Chân dung văn

16/2
10:36 AM 2018

LUNG LINH TẾT TÀY

Y PHƯƠNG- Tết của người Tày hầu như không mấy khác lạ, so với tết của nhiều dân tộc anh em. Nghĩa là chỉ xảy ra trong cùng một thời điểm nhất định. Ba mươi tháng Chạp là đêm giao thừa. Cuộc bàn giao trang nghiêm giữa ông trời và bà đất. Đó là lời chào tạm biệt năm cũ. Năm cũ như bà già lặng lẽ đội nón đeo túi ra đi. Và năm mới như chàng trai rò rè giương ô đang tới.

Mùng một tháng Giêng là ngày đầu năm mới. Người Kinh gọi là Nguyên đán. Người Tày gọi Nèn chiêng. Tết Tày cũng bày biện các lễ vật hương hoa đèn nến, cũng mâm ngũ quả, cũng các loại bánh mặn ngọt, rượu trà... thờ cúng gia tiên.

     Kể từ đêm ba mươi, mọi người đều tắm gội thơm tho sạch sẽ, ăn mặc tươm tất, trang trọng lịch sự, đón chào năm mới. Vẻ mặt ai ai cũng tươi cười, tay bắt mặt mừng, chúc tụng cầu mong cho nhau khỏe mạnh  slổng làu chau ké sống lâu muôn tuổi. Bất kể trẻ già, trai gái cũng tự giác kiêng kị và tránh làm những điều xấu xa. Nếu ai làm điều xằng bậy, thì cả năm sẽ gặp những điều xúi quẩy, không may mắn.

      Có lẽ trong mỗi một milimet khối giữa không trung, đều có các vị thần linh lơ lửng trông coi. Họ âm thầm đứng ngồi hoặc đang bay bay quan sát. Ngay từ những ngày đầu đời, những đứa trẻ người Tày đã được ông bà cha mẹ dạy bảo phải sống sao cho đẹp, để sau này trở thành người tử tế. Người xưa đã nói rằng đầu xuôi thì đuôi lọt. Sống đẹp ngay từ đầu năm, hẳn cả ba trăm sáu nhăm ngày sẽ tràn đầy sang giàu. Sống đẹp, sống tử tế ngay từ đầu đời, hẳn cả một đời người tràn đầy hạnh phúc.

     Bây giờ nói về cái ăn. Người Tày gọi là kin nèn. Giống như người Kinh nói ăn tết. Trong tiếng Tày: Kin là ăn. Nèn là tết. Còn có nơi gọi kin chiêng. Có cùng một nghĩa là ăn tết mà thôi.

     Con người nói riêng và muôn loài nói chung, bất kể dân tộc nào, bất luận sinh vật nào trên mặt đất này hình như đều coi trọng sự ăn. Ở ta, cái ăn tham gia vào bất cứ xó xỉnh nào góc khuất nào của tâm hồn con người. Đâu đâu cũng thấy ăn. Làm cũng ăn. Làm ăn. Nói cũng ăn. Ăn nói. Ngủ cũng ăn. Ăn ngủ. Đi cũng ăn. Ăn đi. Ông ăn chả bà ăn nem. Ăn sung mặc sướng. Ăn nhằm gì. Ăn cắp. Ăn trộm. Ăn cướp. Ăn gian...

     Người Tày cũng vậy. Nhưng xem ra cái sự ăn của họ còn cụ thể, thiết thực và sinh động hơn nhiều so với các dân tộc khác. Người Tày chào nhau bằng sự ăn. Chứ không chào anh, chào cô, chào thầy, chào bạn như người Kinh; nỉ hảo như người Trung Quốc; hello như người Anh... mỗi khi gặp mặt. Người Tày chào nhau bằng lan kin lèng xằng cháu ăn sáng chưa. Dả Kin pjầu xằngbà ăn tối chưa...

      Năm nào cũng vậy, để chuẩn bị cho tết Nguyên đán, hầu như mỗi gia đình người Tày cùng đều tự mình chăn nuôi một chú lợn tết. Ít khi phải ra chợ mua lợn. Thường là một con mu ót lợn ỉ. Hay mu sláy lợn bột. Hai giống lợn này tuy nhỏ con nhưng giòn chắc và ngọt thịt. Bởi nó chuyên sản sinh nhiều nạc mà lại ít mỡ. Trung bình mỗi con chỉ vài chục cân. Thịt với xương vừa đủ chế biến thức ăn mặn cho cả nhà. Tôi dùng chữ nhà ở đây là chỉ ba bốn thế hệ, ông bà, cha mẹ, con cháu... tứ đại đồng đường. Và một phần thịt dùng để tiếp khách. Số còn lại, thái miếng to, dày, dài hết cỡ, đem ướp muối kèm gia vị, treo lên gác bếp, ăn dần. Người Tày gọi nựa lảp. Chắc người phương Tây cũng gọi cách làm này là thịt hun khói.

     Thịt hun khói ắt phải có mùi củi lửa. Khi người ta đốt củi lên, khói hun lâu ngày tạo thành muội than bao quanh nó như ruồi. Những con ruồi to bằng hạt đỗ đen. Chúng bâu bám chặt tạo thành một lớp màng bao bọc lấy thịt. Và nhờ vào những lớp màng ruồi này, thịt để lâu mà không bị ôi thiu, các loại vi khuẩn chẳng thể nào xâm nhập vào thịt được. Củi lửa là một phần quan trọng trong đời sống người Tày. Và người Tày gọi lửa bằng pỏ bố. Bố lửa chỉ đứng sau mẻ nặm mẹ nước và mẻ khẩu mẹ gạo.

    Thịt hun khói treo gác bếp lủng lẳng như mướp, như bầu bí trong không gian làm bếp. Tuy treo thịt cả ngày lẫn đêm mà không có một con mèo, con chó, con chuột nào dám chồm lên kéo thịt xuống ăn vụng. Bởi thịt hun khói hấp thụ đắng cay chua chát từ trong không khí. Nó tạo ra một thứ mùi vị cực kì khó chịu. Nhưng khi ta rửa sạch bằng nước gạo, chế biến xong, nó lại trở thành một món ăn thơm ngon đến mức như thần kì.  

     Cũng có nơi người ta ướp thịt trong hém mẻ chua. Ướp kiểu này không những để được lâu, mà còn giữ được màu sắc thịt hồng hào tươi ngon, lúc nào cũng tươi như mới. Thậm chí họ còn ướp nguyên cả một cái thủ, vài cái chân giò. Khi vớt lên, hình như chúng vẫn còn ngáp và đạp ngoạp ngoạp. Kiểu làm này chỉ thấy ở những gia đình phú nông địa chủ giàu có. Thịt cá nhiều đến nỗi đổ đi không hết. Họ bèn ướp vài chum cá, với mấy chum thịt. Lâu lâu buồn mồm mới nhớ tới, họ bèn bới thịt cá ra chế biến thành các món ăn ngày nhàn cho mới miệng.
 

6 77926

Độc lạ phong trào đón Tết Nguyên đán của người Tày -  Ảnh: ST

 


     Ở quê tôi, đặc biệt có món phúng xàng lạp xường ngon nổi tiếng xưa nay. Cách làm như sau, chọn lấy một đoạn lòng non, ngắn dài tùy sở thích và yêu cầu của gia đình. Sau khi làm lòng sạch, người ta thái nhỏ, băm nhuyễn các loại thịt bạc nhạc, ba chỉ, thịt mỡ, thịt nạc... rồi đem tẩm ướp gia vị. Song, không thể thiếu gừng tươi, rượu trắng, tỏi khô. Đặc biệt phải có món huyết lình. Những thứ gia vị hỗn hợp này làm cho thịt lúc nào cũng tươi thơm như vừa mới mổ. Làm xong, họ lập tức nhồi thịt vào trong một đoạn lòng, rồi treo lên phơi sương phơi gió. Phơi sao cho thịt hiu hiu mát mẻ từ ngày qua đêm. Thịt hí hóp thở ngay dưới hiên nhà và trước  mặt mình. Khi nào thấy săn, da bóng mượt như bôi dầu luyn, thì mang chúng vào trong buồng the. Lạp xường còn hút thêm hơi thở và tiếng nói thầm thì từ nơi con người nữa, có như thế mới hoàn tất công đoạn sơ chế ban đầu.

     Có thể nói phúng xàng là món ăn tinh hoa. Nó tụ khí từ thiên nhiên và cơ thể sống của con người. Bởi thế món phúng xàng ngon nức tiếng là có căn cứ khoa học. Khi ta đem phơi phúng xàng, âm dương hòa hợp cùng với tâm hồn người. Món ăn này không những tạo ra nguồn bổ dưỡng trực tiếp mà còn làm mới với từng người cụ thể. Cắn một miếng phúng xàng nghĩa là bạn đang ngậm hồn thiêng sông núi ở trong bụng. Hãy lắng nghe trong cơ thể của bạn, có tiếng suối êm đềm chảy, có tiếng gió véo von reo ca, có tiếng vượn hú gọi bạn tình. Song thiên nhiên không ở lại lâu trong người bạn đâu. Đừng sợ. Thiên nhiên sẽ nhè nhẹ thoát ra theo đường ra từ người của bạn. Xin bạn hãy thử một lần trong đời để biết. Bạn hít nó vào thật sâu. Bạn nén nó lại lâu lâu thêm chút nữa. Rồi hãy chầm chậm thở ra. Làm như thế, bạn đang tự hòa tan bản thân mình vào trong thiên nhiên rồi đấy.

     Phúng xàng chứa vị mặn là chủ yếu. Vì thế tôi khuyên các bạn nên ăn dò dè cầm chừng. Người Tày gọi kiểu ăn này là nhắm nhí. Vừa ăn vừa lơ mơ ngẫm nghĩ xem, bạn sẽ thấy có đủ năm mùi, năm vị và ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. Ngũ hành sẽ ngấm dần dần, ngấm từ từ qua các kẽ chân răng. Ngũ vị mọc lên sống mũi như hoa đang mở cánh. Ngũ vị phúng xàng bò loang lên trán, nó tỏa ra sống lưng, chạy đến tứ chi. Kể cả móng chân móng tay cùng đua nhau rậm rịch nhịch nhạch. Đặc biệt cái mùi hương huyết lình không thể lẫn vào đâu được. Nó cứ miên man thơm, miên man ngấu nghiến như da thịt người vợ trẻ mới cưới, hãy còn trong tuần trăng mật. Theo dân gian người Tày, huyết lình thuộc hàng dược liệu quý hiếm, nó giúp con người ta cải lão hoàn đồng. Hoặc dùng làm thuốc cường dương bất nhược. Nên họ phải cất công tìm kiếm ở tận những nơi rừng sâu núi cao. Quê hương của loài khỉ. Bởi huyết lình chính là máu khỉ.

     Đến tuổi trưởng thành, khỉ cái cũng giống như các em thiếu nữ, lần đầu tiên trong đời thấy có hành kinh. Những giọt phồn sinh tinh khiết của tạo hóa, rơi từ cửa mình ra, quý giá hơn vàng ngọc. Chúng để lâu ngày, tích tụ lại thành từng hạt cứng như sỏi đá, thơm như mùi lá bằng hương. Loài khỉ vun ngọc lại thành đống. Theo chu kì từng tháng và từng con, đống huyết lình cứ to dần và chúng coi đó như một thứ linh vật. Không bao giờ chúng dám bước chân qua và đụng tay đến. Muốn lấy được huyết lình, người thợ săn phải ăn nằm ém nhẹm ở ngoài cửa hang, có khi mất cả tuần. Đợi mấy bố mẹ con nhà khỉ đi kiếm ăn, người thợ săn mới lò dò bò vào hang vội vàng hốt lấy. Xong xuôi, anh ta phải để lại vài hạt làm mồi lấy lộc.

    Chính vì vậy, huyết lình không có bày bán rộng rãi như các loại hàng hóa thông thường ở ngoài phố chợ. Ai muốn có vài phân  huyết lình về dùng hoặc làm quà, phải đặt trước với người thợ săn nửa năm. Huyết lình thường chỉ thu hái vào mùa thu.

     Còn một điều này nữa. Từ lâu tôi đã thắc mắc mà chưa nói với ai. Tại sao trong mâm cơm người Tày vào ngày mùng một tết, không hề có một cọng rau xanh. Người ta thường nói cơm rau chứ mấy ai nói cơm thịt. Đó là điều có thật. Đến bây giờ vẫn thế. Cho dù rau trồng đầy tràn trong vườn nhà, mùa nào thức ấy, quanh năm chả thiếu giống nào. Chỉ cần bước chân xuống vườn làm một ôm mang về xào hay luộc tùy thích. Nhưng không. Không một ai ăn rau trong ngày mùng một. Nhìn thấy rau, sao người ta lại ngại.

    Tôi là gã lực điền nông dân toàn tòng, chuyên nghề cày ruộng cấy lúa trồng màu.  Suốt đời chỉ ăn rau ăn cỏ, tại sao trưa nay trong bữa cơm ngày tết lại kiêng kị rau xanh vậy cà.

     Hồi còn chú tôi, ông giải thích thế này. Trong bữa ăn ngày đầu năm mới, nếu nhà mày ăn rau, thì cả năm ruộng vườn sẽ rậm rạp toàn loài cỏ lồng vực. Cỏ mọc tốt tươi bởi chúng ra sức đồng lòng chèn ép ăn hết màu cây lúa. Đời người nhập nhằng xấu tốt mãi mãi như lúa và cỏ dại. Thưa chú. Nếu không có cỏ dại thì cây lúa cô đơn lắm ạ. Đã đành. Nhưng cỏ dại là để nuôi trâu bò dê ngựa. Vậy thưa chú, cỏ dại đâu có kém phần quan trọng trong cuộc sống. Tại sao mình ghét bỏ nó hả chú. Màu xanh non tơ cây cỏ dại làm nên tội tình gì mà bảo nó xấu xa. Chú tôi mới chậm chạm giải thích rằng bởi cái màu xanh cỏ dại đã đánh lừa con mắt thật thà người nông dân chân lấm tay bùn. Bởi thế chú tôi quan niệm, sự lừa dối không thể đồng hành cùng thật thà. Kẻ tiểu nhân không cho đứng cùng hàng với người quân tử. Cái ác không bao giờ được song hành cùng cái thiện. Đó cũng là một cách ứng xử có phần cực đoan đáng yêu của chú tôi.

    Và thế là, mẹ tôi sẵn lòng căm thù loài cỏ ăn tàn phá hại. Bà dứt khoát không ăn rau trong ba ngày tết. Cỏ đã làm cho cả cánh đồng lúa nhà tôi đang xanh tốt bỗng ngả sang màu vàng, thân lúa còi cọc, lá lúa ngẳng nghiu, hồn lúa ngơ ngác. Vì thế, trong bữa ăn ấm cúng của gia đình ngày đầu năm mới, không thể cho rau xanh xuất hiện được. Ăn rau vào người, cỏ sẽ làm loạn cả cánh đồng nhà mình. Nhất là cỏ lồng vực, đích thị nó là kẻ thù số một của dân cày. Cái giống cỏ y trang một trăm phần trăm cây lúa, không khác dáng hình cây lúa hiền lành. Chỉ phân biệt được chính tà khi chúng trổ bông. Cỏ thì hạt nâu đen và tròn đều. Còn thóc thì vàng ruộm, sắc nhọn hai đầu như mũi đinh đóng cột. Người nông dân quê tôi ghét cay ghét đắng giống cỏ lồng vực, bởi không dùng nó được bất cứ việc gì ngoài cho trâu bò. Bà con ta phải nhổ đi bằng sạch, nếu không, nó ăn hết phần màu mỡ mà người nông dân vất vả bao ngày đêm tưới tắm chăm bón.

     À, mà tết đã đến rồi đấy, một ngày mới tinh đầu năm bắt đầu.

Nguồn: Văn nghệ Quân đội

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *