cuộc sống cùng cực của người dân nghèo nơi xóm ả đào, nẻo nhà ga, lề đường, góc chợ. Với Văn Cao, “Người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng”. Những bài thơ : Một đêm đàn lạnh trên sông Huế (bài thơ đầu tiên), và tiếp theo là những bài thơ: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Bến Ngự trên thương cảng, Ngoại ô mùa đông năm 1946, Những người trên cửa biển, Với Nguyễn Huy Tưởng, Với Nguyên Hồng…những vần thơ giàu tính hiện thực, đầy trí tuệ nhưng trĩu nặng nỗi suy tư, đã để lại trong lòng độc giả nhiều thế hệ những xúc cảm sâu lắng khó phai. Ở phạm trù hội họa, Văn Cao là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng điêu luyện và sắc sảo, không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp. Ngoài tranh minh họa, bìa sách, bìa báo, Văn Cao cũng có những bức sơn dầu nổi tiếng, thể hiện một hình thức và nội dung rất sáng tạo như bức tranh: Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, được Văn Cao trưng bày tại phòng Triển lãm Duy nhất Hà Nội (Salon Unique, -1944), đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc của tác giả.
Về cá tính và quan hệ gia đình và xã hội, là một nghệ sĩ tài tình muôn mặt mà nét tài hoa đã thể hiện rất sớm, Văn Cao có những nét rất chung và rất riêng của người nghệ sĩ cách mạng. Văn Cao thương con cái, thủy chung với vợ, yêu đất nước, căm thù, không đội trời chung với bọn thực dân đế quốc và tay sai vọng ngoại, suốt đời một lòng vì dân tộc và Tổ quốc. Chơi thân với Nguyễn Đình Thi (1924-2003), Trịnh Công Sơn (1939-2001), ông được coi là một tài hoa thiên bẩm nẩy nở rất sớm, rất gần gũi với một Nguyễn Đình Thi cũng tài tình muôn mặt. Với Văn Cao, nhiều văn nghệ nổi tiếng đã bày tỏ cảm nghĩ với tấm lòng trân trọng. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng… Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Họa sĩ Tạ Tỵ (1922-2004): Ở Văn Cao, mỗi lời thơ là một hạt ngọc, mỗi tiếng nhạc là mỗi sợi tơ, mỗi màu sắc là một vùng hào quang diễm lệ. Nhà thơ Tố Hữu, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng đã có cảm nhận: Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất về ca khúc trữ tình và ca khúc chiến đấu nước ta. Văn Cao là một trong những ngôi sao thế kỷ 20 trên lĩnh vực ca khúc thế giới”. Với chúng ta, ngoài giá trị nhân văn đích thực của hệ tác phẩm nhạc - họa –thơ của Văn Cao đã được quần chúng công nhận, chân dung phảng phất nét tiên phong đạo cốt của nhà nghệ sĩ đa tài Văn Cao đã ở mãi trong lòng mọi người với niềm tin yêu phấn khởi, trong bất cứ không gian nào, mỗi khi có dịp lắng lòng và nghiêm trang được nghe lại giai điệu hùng tráng thiêng liêng của bản “Tiến quân ca” lịch sử. (nguồn: Văn Nghệ)