TRANG THƠ CHỌN LỌC CỦA CÁC NHÀ THƠ: NGUYỄN ĐỨC MẬU, TRẦN NHUẬN MINH, BẰNG VIỆT, TRẦN ĐĂNG KHOA
NGUYỄN ĐỨC MẬU
Cánh rừng nhiều đom đóm bay
Đêm. Đơn vị dừng chân trong sâu hút cánh rừng. Có giếng nước ai đào dưới lòng suối cạn? Múc nước lên, chúng tôi uống trong cơn khát cháy khô vòm họng. Nước ngọt mát râm ran cơ thể cỗi cằn. Chúng tôi biết đâu trong lòng giếng có xác người chết. Đêm mịt mùng, cánh rừng nhiều đom đóm bay, những sợi mỏng chập chờn như ảo giác.
Tôi rời võng, khoác súng vào phiên gác. Khi bước giữa hàng cây tối đen, tôi vấp phải vật gì mềm nhũn, một mùi tanh lườm lượm xông lên. Có lẽ xác một con hoẵng trúng bom? tôi mệt mỏi nghĩ thầm. Hết phiên gác, tôi ngủ vùi trong võng. Đom đóm rơi đầy giấc mơ của lính. Tôi đang ngủ, đang mơ, tôi nào hay bên những gốc cây bầy mối đọc mòn đêm trên những xác người?
Sáng. Tổ anh nuôi múc nước nấu cơm và hoảng hốt nhận ra xác hai cô gái. Tiểu đội tôi sục vào các hốc đá, lùm cây, tìm thấy xác ba chàng trai nữa. Chúng tôi đắp năm ngôi mộ không ngày sinh, ngày mất, không họ tên, không địa chỉ thôn làng. Nhìn những cuộn dây điện, những chiếc máy bộ đàm im lặng. Chúng tôi đoán họ là lính thông tin bị giặc chặn đường.
Chiến tranh lùi xa, con đường mòn Trường Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái giếng nước hòa máu người tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp bằng nỗi đau, nước mắt. Nơi cánh rừng nhiều đom đóm bay.
Người ngồi trước mộ mình
Sau bốn mươi năm báo tử. Ông về
Thấy ảnh mình trên bàn thờ
Thấy ảnh mình trên bia mộ
Có phải ông một thời trai trẻ
Phải ông người trong ảnh ngày xưa?
Bốn mươi năm
Mẹ cha ông lúc xuôi tay nhắm mắt
Mong nằm cạnh con mình
Mộ ông: chiếc tiểu sành không hài cốt
Ông trở về trước mộ cha, cúi mặt
Trước mộ mẹ khấn thầm
Hình hài vẹo xiêu
Tuổi chiều nắng tắt
Nấm mộ ông đắp bằng nước mắt
Hương khói tỏ mờ mỗi đận thanh minh
Trước bia đá cỏ xanh
Người phế binh dại ngây khuôn mặt
Ông nhẩm nhớ những người đã mất
Một con thuyền trong đêm chiến tranh
Bom rơi đặc trời, máu loang mặt nước
Bao người chết. Chết không tìm thấy xác...
Bao người chết. Chỉ mình ông sống sót
Hơn bốn mươi năm ốm đau, lưu lạc
Người phế binh ngồi trước mộ mình
ADN
Những đứa trẻ cùng giờ sinh, ngày sinh
tháng sinh, năm sinh trong bệnh viện
Đêm chiến tranh. Nhà sập, bom rơi
Có đứa bị trao nhầm cho người mẹ khác
Hai mươi năm, ba mươi năm sau
Khi xét nghiệm ADN, mới biết
Đứa bé lớn lên
Bằng giọt sữa, bát cơm, bằng tình thương máu thịt
Nhưng bà mẹ nhận ra
Đứa con không giống mình
Từ khuôn mặt, dáng người, màu da, mái tóc...
Nhiều đêm, cơn mê khác thường, người mẹ không trọn giấc
Ở phòng bên, tắt đèn
Đứa con ngồi nghe tiếng lá khuya rơi.
Người mẹ mong tìm ra đứa con ruột của mình
Đứa con mong tìm ra người mẹ ruột của mình
Bao tin đồn sai lạc
Người mẹ ruột ở đâu? Đứa con ruột ở đâu?
Tìm hoài không thấy được...
Chiến tranh rồi loạn lạc
Hàng triệu mảnh đời máu thịt chia xa
không bao giờ gặp mặt...
Nhiều sự thật như lưỡi dao nhói buốt
Nhiều sự thật mãi mãi ngủ yên
không lời đáp
Nhiều sự thật cao hơn sự thật:
Trong ngôi nhà bình thường ta gặp
Người không cùng dòng huyết, sống nương nhau...
Nỗi đau hằn lên các ngả địa cầu
Trong thế giới quá nhiều bất trắc
Bao kiếp người chìm nổi bể dâu
ADN làm sao thấu được
Cả người sống và người đã chết
Ở chốn trần gian, dưới đất sâu...?
Quanh quanh hồ Thuyền Quang
Hồ Thuyền Quang thuở trước
Một cây si già chừng mấy trăm năm
Chùm rễ thời gian xùm xòa mặt nước
Một nhạc sĩ già chòm râu trắng cước
Ngồi lặng lẽ nhìn hồ
Chén rượu cạn rưng rưng mắt ướt
Nhớ một thời Trường ca sông Lô
Một nhà thơ già ngồi bên cháu nhỏ
Cháu bi bô đủ điều, ông rạo rực chờ nghe
Mây trắng vào mắt ông
Trời xanh tràn mắt cháu
Một đời người thấm thía nỗi xa quê
Người nhạc sĩ già và nhà thơ đã khuất
Hồ Thuyền Quang cây si cũ đâu rồi
Nhiều khi đi quanh hồ tôi chợt gặp
Một dáng ai dựa lưng ghế đá
Giống như Văn Cao – người nhạc sĩ già
Một dáng ai đang thong dong dắt cháu
Giống như Tế Hanh nét cười hồn hậu...
Quanh quanh hồ Thuyền Quang
Dòng người nối nhau vòng quay bận rộn
Thoang thoáng mùi hoa sữa báo mùa sang
Ai xưa cũ đang rẽ vào mây trắng...?
Đêm trăng New York
Xe đi về phía ngoại ô
Xa vùng cao ốc nhấp nhô nhà tầng
Có gì nhẹ nhõm bâng khuâng
Ngang trời New York một vầng trăng lên
Bồng bềnh trăng trôi bình yên
Vẫn là trăng sáng tự miền quê ta
Vẫn mây bay trắng nõn nà
Trăng tan trăng thấm vào da thịt mình
Sông gờn gợn, sóng lung linh
Cây vàng trăng đứng tự tình đong đưa
Đất trời bỗng mộng mơ chưa
Mây bay hay áo ai vừa mới may
Xe vào thành phố. Ô hay
Trăng như con thú bị vây bốn bề
Rú lên một tiếng não nề
Rồi chìm lấp giữa cơn mê phố phường
TRẦN NHUẬN MINH
Mẹ
Mẹ còng lưng vẫn phải gánh gồng
Nước mắt rơi xuống bát cơm vì thương con
Đứa chết ở bên này, đứa chết ở bên kia
Mà ngôi nhà sinh ra hai con vẫn không thay đổi
Không được làm cho mẹ buồn
- Đứa con bên này nói
Không được làm cho mẹ buồn
- Đứa con bên kia nói
Nhưng chúng đều như nhau
để lại nỗi đau cho mẹ
Cho đến lúc mẹ nằm trong quan tài...
Bình Dương 4/2005
Biết gửi cho ai...
Biết gửi nỗi buồn cho ai khi chiều thu tắt rồi
Bóng chiều còn loang trên đỉnh núi xa
Tóc ta bạc, bay lơ phơ trước gió
Mắt ta dường đổ hoa, mắt ta dường đổ hoa...
Nỗi buồn này đâu chỉ của riêng ta
Còn của cây cỏ cuối đông, sông nước đầu hè
Lòng ta rộng, bốn bề đều trống trải
Biết lấy cái gì che, biết lấy cái gì che...
Ta mang nỗi buồn khi bay lên trời chăng?
Nếu cố thì cũng được
Nhưng trên trời còn lắm nỗi buồn hơn, biết chứa vào đâu?...
Sống đã khổ mà chết thì cũng khổ
Giải thoát ư?
Hi vọng ở kiếp sau, hi vọng ở kiếp sau...
Biết gửi cho ai, nỗi buồn thế gian khi chiều thu tắt rồi
Bóng chiều còn vương trên cánh chim xa
Tóc ta bạc bay lơ phơ trước gió
Mắt ta dường đổ hoa, mắt ta dường đổ hoa...
Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh, cuối thu 2016
Nhận biết
Cái Biết nhất đời ta, là ta chả biết gì...
TNM, Vô thức, 2001
Nhắm mắt lại, tôi mới nhìn thấy cái không nhìn thấy
Núi nhảy múa suốt ngày đêm ở chỗ đứng riêng mình
Đàn chim di cư bay trong vòm ngực em
Và Tiên Dung khỏa thân trên điện thờ
Da thịt nàng sáng như mảnh trăng đêm
Bịt tai lại, tôi mới nghe thấy cái không nghe thấy
Tiếng suối chảy róc rách trong một hạt cát
Lời than vãn khôn nguôi của gốc cây non
Những ngôi sao rơi, thét lên trong giông bão
Còn sấm sét thì im lặng đáng sợ
Chẳng nghĩ suy gì, tôi mới biết cái tôi không thể biết
Dưới nước có rất nhiều luồng nước, trên trời càng có lắm tầng trời
Các ngôi sao cũng "đi đêm" với nhau, và những "bí mật"
chỉ nhấp nháy thôi, chứ chẳng bao giờ tiết lộ
Trái đất chỉ là "cái đèn cù", bốn mùa liên tiếp đuổi theo nhau
Làm ơn ở đời này, nhận oán ở đời sau...
2016
Đêm chờ nghe tiếng chuông chùa Hàn San
Vẫn biết chẳng có chùa nào thỉnh chuông lúc nửa đêm
Thành Tô Châu, sương ngang trời, quạnh quẽ
Sông ở ngoài kia, ánh trăng trôi lặng lẽ
Tôi vẫn ngồi chờ nghe một tiếng chuông ngân...
Tiếng chuông vang trong Phong Kiều dạ bạc[1]
Hơn ngàn năm vẫn vọng giữa lòng người
Nửa đêm rồi... tiếng chuông, tiếng chuông xa văng vẳng
Có ai nghe thấy không, hay chỉ một mình tôi?
Trăng xế ngang đầu, lửa chài đã tắt...
Chao ôi tiếng chuông... tiếng chuông diệu kì sao
Tôi thành người của một ngàn năm trước
Bàng hoàng như sống giữa chiêm bao...
Sông nước có linh hồn, cỏ cây xanh sắc lá
Thành Tô Châu bay bảng lảng sắc trời
Vẫn nghe thấy tiếng chuông... ánh trăng như sẫm lại
Có ai nghe thấy không?
Hay chỉ một mình tôi?...
Giang Tô, 1914
Mùa thu đến...
Mùa thu đến thăm tôi và để lại
Dấu chân vu vơ... những chiếc lá vàng
Và nỗi buồn mong manh tinh khiết
Giữa sắc trắng mây trời bay lang thang
Mùa thu ở trong tôi và đánh mất
Mối tình tươi non thuở nảo thuở nào
Em yêu ơi, thôi em đừng thổn thức
Dày vò tôi qua mấy cơi chiêm bao...
Mùa thu bỏ tôi đi và vứt bỏ
Bao mộng mơ cuối gió heo may
Tôi chỉ còn một giọt sương lạnh buốt
Đọng không tan... từ tuổi thơ ngây...
Vĩnh Thanh, 2009
[1] Bài thơ của Trương Kế, đời Đường, viết năm 756:
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài
ở trước người đang buồn ngủ
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San
Tiếng chuông lúc nửa đêm, vẳng đến thuyền khách)
[2] Đức Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), vị vua anh minh và thông tuệ bậc nhất triều Trần, hai lần lãnh đạo toàn dân ta đánh thắng giặc Nguyên – Mông, sau đi tu, sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử , mà Người được tôn vinh là Vị Tổ thứ Nhất. Giai thoại trên đây về việc Người trả lời và giải thích cho các môn đệ về Phật, Pháp, Tăng, đã được chép lại nguyên văn như vậy trong sách của môn phái Trúc Lâm.
[3],2 Đỗ Phủ và Lý Bạch - Hai phong cách thơ rất khác nhau ở đời Đường.
[4] Những nhân vật của thơ Trần Đăng Khoa thuở nhỏ.
[5] Những nhân vật của thơ Trần Đăng Khoa thuở nhỏ.
[6] Câu thơ Trần Nhuận Minh, Hoa cỏ cũng là tên tập thơ của Trần Nhuận Minh
BẰNG VIỆT
Một chút bùi ngùi bên biển
Trống Mái vẫn như xưa
Không ai nói đến lứa đôi bên bờ biển bão...
Những em bé gầy đen đi nhặt cá ven bờ
Tất cả đều dẫm lên những tổ dã tràng và những viên bi vô tận,
Không ai ngạc nhiên trước vẻ đẹp những con sò!
Chúng ta biết quá nhiều điều vô ích
Trong cuộc đời vất vả, vội vàng thôi,
Chúng ta chẳng bao giờ đi vòng quanh Trái đất
Dù đôi khi biết vượt quá chân trời!
... Thôi em chớ trách anh phút này sao lặng lẽ,
Biển dữ dằn mà gió lại vô tâm...
Trống Mái vẫn như xưa! Nhưng có ích gì đâu
những mối tình của đá!
Sóng chưa chạm vào ta mà sóng đã như gầm!...
Sầm Sơn, 1969
Ngẫu nhiên và tất nhiên
Tôi có một con tàu,
Em có một vì sao.
Tôi có một vầng trăng,
Em có ngày nắng ráo.
Tôi có một cơn mưa,
Em có dải rừng xa.
*
Tôi đem vầng trăng khớp lại với trời sao,
Đem cơn mưa đặt trước ngày nắng ráo
Đem con tàu chạy qua rừng hư ảo...
Và bất ngờ, em nói đến Tình Yêu!
1986
Tuổi giữa chừng
Mưa phùn... Đường bấm chân trơn
Đi qua, nhìn lại màn sương khuất rồi,
Tách mình ra một khung trời
Nửa quên gánh nặng, nửa vơi nỗi buồn!
Trái tim chừng đập mau hơn
Nửa như thấm mệt, nửa còn thanh xuân,
Non xa dừng lại, tần ngần
Nửa phần tiếc nuối, nửa phần đam mê!
Chưa lên chót đỉnh, chưa về
Nửa nhìn chưa thỏa, nửa nghe ngậm ngùi!...
1991
Vườn Nhật Bản
Đá và rêu
Cách ta đã bảy trăm năm
Huyền hoặc và ám dụ.
Đá ngồi thiền, thẩm thấu lẽ tử sinh,
Rêu lặng lẽ xuất thế và nhập thế,
Ngỡ nước chảy, mà thực không có nước
Sóng cuội, sóng khô, vô tận, vô cùng...
Thanh tĩnh đến mức nghe được chính mình
Vườn ẩn hiện bất ngờ theo nhịp bước.
Những tham, sân si... đã bỏ quên ngoài cổng
Chút ghen tỵ hóa công cũng rơi nốt dọc đường.
Cỏ hữu hạn xanh veo thành bất tử
Lòng hoàn nguyên rửa sạch với thinh không!.
1997
Rượu của Nguyễn Cao Kỳ
Vị Thiếu tướng Công an cầm chai rượu ra bàn
- "Ông Nguyễn Cao Kỳ mới về gửi tặng".
Mọi người đang vui, gật gù bảo "Uống"
Nhưng một người bảo "Không!".
Vì sao không? Rượu cứ ngon là rượu!
Whisky Mỹ hay vodka Nga, giờ có mặc cảm gì,
Chiến tranh lạnh qua rồi, ba mươi năm sau chống Mỹ
Đây là chén rượu thăm quê
của tướng Nguyễn Cao Kỳ!
Nhưng vẫn có một người không chịu uống!
Vì sao không? Chẳng cố chấp quá ư!
Cậu là lính phòng không, chúng tớ đều
cựu chiến binh cả chứ,
Cũng bom đạn, cũng Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử,
Sống đến hôm nay, đâu còn để hận thù?
Có phải tự đáy lòng không vượt qua mặc cảm?
Không vượt qua nỗi buồn của cuộc chiến tranh xưa?
Không vượt qua chính mình, không vượt qua quá khứ,
Vết thương cũ còn đau khi gió chuyển sang mùa...
Đám đông ồn ào của chúng tôi cứ uống
Anh bạn chỉ ngồi im, cũng chẳng nói thêm gì...
Và bữa rượu, bỗng dưng thành đắng đót
Chẳng phải tại vì ai, kể cả Nguyễn Cao Kỳ!
2007
Đệ nhất tổ phái Trúc Lâm giảng thiền[2]
Một vị tăng hỏi bậc chân tu: "Bạch Thầy,
thế nào là Phật?"
Người đáp: "Chấp theo lối cũ là không đúng!"
Lại hỏi: "Thế nào là Pháp?"
Người đáp: "Chấp theo lối cũ là không đúng!"
Hỏi tiếp: "Vậy thế nào là Tăng?"
Người phủi tay, cười: "Chấp theo lối cũ
là không đúng ! ".
*
Bảy trăm năm sau, tôi hành hương lên Yên Tử
Đêm - nằm mơ thấy Phật.
Nhớ chuyện xưa, bèn hỏi: "Bạch Thầy, việc đời
thế nào là đúng?"
Người ngậm ngùi: "Chấp theo lối cũ là không đúng!"
Lại hỏi: "Thế nào là hạnh phúc trần ai?"
Người bèn cười to: "Chấp theo lối cũ là không đúng!"
Hỏi tiếp: "Vậy thế nào là Thơ?"
Người lại phủi tay: "Chấp theo lối cũ
là không đúng! ".
2008
TRẦN ĐĂNG KHOA
Qua Bôrôđinô*
Trời lặng lẽ yên bình
Mưa tuyết bay lất phất
Người thắng với kẻ thua
Giờ đều thành bụi đất
Bóng quạ chao nhao nhác
Trên chiến trường năm nao
Hoàng hôn rờn rợn cháy
Sắc lửa thời binh đao
Đâu khói đạn chiến hào
Rừng bạch dương xao xác
Sắc trời huyền diệu Nga
Chụp xuống tàn quân Pháp
Những nỗi niềm khao khát
Bay mờ chiều tuyết giăng
Hay hồn người chết trận
Còn hiện về đây chăng?
Tuyết vẫn rơi không tiếng
Trắng muốt dưới gót giầy
Như chẳng hề có máu
Chảy đầm đìa nơi đây
Bao vinh quang muôn thuở
Bao máu xương một thời
Giờ thành trò tiêu khiển
Cho bầy trẻ con chơi...
1989
Đêm trắng
Tặng bạn bè xa xứ
Đêm trắng lạnh, có một người không ngủ
Nhớ quê hương mà chẳng thể trở về
Ngoài cửa sổ cây bạch dương biết thế
Trổ lên trời xanh biếc đoá trăng quê...
1992
Với bạn
Tặng bạn Văn
Nào ta cạn chén đi anh
Đời người mấy chốc mà thành cỏ hoa
Biết bao thành luỹ quanh ta
Nhắp đi, ngoảnh lại đã là khói sương
Nói gì đến chuyện văn chương
Cánh chim trong bão. Con đường không ga...
Cái thời ríu rít đã qua
Ngày mai còn lại biết là mấy ai?
Nhấp nhô toàn những thiên tài
Cuối cùng thơ vẫn ở ngoài tầm tay
Giữ gìn những gió cùng mây
Đã là mây gió thì bay về trời
Viết sao cho hết niềm người
Uống sao cho cạn nỗi đời đắng cay
Thì thôi còn một chén này
Rồi ra mỗi đứa lưu đày mỗi phương...
Matxcơva 2.1992
Gửi bác Trần Nhuận Minh
Bỏ làng ra thành phố
Hai anh em thợ cày
Thân cũng như hoa cỏ
Hồn gửi vào gió mây
Người bảo bác theo Đỗ[3]
Em phải học Lý2 thôi
Bác đã bay dưới đất
Em đành đi trên giời
Bác âm thầm chìm nổi
Cùng kiếp người lang thang
Em lông nhông bầu bạn
Với kiến đen chó vàng[4]
Bao nhiêu là giun dế[5]
Đã khiêng vác em lên
Tên tuổi em xủng xoảng
Những mõ ran trống rền...
Bác làm bông lau ngàn
Thả hồn vào hoang vắng
Khi buồn thì hát ca
Lúc vui thì im lặng
Em quẩy bầu trăng gió
Bác gánh bao nỗi người
Sóng đôi mà đơn độc
Đi mang mang trong đời[6]
Giờ thì em đã chán
Những vinh quang hão huyền
Muốn làm làn mây trắng
Bay cho chiều bình yên
Trả niềm vui cho cỏ
Trả nỗi buồn cho cây
Lại áo tơi nón lá
Ta về với luống cày
Đất trời thì chật hẹp
Làng quê thì mênh mông
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng...
1998
Đến Vác-na nhớ Na-dim Hít-mét
Tôi đứng bên này Hắc Hải
Bên kia là xứ sở Người
Na-dim Hít-mét ơi
Đất quê nhà, Người thương nhớ khôn nguôi
Vẫn khuất mù. Chỉ nước trời thăm thẳm
Đi đày là một nghề gay lắm
Mảnh đất xưa, nơi Người đứng gọi con
Người chỉ nghe tiếng Người vọng lại
Giờ xập xòe những ô xanh, ô trắng
Bao người cha dắt con ra bãi tắm
Tiếng họ cười vang
Hắc Hải trôi qua và chẳng hề ngừng
Phiến đá xưa, Người đứng nhớ quê hương
Tôi ngồi chơi với đàn chim biển
Những con sóng còn đây
Đã chia với Người nỗi đau biệt xứ
Đã hiểu cả những niềm tâm sự
Người chưa kịp nói thành lời
Tôi quỳ xuống, vội sờ vào mặt sóng
Để nhận ra Người
Na-dim Hít-mét ơi...
Tôi muốn được làm một con sóng nhỏ
Vỗ sang bờ bên kia
Khẽ chồm lên chân thềm đá nhà Người
Căn nhà ở Xtăm-bun
Con voi gỗ vẫn ôm Mơ-mét ngủ
Và nhà tù. Tuyết suốt đêm rơi...
Ơi mảnh đất cách chia
Mãi đến lúc chết rồi, Người mới được gặp lại
Cũng không phải Người đâu, chỉ là một con tàu
Con tàu mang tên Na-dim khẽ cọ mạn vào đất quê hương xứ sở
Nghe nỗi sầu muôn đời thành sóng, vỗ trái tim đau
Hắc Hải trôi qua và chẳng hề ngừng
Nhớ Na-dim, tôi lại về Hắc Hải
Tôi đi dưới vòm xanh, mênh mông nắng trải
Thấy nỗi đau xưa của Na-dim dường như vẫn chưa tan
Khắp thế gian này
Bao quê hương còn cách chia, bao cha con còn cách trở
Nên tiếng Người gọi con mãi mãi còn vang
- Mơ-mét ơi! Mơ-mét
Mơ-mét ơi!
Mơ-mét...
.