Tác phẩm và dư luận

1/6
8:51 AM 2018

NHÀ THƠ LIỆT SĨ LÊ ANH XUÂN-TRONG TRẺO, DẠT DÀO CƠN MƯA ĐẦU HẠ

LÊ QUANG HƯNG-Kỉ niệm 50 năm ngày mất nhà thơ, liệt sĩ Lê Anh Xuân hi sinh ngày 21/5/1968 tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mĩ.

                                                                     Nhà thơ liệt sĩ Lê Anh Xuân

 

 
 

Thơ Lê Anh Xuân là tiếng ca trong trẻo, mê say của một tâm hồn hồ hởi, thiết tha tin yêu trước cuộc đời. Tiếng thơ ấy như cơn mưa đầu hạ dạt dào, tươi mát, như dòng sông mải miết băng băng về phía trước. Bạn đã bao giờ được thấy mưa đầu hạ gội mát những cành non, đã bao giờ đứng dưới “lá dừa xanh long lanh ánh nắng”, được nghe mùi nồng thanh từ đuốc lá dừa? Tiếng thơ của chàng trai quê Bến Tre say mê lí tưởng là vậy.

Sinh trưởng trong một gia đình trí thức yêu nước, tập kết ra Bắc, lớn lên trong lòng miền Bắc đang hứng khởi dựng xây cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa, Lê Anh Xuân cất lên tiếng thơ ngợi ca thật tươi trẻ, nồng nàn. Tập thơ đầu tay Tiếng gà gáy của anh là dòng cảm xúc say sưa, ngỡ ngàng trước bao đổi thay nhanh chóng của nửa nước yêu thương. Anh Lên Bắc Sơn chứng kiến sự đổi sắc thay da của một miền đất, của những con người. Anh mừng Đêm Uông Bí tưng bừng ánh điện, mừng Con đường cũ nay thênh thang rộng mở, mát bóng dương xanh và tấp nập những đoàn xe. Tâm hồn Lê Anh Xuân như cũng bâng khuâng với Nắng chiều trên bản mường no ấm. Đặt chân đến nơi nào trên miền Bắc, người thanh niên lúc này mới đôi mươi cũng vui tươi với cuộc sống lao động sôi nổi mà đầy chất thơ. Tình yêu miền Bắc thắm thiết như tình yêu nam nữ, như tình gia đình ruột thịt: Miền Bắc ơi! Sao tôi yêu quá!/ Như yêu Em, yêu Má, yêu Ba/ Xa quê hương, miền Bắc là nhà/ Tôi như lá xanh chen trong cành biếc (Mười năm). Chính tình cảm chân thành, tâm hồn trong trẻo như giọt mưa đầu hạ ấy đã làm nên sức lôi cuốn đặc biệt của Nhớ mưa quê hương - bài thơ được tặng giải Nhì cuộc thi thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1961. Trước đó mấy năm Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh đã lay thức tâm hồn bao người đọc. Cũng nỗi nhớ thiết tha của những người con quê Nam đang “sống trong lòng miền Bắc” nhưng bài thơ của Lê Anh Xuân trong trẻo mà dạt dào với bao kỉ niệm còn tươi mới. Khi đang ở miền Bắc, Lê Anh Xuân Gởi Bến Tre, khao khát Trở về quê nội để tham gia chiến đấu. Lúc trở lại quê Nam, anh lại Gởi miền Bắc cả trái tim tôi đó/ Ngày ngóng trông, đêm thương nhớ xiết bao. Đất nước tạm thời chia cắt hai miền nhưng nỗi đau, ý chí là một: Cả hai miền cùng một ngôi sao đỏ/ Cùng ánh trăng soi ngọn súng trường/ Hố bom trong này giống hố bom ngoài đó/ Cả hai miền cùng một kẻ thù chung (Gởi miền Bắc).

Tâm hồn Lê Anh Xuân luôn gắn bó, hòa nhịp cùng từng bước biến chuyển đi lên của quê hương, đất nước giữa những năm tháng lịch sử sôi động. Chúng ta hiểu vì sao tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, được giữ lại làm phụ giảng một thời gian ngắn rồi được cử đi học, nghiên cứu thêm ở Liên Xô nhưng Lê Anh Xuân từ chối con đường đó mà tình nguyện trở về quê Nam tham gia chiến đấu (cuối năm 1964).

Có thể thấy từ khi được về giữa miền Nam đang anh dũng, gian lao kháng chiến, tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Lê Anh Xuân đã phát triển lên một tầm độ mới, mang một sắc điệu mới. Trước còn là hoài niệm thiết tha trong xa cách, còn là tưởng tượng với những hình ảnh đau thương và bất khuất, giờ là được sống giữa hiện thực ấy, được trực tiếp tham dự, chứng kiến để mê mải ngỡ ngàng, để suy ngẫm ngợi ca. Từ tập Hoa dừa tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Lê Anh Xuân nóng bỏng lửa khói cuộc đời hơn mà cũng phơi phới hơn, ngày một nồng nàn và sâu đằm cảm hứng lịch sử hơn. Hoa dừa mang hình ảnh của nhiều miền đất, nhiều con người, mang dấu ấn của những chuyến đi, những lần gặp khi nhà thơ trẻ giàu nhiệt huyết đang say sưa hòa nhập và sáng tạo. Đó là Chiều Ấp Bắc trong veo/ Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt mặc “quân thù đêm ngày vẫn dội bom trút đạn” (Qua Ấp Bắc), là An Đức “trăng đang nhô lên sáng rực” (Nhìn về An Đức) soi bóng những người du kích đang luồn sâu vào vùng địch, là Đồng Tháp Mười có “bông sen trắng, bông sen hồng thơm ngát”, có Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ/ Cá quẫy đầm sen thiết tha/ Xôn xao bông súng nở xòa (Anh đứng giữa Tháp Mười). Đó là dòng sông Cổ Chiên trong đêm chói lòa ánh lửa bởi em nhỏ giao liên cầm thủ pháo vụt lao sang tàu địch (Ánh lửa trên sông), là Sài Gòn “những phố hè, những hàng me xanh ngát” với cái vầng sáng bồn chồn thương nhớ “cứ đêm đêm nức nở gọi ta về” (Mùa xuân Sài Gòn, mùa xuân chiến thắng)… Đặc biệt, mảnh đất quê hương Bến Tre dạt dào sức sống, anh dũng quật cường luôn trở thành một phần máu thịt nuôi dưỡng tâm hồn Lê Anh Xuân, khiến anh viết nên bao vần thơ đắm say, tự hào khác thường. Lê Anh Xuân “thấy lòng ấm lạ” trong “đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương”. Trở về quê nội, nhà thơ sung sướng tận hưởng hương vị ấm áp của đất quê bao dung như lòng mẹ: Ta lại đi chân đất/ Như năm nào ta đi học/ Đường hành quân mưa dầm/ Mẹ truyền cho ta sức mạnh bàn chân.

Trong phần thơ viết về quê hương của Lê Anh Xuân có hai hình ảnh đầy sức ám gợi, dễ lắng đọng sâu vào lòng bạn đọc, ấy là dòng sông và cây dừa. Ngày ở miền Bắc, anh nhớ “mấy cô gái bên kia sông giặt áo” (Nhớ mưa quê hương) và khi Trở về quê nội cảm xúc với con sông quê hương vẫn tươi rói, tràn đầy như thuở ban đầu: Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm/ Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng/ Hoa lục bình tím cả bờ sông. Vì yêu sông mà yêu con người hay bởi yêu con người nên yêu cả bến sông? Thật khó mà phân tách cái nào trước, cái nào sau ở liên tưởng này:Nước ròng/ Gặp em đi xúc cá/ (Chắc lại về nấu canh chua)/ Dấu chân em đẹp quá!/ Như hoa/ Nở trên bến phù sa (Dòng sông tuổi thơ).

Nếu đời sống và tâm hồn con người xứ Bắc thường gắn với cây tre thì con người Nam Bộ gắn với cây dừa. Đối với Lê Anh Xuân, dừa đã trở thành biểu tượng của quê hương, như một nhân vật biết gánh chịu đau thương, biết uất hận và vững vàng kiên định, lạc quan giữa những năm tháng lịch sử đầy bão tố. Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ của Lê Anh Xuân mang cái tên Hoa dừa. Ngày ở miền Bắc, cùng với Nhớ mưa quê hương là Nhớ dừa: Ta thèm chút nắng quê hương/ Màu xanh mịn, lá dừa vương trên đầu. Một nỗi nhớ da diết không kể thời gian: Nhớ thương nào biết sớm trưa/ Hồn ta thắm mãi bóng dừa trong xanh/ Sớm mai nắng biếc trên cành/ Đêm đêm trời cũng màu xanh lá dừa. Trong cảm hứng tự hào về quê hương bất khuất, dừa là biểu tượng cho phẩm chất kiên cường, đức tính bền bỉ, tấm lòng thủy chung: Dừa bị thương, dừa không cúi xuống/ Vẫn ngẩng lên cao hát giữa trời (…) Nếu rụng xuống dừa ơi không uổng/ Dừa lại cháy lên ánh đuốc soi đường (Dừa ơi). Ánh đuốc lá dừa làm ấm áp bức tranh quê hương chiến đấu và góp phần làm nên chiến thắng: Bộ đội qua làng đêm mưa ướt/ Đuốc lá dừa thắp sáng bến đò khuya (Đuốc lá dừa).

Trên mảnh đất miền Nam “anh dũng tuyệt vời” trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh có biết bao con người, cuộc đời để Lê Anh Xuân ngưỡng mộ, ca ngợi. Sau những ngày vượt Trường Sơn trở về quê nội, điều may mắn cho Lê Anh Xuân là vừa dịp được dự Đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ nhất. Nhà thơ vui sướng được Ngồi giữa bốn bề đỏ rực/ Giữa những chiếc hoa trên ngực anh hùng, được tiếp xúc với bao con người cao quý của nhiều miền đất. Bài thơ Gặp những anh hùng viết trong dịp này toát lên niềm tự hào cảm phục khi điểm lại gương mặt, chiến công của những con người anh dũng, ngoan cường. Từ đây, những con người miền Nam đi vào thơ Lê Anh Xuân thật đẹp, thật đáng tự hào với mọi tầng lớp, lứa tuổi, mọi việc làm trong cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại. 

Khi hòa vào cuộc chiến đấu lớn lao của quê hương, của dân tộc ở những nơi nóng bỏng nhất, hồn thơ Lê Anh Xuân tuy vẫn trẻ trung, trong trẻo nhưng ngày càng sâu đậm cảm hứng lịch sử. Quê hương, đất nước trong thơ Lê Anh Xuân ngày càng được mở rộng về không gian, đồng thời được phát hiện và suy ngẫm trên trục thời gian. Ở tuổi hai mươi, đêm nằm nghe tiếng mưa rơi mà Nhớ mưa quê hương, Lê Anh Xuân đã nghe thấy Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm/ Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa mưa giông/ Nghe như tiếng của cha ông dựng nước/ Truyền cháu con phải ngẩng cao đầu mà bước/ Nghe như lời cây cỏ, gió mưa/ Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa. Vì thế khi Về Bến Tre đau thương, bất khuất, anh lại càng thấm thía: Ta cầm nắm đất cha ông/ Nghe thiêng liêng ngọn lửa hồng trên tay/ Bao người ngã xuống nơi đây/ Biết bao cay đắng đất này, người ơi! Khi cảm nhận tầm vóc đất nước theo chiều sâu lịch sử, Lê Anh Xuân đã có những hình ảnh vừa giàu sức gợi cảm vừa mang tính khái quát cao. 

Cảm hứng sử thi, bút pháp lí tưởng hóa nhuần nhuyễn cùng cảm hứng lãng mạn dạt dào đã làm nên sức lôi cuốn của trường ca Nguyễn Văn Trỗi (2.000 câu lục bát). Đây là tượng đài người anh hùng bất tử trong không gian, trong thời gian: Cọc tre nơi giặc hành hình/ Trổ đài kỉ niệm bóng in ngang trời/ Như anh đứng đấy trẻ tươi/ Tạc hình thế kỉ muôn đời không tan.

Hai bài Anh đứng giữa Tháp Mười và Dáng đứng Việt Nam thể hiện rõ xu hướng khái quát hóa, chất giọng sử thi đáng chú ý. Chuyện anh hùng liệt sĩ Huỳnh Việt Thanh, “người cha có bảy đứa con thơ” chống xuồng “lao ra hút địch” để cả đội du kích rút thoát giữa lúc tứ bề vòng vây giặc xiết chặt khiến Lê Anh Xuân rất cảm phục. Nhà thơ đã khắc dựng tư thế hi sinh của người đội trưởng du kích anh hùng trên nền đất đai, sông nước quê hương vừa dữ dội vừa dịu hiền “bốn mùa lộng gió” và cảm thấy Gió thổi thời gian và biển cỏ xa khơi/ Gió thổi tên anh vào lịch sử. Cùng với cách dựng tứ này, Lê Anh Xuân viết Dáng đứng Việt Nam, bài thơ cuối cùng trong cuộc đời nhà thơ - chiến sĩ cao đẹp của mình. Từ tư thế hi sinh hiên ngang của người chiến sĩ Giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất (vào chiến dịch tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân 1968), Lê Anh Xuân liên tưởng khái quát đến “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” và thấy từ dáng đứng ấy “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Dáng đứng Việt Nam là bài thơ có tính tạo hình, giàu sức khái quát, một bài thơ có tầm vóc trong nền thơ ca chống Mĩ.

Lê Anh Xuân hi sinh khi tuổi đời mới hai mươi tám. Con đường thơ anh ngắn thôi nhưng phản ánh sinh động quá trình trưởng thành, dày dạn nhanh chóng của một thế hệ giữa một giai đoạn nóng bỏng, hào hùng của lịch sử dân tộc. Trong trẻo mà không vô tâm, mê say mà chẳng hề dễ dãi, thơ Lê Anh Xuân là tiếng ca chân thành của một thanh niên thấu hiểu trách nhiệm lịch sử nặng nề, vinh quang của thế hệ mình, đón nhận bao gian khổ, hi sinh một cách hết sức tự nhiên, vô cùng thanh thản. Một số người từng chỉ ra thơ Lê Anh Xuân có những lúc còn dài dòng, dàn trải mà chưa có độ lắng đọng, kết tinh, còn ít những suy ngẫm, khái quát mang tính triết lí. Có lẽ đó là những thiếu hụt, là điều cần bồi đắp để hồn thơ anh đầy đặn hơn song khó lòng đòi hỏi ngay trong điều kiện ấy. Điều dễ nhận thấy là bên cạnh sự tươi tắn, nồng nàn, càng về sau hồn thơ Lê Anh Xuân càng đậm cảm hứng lịch sử, càng nặng những suy tư về dân tộc, về thời đại. Có thể nói Lê Anh Xuân đã hòa nhập một cách nhanh chóng, tự nhiên vào dòng chảy lớn của thơ ca dân tộc những năm bấy giờ. Chúng ta quý anh trước hết ở tinh thần hăng say nhập cuộc, ở rung cảm thiết tha, chân thành chứ chưa phải bởi những tìm tòi, cách tân về tư duy nghệ thuật thơ. Sau Lê Anh Xuân chỉ ít năm, lớp nhà thơ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo… thực sự đột phá hướng đi mới, tạo thêm vẻ phong phú, đa dạng cho nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Trong trẻo và ngọt ngào, nồng nàn và tươi mát, luôn tha thiết tin yêu - đó là tâm hồn, là tiếng thơ Lê Anh Xuân. Dù số lượng chưa thật nhiều, nhưng sự nghiệp thơ ca Lê Anh Xuân thêm một bằng chứng về giá trị của nghệ thuật khi gắn bó tự nhiên với cuộc đời, khi thể hiện một lẽ sống trong sáng và cao cả.
 
L.Q.H
 
 
--------
Nguồn: Văn nghệ Quân đội

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *