TỪ “ĐỈNH CAO HOANG VẮNG”, NHÌN LẠI TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH
Khoảng những năm 60, 70 của thế kỉ trước, khi truyện ngắn đã có nhiều thành tựu thì tiểu thuyết viết về chiến tranh dường như mới ở chặng ban đầu của sự phát triển. Tái hiện và mô tả những gì mà tác giả đã thấy theo một cách nhìn có tính chất mô thức rằng bên ta – quân dân miền Bắc và đồng bào đồng chí ở miền Nam là đại diện của chính nghĩa dân tộc và thời đại, nên đẹp đẽ và ngoan cường, đã là cách thức quen thuộc, được thừa nhận rộng rãi và do đó, làm nên giá trị của tiểu thuyết viết về chiến tranh khoảng hơn vài chục năm này.
Sang những năm 1980, 1990, gương mặt chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam, bên cạnh vẻ kiên trung, ngời sáng của lí tưởng, đã bắt đầu xuất hiện một ít mảng màu không mấy sáng tươi đẹp đẽ, vốn là một góc khuất lấp có thật của bên ta - bên chính nghĩa, đã được dựng lên. Với bộ tiểu thuyết Đất trắng (2 tập, 1980 và 1984) của Nguyễn Trọng Oánh, thì trong hàng ngũ quân giải phóng không chỉ có trung dũng kiên cường, mà cũng có kẻ không chịu được gian khổ, muốn có thêm quyền thế mà chiêu hồi theo đối phương, phản lại đồng đội. Còn trong Thân phận tình yêu (1991) của Bảo Ninh thì chiến tranh giải phóng Tổ quốc không chỉ là Đường ra trận mùa này đẹp lắm như thơ Phạm Tiến Duật, mà còn là đói rét, đạn bom tơi bời và hi sinh đủ kiểu… Những trang tiểu thuyết về chiến tranh được viết theo hướng này, quả nhiên, đã giúp cho bức tranh hiện thực đất nước đầy đặn và thấm đẫm suy tư hơn. Người đọc qua đó, càng quý trọng thành quả được chung kết vào cái mốc 30-4-1975, đồng thời, họ cũng dần nhận ra rằng, trên con đường phấn đấu cho lí tưởng độc lập – tự do - hạnh phúc đến mọi nhà, thì quả thật, bên cạnh những vốn liếng quý báu, đáng tự hào, cũng đã xuất hiện một số nguy cơ mới, ngay trong nội bộ mình.
Tiếp bước tự nhiên theo các bậc đàn anh như Nguyễn Minh Châu (1930-1989), Nguyễn Trọng Oánh (1929-1993), Nam Hà…, Khuất Quang Thụy cũng viết nhiều về chiến tranh. Ông có vẻ giống Nguyễn Minh Châu hơn, ngay từ buổi đầu đặt chân vào làng văn, là bằng tiểu thuyết, và dường như chỉ tiếp tục bằng tiểu thuyết là chính. Trong khi đó thì Nguyễn Trọng Oánh và Nam Hà còn là tác giả của thơ và kí sự, truyện ngắn… So với các đồng nghiệp cùng trang lứa, Khuất Quang Thụy - tác giả của Trong cơn gió lốc (1980), Trước ngưỡng cửa bình minh (1985), Không phải trò đùa (1985), Giữa ba ngôi chùa (1989), Góc tăm tối cuối cùng (1990), Những bức tường lửa (2006), Đối chiến (2010) và mới đây là Đỉnh cao hoang vắng (2016) đúng là không tạm dừng bút như một số người khác, mà vẫn viết và in như Nguyễn Bảo, Chu Lai, Nguyễn Trọng Tân… Ông không có được sự mở đầu vang dội như Bảo Ninh, nhưng trong việc có mặt đều đều với văn đàn và bạn đọc ngót 40 năm qua, Khuất Quang Thụy không chỉ thể hiện một sự bền bỉ. Hơn 20 năm trước, sau khi đã có mấy tập tiểu thuyết viết về chiến tranh được công chúng chú ý tìm đọc, nhà văn đã tâm sự:
“Những nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như chúng tôi dĩ nhiên còn lâu mới ra khỏi được “từ trường” của cuộc chiến: Gian khổ và hy sinh, vinh và nhục, tình bạn – cái cao thượng và sự thấp hèn, sự sống và cái chết… tất cả còn ám ảnh chúng tôi và sẽ được trang trải trên các trang viết. Tuy vậy, chúng tôi cũng là những người đặc biệt quan tâm đến cuộc sống ở phía sau lưng mình những năm chiến tranh và số phận của một nhân dân, một đất nước đã bằng con đường nào để thoát ra khỏi đói nghèo và những di chứng của mấy mươi năm binh lửa. Những cái đó không chỉ là đề tài mà còn là sự khắc khoải trong mỗi trái tim người viết - chiến sĩ chúng tôi.” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn).
Lời tâm sự này vừa có ý nghĩa tổng kết chặng đường sáng tác ban đầu, lại cũng vừa hé mở cho những ai nghiên cứu về Khuất Quang Thụy thấy được cái quan niệm riêng của ông khi viết về chiến tranh, là viết cả cái vinh và cái nhục, viết cả cái cao cả và cái thấp hèn, chứ không chỉ viết về những chiến công chiến thắng; viết về chiến tranh, theo ông, cũng là viết về phía sau người lính, về số phận của nhân dân, đất nước qua/ trong những hình tượng con người cụ thể. Gần 30 năm trước, khi công cuộc đổi mới đang bước vào chặng ban đầu, mà nhà văn ta nghĩ được thế, tức là ông đã đạt được một sự xác quyết rất đáng ghi nhận.
Ai đã có dịp nghiền ngẫm 8 tập tiểu thuyết dày dặn của Khuất Quang Thụy mà so sánh và suy nghiệm, sẽ có thể nhận rằng: Nhà văn trưởng thành từ lính trận này quả đã tự đặt cho mình một cái đích riêng đúng đắn và thích hợp khi viết về chiến tranh. Theo hướng đích đó, ông đã cặm cụi và mẫn cảm khi đặt bút viết từng chương từng tập với một bút pháp tiểu thuyết vừa có phong vị cổ điển - ổn định và bình thường, vừa có sự pha trộn phá cách, nhất là ở các cuốn gần đây. Hiện thực chiến tranh giải phóng ở Việt Nam trong các tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy cũng được mở rộng dần. Ở đấy có nhiều hoạt cảnh về anh bộ đội khi tập luyện và sống với dân ở hậu phương, về anh giải phóng quân mưu trí can đảm lúc xung trận, và cả những trường đoạn về tình yêu đôi lứa nồng nàn, tình đồng đội, đồng hương thắm thiết…
Có điều rất đáng chú ý là văn xuôi viết về chiến tranh ở ta bao nhiêu năm trước rất ít có hình tượng về binh sĩ phía bên kia chiến tuyến, mà nếu có, thì hoặc là bạo tàn khát máu như thằng Xăm trong Hòn Đất (Anh Đức) hoặc là một sĩ quan Mỹ nham hiểm và máu gái nhiều tiền nào đó… Chỉ đến, hình như chỉ đến Đình Kính, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Bảo… thì binh sĩ VNCH mới trở thành nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Riêng Khuất Quang Thụy, có thể thấy là trong tư duy về thể loại, trong cấu trúc và ngôn ngữ trình thuật, ông đã có nhiều sự mạnh dạn và công phu khi dựng lên hình tượng binh sĩ các cấp thuộc chế độ VNCH. Hẳn là ông đã có sự quan sát và suy ngẫm nhiều về loại/ dạng nhân vật này.
“Sao lại không viết về binh sĩ Việt Nam cộng hòa và gia đình của họ được, họ là một bên của cuộc chiến kia mà!”, Khuất Quang Thụy đã rủ rỉ mà như kêu lên với bạn bè như vậy. Không phải ai cầm súng Mỹ cũng cam tâm bán nước, không phải ai đi đánh nhau với Cộng sản – họ gọi là Bắc Cộng, thì cũng khát máu và vô tình… Tôi đọc thấy trong sách của Khuất Quang Thụy và cả trong gương mặt trầm lặng hàng ngày của ông những ý nghĩ ấy.
Đỉnh cao hoang vắng, thường khi, đã là đỉnh cao, thì có chói lọi, chói sáng và uy phong… chứ, sao lại hoang vắng, hoang vắng là thế nào? Đọc hết, rồi đọc lại cuốn tiểu thuyết dày 375 trang khổ giấy 13 cm x 20,5 cm này của Khuất Quang Thụy, mới vỡ ra cái thâm thúy của tác giả.
Đỉnh cao hoang vắng kể rằng: Có viên đại úy dù Nguyễn Lang bị quân giải phóng bắt làm tù binh, Lang vượt trại tù cùng trung sĩ dưới quyền là Rơ Chăm Điết. Trên đường trốn chạy, họ bắt được cô y tá Vân. Lúc đầu là do bị ép buộc, Vân phải thỏa hiệp đi theo, rồi do ý thức nghề nghiệp, và đã được rèn dạy, nên Vân đã cứu chữa cho Lang. Họ dựa vào nhau để sống trong rừng Lào – Việt một năm trời khi chưa có cách gì trở về với đồng đội của mình. Và họ cũng canh chừng, cảnh giác với nhau. Hơn thế, để tồn tại, Vân còn bày cho Điết cách ăn trộm thực phẩm tại các binh trạm, Lang còn chặn lại cơn cuồng nộ của Điết khi hắn bóp cổ Vân lúc nghe cô nghẹn ngào hát “Trường Sơn ơi! Trường Sơn ơi/ Đèo vút cao vượt qua mây gió/ Đạp đá tai mèo bằng sức pháo ngàn cân…”. Rồi họ lại dàn hòa. Trung sĩ Điết thở phào, nở nụ cười hồn nhiên: “Thì… ta hòa nhau thôi, thưa bà Việt Cộng”, tác phẩm viết thế. Rồi họ chia tay nhau. Lang cảm ơn Vân đã cứu mạng. Vân trả lời: “Đó là do… tôi đã được dạy dỗ thế. Và… cũng là vì các ông là những người không đến nỗi nào.”. “Sự tử tế đã cứu rỗi tất cả chúng ta”. Đây là câu nói của Lang lúc này, cũng là tư tưởng của tác giả vậy. Rồi Nguyễn Lang về, được vinh thăng thiếu tá tại trận, chỉ huy hai tiểu đoàn dù quyết rửa hận với Cộng quân, nhưng đã tử nạn trên tay thượng sĩ Điết; Vân lần hồi cáng thương ra Bắc, về quê sống, tự biết cho mình; thượng sĩ Điết qua thời trận mạc, thành ông già lo làm ăn, chăm sóc phần mộ thiếu tá Lang và tích cực đưa dẫn những đoàn cựu chiến binh thăm lại chiến trường xưa. Vân, bà Vân và ông Điết vẫn dấu không cho ai biết về đoạn đời một năm ấy, cái đoạn đời oái oăm kì lạ trong chiến tranh đã giúp họ – những kẻ thù của nhau lại dần hiểu ra nhau và hiểu rõ thêm số phận của mỗi con người trong một đất nước có nhiều quang minh chính đại mà cũng còn có cả những lầm lạc, ngộ nhận.
Mấy chục năm sau chiến tranh bà Vân đã nói về Nguyễn Lang:
“Ông ấy là một… người tốt ông Điết ạ”, ông Điết tiếp lời: “Và là một người trọng danh dự”. Danh dự gì vậy? Đó là lời hứa của Lang: sẽ trả tự do cho Vân khi Vân tìm được đơn vị, mà cả ba người đều chia tay an toàn. Đúng thế. Và gì nữa? Xin bạn đọc cứ đọc tác phẩm sẽ tường.
Đỉnh cao hoang vắng là một kiểu chuyện về“bí mật mỗi cuộc đời”, “chuyện bây giờ mới kể” về số phận trần ai đau đớn của người Việt thật không dễ vừa chia xẻ, cảm thông trong chiến tranh.
Nhưng cũng còn may là rốt cuộc, bên này và bên kia đã hiểu ra nhau, chúng ta là, vốn là đồng bào nhưng đã có nhận thức khác nhau về lí thưởng và thời thế… Khi ra trận thì đều quyết liệt, nhưng cùng sống với nhau thì lại đủ kiên nhẫn để hiểu lại, hiểu thêm, hiểu đúng về nhau hơn. Các binh sĩ VNCH đã ngộ ra: làm tay sai cho ngoại bang, cầm súng của nó mà giết hại người Việt mình là nhục nhã, là không được. Với tiểu thuyết Đỉnh cao hoang vắng, nhà văn Khuất Quang Thụy đã đạt thêm một thành công có sức thuyết phục và vẫy gọi. Nhà văn vốn trầm tĩnh bề ngoài mà bên trong rất sôi sục, bài bản này đã kết thúc tác phẩm bằng một đoạn kể chuyện và dựng cảnh vắn gọn, tưởng là bình thường mà thực ra, đã ấp ủ trong đó những cách gợi dẫn suy nghĩ, có thể là ám ảnh nữa:
“Khi đoàn cựu binh và gia đình liệt sĩ của Trung đoàn 3 xuống đến chỗ đỗ xe thì sương mù từ trong khe núi bỗng ùn ùn bốc lên, tỏa khắp cánh rừng. Chẳng mấy chốc sương bao phủ cả dải núi. Nhìn lên dãy điểm cao chỉ còn thấy ba mỏm núi cao nhất nhô lên đơn độc trong màn sương trắng đục.”
Thế đấy, vẫn là hoang vắng và đơn độc phải không? Ba con người ấy là có thực như ba mỏm núi và cũng đang mờ ảo trong sương mù kia… Đỉnh cao hoang vắng là tiểu thuyết, sự hư cấu rất bạo, và chất bút kí cũng rất rõ. Tác giả đã định thế rồi cứ viết ra thế thôi.
Trong thiên tiểu thuyết này cũng có nhiều trường đoạn kể về tình đồng đội lúc lâm trận. Sĩ quan bên nào cũng tiếc máu xương của người lính dưới quyền, binh sĩ bên nào cũng có trách nhiệm quân nhân và tôn trọng kỉ luật chiến trường. Ngôn ngữ trần thuật, dựng truyện của tác giả đã dễ khiến cho người đọc hiểu ra: bên chiến thắng đã vào trận một cách điềm tĩnh… bên kia cũng xả thân khi vào trận nhưng có vẻ sĩ diện, bốc đồng, phách lối tâm lý chiến… nên dù dồi dào bom đạn, rồi cũng thảm bại.
Gây xúc động đặc biệt, là các chương đoạn kể lại chuyến ra Bắc công tác, kết hợp cho anh em thăm gia đình của Trung đoàn trưởng Đồng Duy Tiên. Chuyến đi ấy ông đã mang lại vinh hạnh cho gia đình liệt sĩ Phan Trung Lý sau bao tháng năm địa phương còn bán tín bán nghi, đã trả lại danh dự cho đại đội trưởng Thoi, đã giúp trợ lý Văn hàn gắn chuyện vợ chồng… Ồng là một sĩ quan chỉ huy chiến trường tài giỏi (về sau được phong quân hàm trung tướng), đồng thời, cũng là một người làm công tác hậu phương quân đội rốt ráo, có hiệu quả. Thương quý chiến sĩ, chu đáo với cán bộ và nhân dân ở hậu phương đến như ông cũng là cùng. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì đất nước quê hương mà chiến đấu… khúc ca ấy đã tự ngân lên trong lòng người đọc Đỉnh cao hoang vắng là nhờ ở những trang này. Đồng thời, ở phần nội dung ấy của tiểu thuyết, nhà văn cũng cất lên lời cảnh báo về tệ quan liêu vô cảm trong bộ máy công quyền ở ta.
Đỉnh cao hoang vắng là một thành công mới, trước hết, là của Khuất Quang Thụy khi ông đã dường như chỉ chuyên chú vào tiểu thuyết viết về chiến tranh. Với cuốn sách mới này, nhà văn đã đi nhanh qua khỏi chặng mô tả - kể chuyện chiến tranh, sang chặng thứ hai là lý giải về chiến tranh, về sự thành bại của mỗi bên thông qua việc kể lại những ứng xử thể hiện trình độ văn hóa, tầm vóc văn hóa của những người tham gia chiến tranh, rồi đến với chặng thứ ba: viết tiểu thuyết chiến tranh, là suy ngẫm và bình luận về chiến tranh.
Đây là ba chặng đường có sự chuyển tiếp và giao thoa của nội dung và cả phương pháp sáng tác.
Tôi nghĩ, hành trình của tiểu thuyết viết về chiến tranh ở Việt Nam ta là vậy, và với tác giả Đỉnh cao hoang vắng, thì không chỉ là câu chuyện về công phu và trình độ vốn liếng của nhà văn, mà ở đây, còn là câu chuyện của cái tâm đức ở người cầm bút. Nhà văn phải yêu thương, quý trọng và tin cậy đồng bào đồng chí mình và hiểu đối phương đến độ nào đó thì mới viết ra như thế được.
Nguồn Văn nghệ số 19/2017