LÀM THƠ ĐƯỢC ĐÃ SƯỚNG, NHƯNG GIÁ MÀ KHÔNG PHẢI LÀM THƠ, THÌ CÒN SƯỚNG HƠN!
Nhà thơ Đỗ Trung Lai
Theo thói đời, người có tài (cũng như phụ nữ có nhan sắc), đôi khi được phép “kiêu”, vì nếu không có tài (hoặc không có nhan sắc) thì “kiêu” với ai? Và, ở một số người thơ tài năng thật sự, vẻ kiêu bạc, trong chừng mực nào đó, lại là một nét độc đáo, một cá tính thú vị.
Rồi một lần, chúng tôi nói thực với Đỗ Trung Lai suy nghĩ ấy của mình. Lặng lẽ một lúc, anh hỏi lại: “Các chú đã bao giờ thấy anh kiêu bạc với người tài và người tử tế chưa?”. Ừ nhỉ? Với người không tử tế, không có tài lại hay “chen lấn”, thì anh có chơi đâu mà bàn chuyện kiêu bạc hay không kiêu bạc? Còn với người tử tế, người có tài, chỉ cần bụng “liên tài” là đủ. Anh hỏi, mà như đã trả lời.
Phải! Nếu không có bụng “liên tài”, sao anh lại bỏ ra hơn 8 năm - từ 2006 đến 2014 - để dịch lại thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị cùng 100 nhà thơ đời Đường khác (mà theo chúng tôi ước tính, để có gần 500 bản dịch đã in ra ấy, anh phải có dăm mười lần hơn thế, số bản dịch thử, dịch nháp!)? Nếu không có bụng “liên tài”, sao anh lại bỏ ra hai năm - từ 2014 đến 2016 - để dịch lại và làm ra sách “Trúc Lâm tam Tổ thi” (Thơ của ba vị Tổ thiền phái Trúc Lâm)? Mà, sách làm ra toàn cho, hầu như không bán! Nếu không có bụng “liên tài”, sao anh còn làm thơ về Trần Nhân Tông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh... và nhận làm chủ biên “Phạm Tiến Duật toàn tập”? Sao anh lại đồng ý làm MC 7/15 “Ngày Thơ Việt Nam” ở Văn Miếu, trong đó có 2 lần kiêm “Liên hoan Thơ châu Á- Thái Bình Dương”?
Hãy thử xem sự “liên tài” ấy, qua bản dịch sang song thất lục bát của anh, bài “Tương tiến tửu” (Bài thơ chuốc rượu) nổi tiếng của thi hào Lý Bạch: Anh không thấy nước trời rơi mãi/ Thành mênh mông một dải Hoàng Hà/ Chảy mau về với biển xa/ Có trôi trở lại cùng ta bao giờ/ Anh không thấy: Tóc tơ ngày nọ/ Sớm đương xanh, chiều đã tuyết sương/ Nhà cao ai đứng trong gương/ Trông lên tóc bạc mà thương phận người/ Thì gặp lúc đông vui bầu bạn/ Đừng để cho chén cạn dưới trăng/ Có tài tất có khi dùng/ Ngàn vàng dẫu hết, bận lòng làm chi/ Trâu ta giết và dê ta mổ/ Rồi cùng nhau đòi nợ Lưu Linh/ Sầm công với Đan Khâu sinh/ Xin đừng ngưng chén chuốc mình chuốc ta/ Ta vì bạn, xin ca một đoạn/ Bạn vì ta, xin bạn lắng nghe/ “Chuông vàng, mâm ngọc thiết gì/ Ước say, đừng tỉnh làm chi thêm phiền”/ Đời chẳng thấy thánh hiền đâu nữa/ Chàng say kia thiên cổ lưu danh/ Trần vương thơ túi rượu bình/ Rót mười ngàn đấu mới thành cuộc vui/ Sao lại sợ tiền vơi bạc ngót/ Áo cừu bên ngựa tốt ngàn vàng/ Trẻ đâu! Đem cả vào làng/ Đổi ra rượu uống cho tan cổ sầu. Khí vị của “Tiên thi - Tiên tửu” Lý Bạch, chẳng đã đang “nằm sóng soãi trên cành liễu”, đó ư?
Hãy thử nghe một trong ba bài “Khương thôn” (Làng Khương) của Đỗ Phủ do anh dịch theo nguyên thể: Đang khi gà đàn loạn đả/ Khách nào tìm đến thăm ta/ Đuổi gà lên cây mới tỏ/ Ai đang gõ trước cổng nhà/ Bốn, năm ông già cùng đến/ Hỏi thăm những ngày ta xa/ Mang theo bốn, năm nậm rượu/ Cùng ta nghiêng chén la đà/ Các ông đều than rượu nhạt/ Ruộng bỏ, không còn ai cày/ Binh lửa miền đông chưa dứt/ Cháu con ra trận lâu ngày/ Xin vì các ông tôi hát/ Quý sao tình sâu xóm làng/ Hát xong, nhìn trời than thở/ Khách cùng rơi lệ chứa chan! Cảnh và tình thời ông “Thánh thi” này, chẳng đã đầy thương cảm, đó sao?
Hãy thử nghe “Bên sông tiễn bác Hạ Chiêm” của Bạch Cư Dị, do anh dịch ra lục bát: Tiễn người, lệ đẫm khăn ta/ Bảy mươi tuổi hạc, không nhà, về đâu/ Gió chiều như giục cơn sầu/ Người đầu bạc, sóng bạc đầu trôi sông! Cái tình thực của “Thế thi” xưa, chẳng đã giúp người đời biết nghiêng thêm về “phe nước mắt”, đó sao?
“Việt hóa”, “hiện đại hóa” thơ Đường được như thế, công phu biết chừng nào! “Liên tài” rồi, mà thiếu khả năng “liên thông”, khó có thể làm như vậy.
Hãy thử nghe ba bài thơ của Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang mà Đỗ Trung Lai dịch, cả theo nguyên thể và lục bát:
Thơ Trần Nhân Tông: Tan giấc, mở cửa sổ/ Nào hay xuân đã về/ Phần phật đôi bướm trắng/ Bay vào hoa ngoài kia (Sớm xuân - thể ngũ ngôn). Cũng bài ấy, ở thể lục bát: Giấc tàn, đẩy cửa nhòm song/ Lòng còn chưa biết xuân hồng vừa sang/ Có đôi bướm trắng rộn ràng/ Bay về hoa, giữa mênh mang đất trời.
Thơ Pháp Loa: Ngắt sạch duyên người, thân tự nhàn/ Bốn mươi năm lẻ - mộng trần gian/ Đừng ai gạn hỏi gì ta nữa/ Cõi ngoài-trăng đợi, gió mênh mang (Dặn bảo trước khi viên tịch - thể ngũ ngôn). Cũng bài ấy, ở thể lục bát: Thân nhàn khi ngắt trần duyên/ Bốn mươi năm lẻ hão huyền sắc không/ Xin người thôi hỏi sâu nông/ Gió trăng một cõi mênh mông, ta về.
Thơ Huyền Quang: Trời lạnh quanh am thiền/ Mây về dày trước cửa/ Mặt trời lên ngang sào/ Trước động Rồng rờ rỡ/ Băng tày thước yên nằm/ Phẳng lỳ trên khe Hổ/ Chân già, lòng vô ưu/ Bước cùng cây gậy nhỏ/ Quá nửa chim rừng này/ Bạn bầu cùng sư cụ (Ở am núi Yên Tử - thể ngũ ngôn). Cũng bài ấy, ở thể lục bát: Am thiền lạnh lẽo lưng trời/ Mở ra, mây dưới chân người tựa bông/ Mặt trời lên trước động Rồng/ Băng còn tày thước trên dòng Hổ Khê/ Tâm nhàn đưa bước chân quê/ Khẳng khiu gậy trúc đi về gần xa/ Trúc Lâm giờ hóa nên nhà/ Nửa rừng, chim chóc cùng ta bạn bầu.
Thế là tiền nhân tự nhiên hiện ra trước mắt ta, vừa giản dị, gần gũi, lại vừa sâu sắc, tài hoa!
Làm thơ về Trần Nhân Tông, anh viết “Thu, vào chơi Yên Tử”: Sớm, vào chơi Yên Tử/ Chiều, chưa đành rời chân/ Hỏi ai người lục thức/ Hỏi ai người lục căn/ Hỏi ai người hiếu tử/ Hỏi ai người minh quân/ Hỏi ai người nghiêm phụ/ Hỏi ai người thiền nhân/ Hỏi ai là thi sĩ/ Hỏi ai ngang thánh thần/ Không người, đành hỏi gió/ Gió thổi vào Trúc Lâm. Chẳng đầy thi vị thiền gia là gì?
Anh viết “Thu, nhớ Lưu Trọng Lư”: “Em không nghe mùa thu/ Dưới trăng mờ thổn thức?”/ Người làm thơ, từ lâu/ Đã không cần giấy mực!.../ “Em không nghe mùa thu/ Lá thu kêu xào xạc?”/ Người làm thơ, từ lâu/ Lá vàng là thân xác!/ Em không nghe mùa thu/ Dù ta còn hay thác/ Gió thu vẫn qua rừng/ Kêu những chiều diệp lạc. Nghe thế, Lưu Trọng Lư há chẳng mỉm cười nơi chín suối, đó sao?
Anh viết về Xuân Diệu: Có người đứng giữa mọi người/ vẫn thấy mình cao chất ngất/ cao tày Hy Mã Lạp Sơn/ là Một, là Riêng, là Nhất/ Cao mãi, người này cô đơn/ bèn lần cây đời xuống thấp/ rồi vung bút làm thơ tình/ đòi hôn muôn đời chẳng dứt/ Dù biết rằng yêu là chết/ vẫn mong cắn vào xuân hồng/ vui buồn mãi, rồi than tiếc/ khi nhìn gác gió, thềm không!/ Yêu thật vội vàng, rồi tưởng/ không gian tan thành lệ rồi/ vài miếng đêm vào cây cối/ đã xui cỏ rối dạ người.../ Mãi mãi là Chàng Xuân Diệu/ thấp cao cùng với nước non/ chàng dẫu không về đây nữa/ tình yêu tặng lại muôn hồn. Xuân Diệu, ít nhất, chẳng đã có một hậu sinh tri kỷ, đó sao?
Anh viết về Quang Dũng: Sách cũ lâu ngày mờ nét chữ/ Lối cũ càng đi càng nhớ người/ Trấn thủ ôm thân đoàn vệ quốc/ Sương vương nương tây lòng xa xôi/ Mường Hịch, Sài Khao cùng Hát Lót/ Ai đi, lau xám vờn lưng trời/ Sông Mã gầm lên độc hành khúc/ Còn dòng thi sĩ còn khơi vơi/ Thơ ứa mỗi lời như máu ứa/ Quê hương mờ mịt sau lưng người/ Này cọp, này em, này khúc khuỷu/ Cồn mây ngày ấy ở đâu rồi?/ Độc mộc trông hoài sao chẳng thấy/ Mỹ nhân, thi sĩ phận như vôi/ Sốt rét chân rừng, run tựa lá/ Hãn huyết pha sương thảo mấy lời.../ Phủ Quốc, Sài Sơn, đồng Bương Cấn/ Những mắt Sơn Tây mở dưới trời/ Thu cũ vàng trong mùa lúa mới/ Lúa mới vàng trong thu cũ rơi. Nghe thế, Quang Dũng chẳng đã có thể “xoa tay nhẹ nhõm” thêm một lần sao?
Là người đọc nhiều, đi nhiều và... chơi nhiều, kiến thức sách vở và kiến thức đời sống trong anh cứ tích tụ mãi. Bởi thế, khi anh đàm đạo văn chương với bạn bè, cái kho kiến thức ấy được mở ra, được “xả hàng”, toàn những “điển tích”, những “khuôn mẫu”, những độc đáo, những chói lọi, từ cổ chí kim. Nói (và uống) thì như “rồng leo”, mà viết thì cũng cuồn cuộn như “rồng cuốn”. Ngoài làm sách như đã nói, Đỗ Trung Lai còn viết truyện ngắn, tiểu thuyết; viết trường ca, làm thơ ngắn, vẽ tranh và cho đăng cả trăm bài báo! Sức làm việc như vậy thật đáng nể.
32 năm mặc quân phục, Đỗ Trung Lai, đương nhiên là có nhiều sáng tác về người lính và chiến trận. Đến hôm nay, đọc lại Đỗ Trung Lai ở mảng thơ này, ta còn giật mình khi thấy khói đạn và nỗi đau chiến tranh vẫn như còn vương trong những con chữ: “... Ai người lịm tắt trong đêm/ Nằm im trên võng mà quên cuộc đời/ Ai người mười tám đôi mươi/ Ai người tóc bạc, ai người hoa râm/ Ai là cán, ai là quân/ Bây giờ trắng xóa quây quần bên nhau/ Ngổn ngang mây trắng trên đầu/ Ba ngàn mộ, trắng một mầu như mây” (Thơ viết ở nghĩa trang liệt sĩ Plây cu, Gia Lai). Trong bài thơ “Hang Ngậm người” (còn gọi là “Hang Tám cô”) nói về các nữ liệt sĩ thanh niên xung phong đã hy sinh trong một cái hang bị bom Mỹ đánh sập, mãi tới 23 năm sau mới đưa được hài cốt ra, mang về quê mai táng! Đỗ Trung Lai, với những câu thơ đau đáu xót thương đã làm người đọc rơi nước mắt: “Bao năm hang đá ngậm người/ Có ai để lại một lời nào không/ Đâu lời tê tái đêm Đông/ Đâu lời Hạ với bão giông mịt mù/ Đâu lời héo của tàn Thu/ Lời Xuân mưa bụi thâm u ruột rừng/ Giữa đá lạnh, giữa âm cung/ Lời nào trong phút cuối cùng, người ơi!”.
Rồi anh dựng chân dung Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế qua ba lần nâng... bát: ... Vạt lúa chín Phồn Xương như dải khăn vàng/ Buông thơm thắm bên ngực trần sơn nữ/ Quân Đề Thám vẫn đang ngồi đâu đó/ Dưới bóng rừng, bên hồ rượu mùa thu/ Tay đã xa gươm súng tự bao giờ/ Rượu men lá, lòng son tầy nhật nguyệt/ Ta thong thả vén tay tìm nhập cuộc/ Bát rượu đầu, xin cạn với non sông/ Non sông đau, hào kiệt chẳng cam lòng/ Trời không tựa, anh hùng đành ôm hận/ Thân về đất, tim hồng thành ngọc nát/ Thành hoàng hôn thắm đỏ đất trời thiêng/ Đất trời thiêng thơm danh tiếng hùm thiêng/ Tượng Đề Thám sừng sững trời Yên Thế/ Người khởi nghĩa, áo mang màu đất mẹ/ Đầu quấn khăn vồ, râu cọp phất phơ bay/ Xin cạn với riêng ông bát rượu thứ hai này/ Giặc đã chạy, quốc thù xưa đã báo/ Quanh đồn luỹ, đá như nồi như đấu/ Ngổn ngang nằm trong sắc cỏ mùa thu/ Không phải đá đâu, đó là những câu thề/ Đã hoá thạch: “Quyết không làm nô lệ!”/ Lời thề đá, xưa xây thành đắp luỹ/ Vẫn nguyên lành dù luỹ vỡ thành tan/ Vẫn nguyên sinh trong cỏ nội hoa ngàn/ Rồi sẽ lại gầm lên khi giặc đến/ Bao trượng nghĩa mới nên bờ nên bến/ Bát rượu thứ ba này, xin cạn với ba quân/ Nắng nhuộm vàng cây, lúa trải đỏ đồng/ Thu thắng trận, thu hoà đàm, thu thất thế/ Thu chết tướng, thu tan quân, thu yên nghỉ/ Thu lộng lẫy, thu hào hùng, thu giản dị/ Chuốc rượu dưới quân kỳ, bao cung bậc thu qua... (Môi dịu dàng, ta gọi Bắc Giang thu). Mấy ai đã về chốn xưa, để “trác tuyệt” tượng hình người xưa như thế?
Anh viết về Tổ quốc nơi địa đầu bây giờ: Dưới bóng vàng sao đầu Lũng Cú/ Đá cũng là dân đất nước tôi/ Chiều xuống, sương bò ra mặt đá/ Như người giữ nước đổ mồ hôi/ Cả đá lẫn người đều lẫm liệt/ Muôn kiếp thi gan nhật nguyệt rồi/ Ngậm gió cổng trời buông tiếng thét/ Đá thề sống chết tựa người thôi/ Sống chết, tận trung mà báo quốc/ Chầu bên cột mốc chốn biên thùy/ ấm lạnh với người trong sương tuyết/ Che đỡ cho người lúc hiểm nguy/ Rồi đá cho người thân kiếp đá/ Dựng thành chót vót với uy nghi/ Hồn nước ngày đêm theo thạch trụ/ Phần phật reo trên ngọn quốc kỳ (Đá và cờ Đồng Văn). Thảo nào mà nghe nói, bộ đội Biên phòng định khắc bài thơ này vào chân cột cờ Lũng Cú!
Rồi anh viết về cha mẹ: “Cha mẹ đã thành ra cổ tích/ Cỏ nằm kể mãi dưới chân nhang”; anh viết về vợ con, anh chị, bè bạn, quê hương; về những người tình, về... đủ thứ!
Thơ của Đỗ Trung Lai giàu hình ảnh và nhạc điệu, hai yếu tố không thể thiếu của thi ca, nhất là thi ca truyền thống. Anh sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ 4, 5, 7 chữ, lục bát và song thất lục bát, đặc biệt, ở thể thơ 6 chữ, bài nào của anh cũng có dư ba, lắng đọng và hàm súc. Anh cũng chả ngại thơ tự do. Anh thường không để cho tư tưởng trong thơ hiện ra một cách sống sít mà “hòa tan” nó đi, rồi viết một cách nhẹ nhõm, giản dị. Tài hoa Đỗ Trung Lai thể hiện ở những câu thơ giầu chất thi sĩ mà bài thơ “Ngũ hồ ở Bắc Ninh” chỉ là một ví dụ: “Kìa em, kìa cái dáng em/ Y như cô Tấm về bên sông Cầu/ Sông kia chỉ có một màu/ Em ta ba mớ bảy màu như không/ Không em, ừ, chợ vẫn đông/ Có em, chợ có cầu vồng mọc lên/ Em ra ngoài bến, lên thuyền/ Thánh thần cũng muốn bỏ đền ra sông/ Thuyền nan cũng hóa thuyền rồng/ Nước sông cũng hóa rượu nồng trăm năm/ Uống vào cho cải thành răm/ Cho sông Cầu hóa ra năm cái hồ/ Một hồ dầm cái tương tư/ Bơi vào, cá cũng đứ đừ như ai/ Quanh hồ trồng liễu Chương Đài/ Để người lữ thứ nhớ bài hàn ôn/ Một hồ nước đỏ như son/ Chiều chiều mình tẩm gót son chân mình/ Bao nhiêu sách viết thơ tình/ Ta đem xé hết cho mình thấm chân/ Một hồ giặt áo tứ thân/ Giặt khăn mỏ quạ, giặt quần lụa đen/ Thắt lưng hoa lý, hoa hiên/ Mình ơi, mình hãy giặt riêng một hồ/ Cái hồ hay có mây mưa/ Để ta giặt yếm mình vừa cởi ra/ Sông xưa vẫn thế thôi mà/ Vì ai, sông lại thành ra ngũ hồ?”.
Trong thơ Đỗ Trung Lai, hình tượng thi ca giàu sức biểu cảm; lôi cuốn mà vẫn tải được những suy ngẫm, tâm trạng. Thơ anh như đã có sẵn một thứ “nhạc cụ” riêng, với những âm hưởng riêng không lẫn với người khác. Cảm xúc trước thiên nhiên và ngôn ngữ hàn lâm chen dân dã trong thơ anh thường đem lại những khoái cảm thẩm mỹ bất ngờ.
Có người nói, nhà thơ Đỗ Trung Lai có tài kể chuyện “như bịa” mà người nghe nhiều khi “tin đến sái cổ”! Chúng tôi không nghĩ quá lên như vậy, nhưng gần anh mới biết, quả là cái duyên kể chuyện cũng là một nét độc đáo của nhà thơ này. Trong một lần ngồi uống rượu ở nhà anh, Đỗ Trung Lai thong thả kể chúng tôi nghe về chuyện một người con gái bí ẩn đến trong giấc mơ của mình: “Đêm khuya. Gió bấc. Mưa phùn. Chợt một người con gái đến bên đầu giường tôi, khóc, rồi than rằng: “Sao các nhà thơ ta bất công thế này!” - “Chúng tôi làm gì mà em bảo chúng tôi bất công?” - Tôi hỏi lại. - “Thì đấy, mấy trăm năm nay, các anh chỉ một mực khóc thương Vương Thuý Kiều. Lại còn đồng thanh bảo rằng, đó là người đàn bà khổ nhất trời Nam. “Nàng ấy không khổ thì còn ai khổ nữa?” “Sao lại nói thế được? Nàng ấy yêu và được yêu, được hẹn thề: Tóc mây một món dao vàng chia đôi. Bán mình chuộc cha là tự nguyện. Mười lăm năm lưu lạc, cũng còn được nương bóng vua Từ Hải, được nhờ túi phong lưu của chàng Thúc, sau lại được tái hồi Kim Trọng: Hoa tàn mà lại thêm tươi - Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. Thân thì thế, danh thì ông Tiên Điền bênh cho: Chữ trinh kia cũng có ba, bảy đường; Rằng nàng lấy hiếu làm trinh. Thế là thân, danh đều vẹn. Nàng ấy khổ sao bằng em được? Tôi giật mình, vội hỏi: “Thế chuyện của em ra sao?” - “Em bị gả cho thằng gián điệp! Quay đi quay lại chưa hiểu ra sao thì bị chém đầu. Mà người chém, trời ơi, lại là cha mình!” Người con gái ấy nói thế, rồi cứ đứng khóc mãi không thôi, trong nước mắt hình như có máu. Tôi nhìn kỹ, đó là một nàng chừng tuổi trăng tròn, mặt hoa da phấn, cốt cách lá ngọc cành vàng, trên mình khoác chiếc áo lông ngỗng. Chợt hiểu, tôi bảo: “Ra em là Mỵ Châu đấy ư? Đúng rồi, em mới là người đàn bà khổ nhất trời Nam!”. Nàng ấy nghe, nét mặt có vui lên một chút. Khi tỉnh hẳn, chỉ còn mình tôi trong phòng, trên bàn viết có mấy chiếc lông ngỗng trắng tinh. Lấy làm lạ, tôi cầm một chiếc lông ngỗng ấy làm bút, viết bài thơ này tạ lỗi Mỵ Châu”. Kể xong câu chuyện, Đỗ Trung Lai ngửa mặt buồn bã. Cạn mấy chén rượu, anh cầm đũa gõ vào thành bát, rồi nhấn nhá bài thơ “Lời Mỵ Châu”: Cha ơi! Cha chọn rể/ Cha đắp luỹ xây thành/ Mà sao khi nước mất/ Cha xử con tội hình/ Thần rùa biết cơ trời/ Cớ sao còn tặng nỏ/ Sao nỡ trỏ vào em/ Giặc đằng sau vua đó!/ Chàng đã phụ đời ta/ Từ khi chưa gặp mặt/ Chuyện tình thành Cổ Loa/ Đau trước ngày thứ nhất/ Sống cũng chẳng được nào/ Nước mất! Tình cũng mất/ Nhưng chết dưới gươm cha/ Thì ngàn năm oan nghiệt/ Nỗi oan này hoá ngọc/ Dưới chín tầng bể sâu/ Thần với người đâu cả/ Bao giờ thì biết yêu?”. Đỗ Trung Lai “hát” xong bài thơ, cả anh và chúng tôi đều bàng hoàng, thẫn thờ, đau đớn! Câu chuyện kể trên và bài thơ viết trong đêm mưa gió ấy, Đỗ Trung Lai in trong tập thơ “Đêm sông Cầu” của mình, do NXB Quân đội Nhân dân ấn hành năm 2003. Có lẽ anh là một trong số ít các nhà thơ đương đại đầu tiên đưa truyện vào thơ, dùng truyện minh họa cho thơ và ngược lại. Trong tập “Đêm sông Cầu”, đã mấy lần anh viết theo thể truyện -thơ ấy.
Suy nghĩ về nghề văn của Đỗ Trung Lai cũng rất có “nguyên tắc”. Anh viết trong “Tự bạch”: “Họ và tên khai sinh của tôi là Đỗ Trung Lai. Tôi dùng nó làm bút danh của mình. Chắc là khi đặt tên cho tôi, cha mẹ tôi cũng muốn tôi chịu trách nhiệm về nó. Vả lại làm thơ, rõ ràng không phải là một hoạt động bí mật. Vả lại, tôi không thể bắt một cái tên nào khác chịu trách nhiệm về những câu thơ tôi viết, cũng như cây cúc không bao giờ phải chịu trách nhiệm về việc những bông hồng đẹp hay xấu. Mặc dù là hội viên ngành thơ Hội Nhà văn Việt Nam, tôi không bao giờ coi mình là nhà thơ chuyên nghiệp. Vì theo tôi, làm thơ không phải là một nghề, với cái nghĩa là có thể đào tạo ra những người thợ của nó. Tuy nhiên, thơ lại cần có tính chuyên nghiệp cao. Mặc dù vậy, không thể lấy “tay nghề” để thay cho “nàng thơ” được. Tôi vẫn luôn cho rằng: Nhà thơ không phải là người có thể viết ra những câu thơ, mà nhà thơ là người không thể không viết ra những câu thơ. Khi mà trong lòng không có thơ thật, thì đừng ép mình làm thơ làm gì. Làm như thế là tự lừa mình, và sau đó là lừa độc giả. Theo cách nghĩ này, không ai là người có “nghề cảm hứng” cả và do đó, tôi mới nói rằng, làm thơ không phải là một nghề và vì vậy, làm thơ được đã sướng, nhưng giá mà không phải làm thơ thì còn sướng hơn. Nói thế thôi, chứ chả ai chống được mệnh!”.
Tung hoành thế, nhưng Đỗ Trung Lai dường như đã nhìn thấy, từ lâu, cái cảnh “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch” (Xưa nay, các bậc thánh hiền đều dần rơi vào cõi im lặng), chả thế, anh lại đột ngột “từ quan” bằng cách bỏ việc, đổi “lương tướng” lấy lương tập sự suốt hàng năm trời? Chả thế, anh lại viết “Vịnh nỗi buồn”: Dây đàn cũ, lâu ngày không rung nữa/ Người chơi đàn cũng đã bỏ đi rồi/ Chỉ có tiếng đàn xưa, đôi lúc/ Ngân trong lòng người ở lại mà thôi/ Người ở lại cũng già theo năm tháng/ Tiếng đàn ngân trong lòng cũng thưa dần/ Rồi đến lúc người bán cây đàn cũ/ Rồi đến ngày tất cả hoá phù vân! Anh viết thế từ khi còn trẻ. Vâng! Phận thi nhân, thường chẳng thế sao? Cùng lối nghĩ trước cả khi “đến cõi” ấy, anh còn có bài “Đêm thu, dắt cháu vào phố cổ”: Dắt Mũm chơi hè phố xưa/ Đèn đường xua tan sương mờ/ Sáng rực trên nền lá biếc/ Một chiếc lá bàng vàng mơ!/Vàng mơ trỏ về Cuối thu/ Cuối thu là nơi ông ở/ Chỉ vì theo cháu bi bô/ Mà đêm, ông còn ra phố/ Cháu đòi, ông tìm mọi cách/ Lấy cho bằng được lá vàng/ Lá cầm tay rồi, cháu hỏi/ Trả lời, dễ phải ngàn trang/ - Ông ơi! Lá vàng tên gì/ - Lá vàng tên là Hữu hạn/ - Ông ơi! Hữu hạn là gì/ - Nghĩa là Rồi xa muôn dặm/ - Ông ơi! Muôn dặm là gì/ - Ấy là Ra ngoài tầm mắt/ - Ra ngoài tầm mắt là gì/ - Là đã Hình xa bóng khuất/ - Hình xa bóng khuất là gì/ - Là Cuối trời hay Lòng đất/ - Cuối trời, Lòng đất là gì/ - Là cháu không còn ông dắt/ - Sao cháu lại không còn ông.../ - Kìa! Khéo lá vàng bay mất! Thế là, Đỗ Trung Lai đã “ngộ”, ít nhất là trước tuổi của anh, rất nhiều!
Có lần, khi nghe anh “định nghĩa”: “Thơ hay nghĩa là thơ giầu khả năng cổ điển hóa”, chúng tôi hỏi: “Khả năng cổ điển hóa là thế nào?”, anh bảo: “Là có thể vào nằm với tinh hoa trong kho tàng văn học cổ kim”. Một lúc sau, anh nói thêm: “Cổ điển” không bao giờ có nghĩa là “cũ”. “Hiện đại” nào, nếu hay, mà chẳng dần thành “cổ điển”, “kinh điển”. Không bao giờ được sa vào cuộc chiến giữa “cổ điển” và “hiện đại”, vì đó chỉ là cuộc chiến giả định, do những kẻ mỵ dân, bất tài nghĩ ra”.
Nói thế mà nói được! Nghe chả ra “cổ điển” mà cũng chả ra “hiện đại”! Nhưng hình như đúng!
Nguồn Văn nghệ