Tác phẩm đạt giải tiểu thuyết lần thứ IV: “Đốt trúc” của Nguyễn Đắc Như
Tác phẩm đạt giải tiểu thuyết “Đốt trúc” của Nguyễn Đắc Như
PHẦN THỨ HAI:
HUỲNH MINH CƯỜNG
13. Một ngày ở làng
Nghe tiếng đập cổng thình thình ông Nguyên mới choàng tỉnh dậy. Với tay cầm chùm chìa khóa treo tường ông chạy vội ra ngoài. Ánh nắng buổi sớm mai chiếu vào cánh cổng sắt hắt lên khuôn mặt rạng rỡ của cậu bé Thật. Ngay từ xa ông đã nói cười rổn rảng như có ý thanh minh:
- Cả đêm qua không thể nào ngủ được, mãi tới gần sáng mới chợp được một lúc, làm cậu phải đợi lâu quá!
Thật nói vọng vào:
- Mẹ cháu bảo sang dẫn ông đi ra quỹ tín dụng rồi đi chợ sắm Tết.
- Bà với cậu chu đáo quá, mời cậu vào đây một tí rồi ta cùng đi.
Vào nhà, ông Nguyên kiễng chân với chiếc bánh chưng trên ban thờ xuống đưa cho Thật:
- Nhờ cậu khéo tay bóc giúp chứ tôi bây giờ thì chịu, tay cẳng nó cứ như tay lá han ấy, sờ đâu hỏng đấy, chán thế đấy cậu ạ. Cậu biết không, gần hai chục năm nay tôi chưa biết mùi vị bánh chưng nó ra làm sao, giờ được thụ lộc cùng với cậu, thật may mắn cho tôi quá!
Trong khi ông Nguyên còn đang rửa mặt mũi chân tay dưới bếp, thì trên này chỉ một nhoáng Thật đã bóc xong chiếc bánh. Chiếc bánh chưng cỡ đại được những sợi lạt tước mảnh như chỉ tơ cắt thành tám miếng đều tăm tắp, khiến cho tấm bánh nằm ngay ngắn trên chiếc đĩa nhỏ, bốn góc chờm cả ra ngoài mà vẫn vuông như mới được bóc ra.
Vừa ăn bánh ông Nguyên vừa bắt chuyện:
- Năm nay bố mẹ cậu gói chắc nhiều bánh chưng lắm?
- Mẹ cháu bảo Tết này là Tết hoà bình thống nhất, Tết đại thắng bố ở chiến trường ra nên phải ăn một cái Tết thật to. Riêng gạo nếp gói bánh mẹ đong đã ba yến.
- Ba yến! Thế thì được bao nhiêu chiếc?
- Bánh cỡ đại như cái này thì phải bốn lạng gạo một chiếc, nhỡ nhỡ như nhà cháu thì một cân ba chiếc. Ba yến là chín chục ông ạ.
Ông Nguyên tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Ba yến gạo nếp, lại còn đỗ, lại còn thịt, chưa kể những thứ khác, chỉ nội một nồi bánh chưng đã biết là Tết to lắm rồi!
Thật kể thêm:
- Nhà cháu cũng bình thường thôi, chỉ đụng có nửa lợn. Nhiều nhà trong làng con cái đi bộ đội trở về đông đủ họ còn chiến cả con cỡ một tạ ấy chứ!
- Thế thì vui phải biết cậu Thật nhỉ?
Nét mặt của Thật bỗng ỉu xìu hẳn xuống:
- Nhưng cháu biết nhiều nhà năm nay lại không ăn Tết.
- Sao lại có chuyện như thế?
- Đấy là những nhà có giấy báo tử ông ạ, riêng trong xóm nhà cháu đã hơn chục nhà rồi. Có nhà một giấy, có nhà như nhà bà Hân đầu năm một giấy báo ông Hân chết giữa năm hai giấy báo anh Chiến và Thắng hy sinh. Bà Hân bảo với mẹ cháu chẳng có lòng dạ nào mà tết với nhất!
Từ đấy cho đến lúc hai người bước chân ra khỏi cổng trường, ông Nguyên không dám gợi thêm chuyện gì nữa.
Thật dẫn ông Nguyên ra đến quỹ tín dụng thì vẫn chưa thấy mở cửa, trong khi đó người từ khắp mọi nẻo đường đổ về chợ cứ nườm nượp như đi trẩy hội. Thật bảo giờ hai ông cháu cứ đi mua sắm một vòng rồi quay về quỹ tín dụng cũng vẫn kịp.
Những năm trước khi đi tù, tiếng là sống độc thân nhưng có người giúp việc nấu nướng giặt giũ, nên có mấy khi ông Nguyên bước chân đến chợ, nhất là chợ quê như thế này thì đây đúng là lần đầu tiên trong đời.
Con đường đất rộng vắt ngang mặt đê xoài về hướng cánh bãi rộng mênh mông ven dòng sông Vải. Đình Sòi nằm trên dải đất một mặt giáp chân đê, một mặt giáp con đường đất. Tiếng là ngoài đê nhưng đình xây dựng rất bề thế, khoáng đạt và thật thuận tiện cho việc hành lễ mỗi khi hội hè đình đám.
Từ mặt đê bước dọc xuôi con đường, điều đập vào mắt gây nên sự chú ý đầu tiên với ông Nguyên là bức tường bao ngôi đình. Bức tường chỉ cao một đầu một với chạy suốt mặt tiền phải già trăm mét, tất cả đều đã được quét vôi trắng sáng từ đỉnh tới chân. Trên mặt tường được vẽ kẻ la liệt những bức tranh hoặc khẩu hiệu với đủ mọi chủ đề. Mé phải cổng chính dẫn vào đình là khẩu hiệu: “Mừng Đảng mừng xuân mừng non sông thu về một mối”, chữ to khỏe tô sơn đỏ rực rỡ có đóng khung cẩn thận. Mé bên trái cổng là bức tranh vẽ bằng sơn đủ màu sắc tươi rói cảnh một chiếc xe tăng cắm cờ đỏ xanh sao vàng đang húc đổ chiếc cổng sắt to tướng của một toà nhà lớn, phía dưới là hàng chữ: “11 giờ 30 ngày 30-4-1975 giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước”. Nhìn bức tranh, nhớ lại lời Cường tối qua ông Nguyên cũng đoán được ra vài phần, nhưng thấy chiếc xe tăng cắm chiếc cờ lạ thì ông chịu không hiểu nổi mới đành phải hỏi:
- Chiếc xe tăng nào mà lại có cái cờ lạ thế này cậu Thật?
Thật không hiểu sao một người già đến thế này mà lại đi hỏi một câu buồn cười là vậy, nên cậu chỉ trả lời qua loa:
- Xe tăng quân giải phóng miền Nam đấy!
Nghe cậu bé giải thích ông Nguyên bỗng nhiên lẩm bẩm những câu như là tự mình nói chuyện với mình:
- Quân giải phóng… xe tăng… cờ đỏ xanh sao vàng… đúng là giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước thật rồi!
Ông đứng lặng hồi lâu trước bức tranh cổ động để cho hai tâm trạng đối ngược nhau lại cùng lúc ùa vào trí não, cái tâm trạng về niềm hân hoan chiến thắng sau cuộc trường chinh vạn dặm của dân tộc và nỗi ai oán riêng mình bị loại khỏi đội ngũ những người tới đích, mà suốt cả đêm qua chúng đã bao phen giằng xé trái tim ông. Tâm trí ông lúc này lại một lần chơi vơi giữa dòng suy tưởng, thì ra công lao của một cá nhân như mình liệu có đáng là một hạt cát trước những chiến công kỳ vĩ nghìn đời của dân tộc hôm nay? Nghĩ về nỗi oan khiên của riêng mình ông tự an ủi, tự cổ chí kim, từ Đông sang Tây bao giờ cũng vậy, trong những nhịp bước đi lên phía trước của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, sự oan khuất thua thiệt của không ít con người trung liệt cũng lại là những chuyện chẳng hiếm hoi gì. Thời gian rồi cứ thế trôi đi, tháng năm sẽ trở thành cũ kỹ, cả lịch sử cũng dần trở thành cũ kỹ khi bụi thời gian ngày một phủ kín lớp tầng. Các thế hệ hậu sinh vọng về quá khứ thường nhìn qua những trang sử chiến thắng lẫy lừng do những người chiến thắng viết nên. Lịch sử thường có khuynh hướng say sưa cất giấu vào lòng mình những vinh quang chiến trận, giống như con người thường mê mải tích cóp vàng bạc châu báu để truyền lại cho hậu duệ tương lai. Và do vậy lịch sử cũng dễ thỏa hiệp và chấp nhận một triết luận cho rằng: Chiến thắng là tất cả, chiến thắng biện minh cho tất cả việc làm trước đó của những người thắng cuộc…
Nếu như không có sự nhắc nhở của Thật, chắc ông Nguyên dễ trở thành bức tượng hóa đá trước mảng tường này.
Tiếp theo bức tranh xe tăng là đến các bức tranh cổ động Công Nông Binh, tranh VAC Vườn Ao Chuồng, bảng thống kê hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất năm 1975 của 8 đội sản xuất trong toàn hợp tác xã Song Yên… Rồi các khẩu hiệu “Toàn Đảng toàn dân Song Yên quyết tâm hoàn thành vượt mức toàn diện kế hoạch sản xuất năm 1975 ”, khẩu hiệu: “Vì miền Nam ruột thịt, Song Yên thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người ”…
Chỉ mất mươi phút đi dọc cổng đình ông Nguyên đã nhận ra cái bức tường này nó mới thật giống với một trung tâm thông tin tuyên truyền, mà ý tưởng ban đầu của những người lập ra những trung tâm như thế là làm sao chỉ với những hình ảnh, lời văn và khẩu hiệu ngắn gọn đơn giản nhất, cũng có thể mang đến cho mọi người dân những thông tin thời sự căn bản, cũng như cái hơi thở nóng hổi của đời sống chính trị xã hội đương thời. Nghĩ đến đây ông bỗng thấy chạnh lòng xao xuyến khi nhớ lại cũng khoảng thời điểm này đúng 30 năm trước, với cương vị Thứ trưởng phụ trách công tác Thông tin tuyên truyền của Lâm thời Chính phủ Cách mạng, ông đã hướng dẫn chỉ đạo các địa phương trong toàn quốc những điều như thế, để mãi đến hôm nay sau một cung đường dài quá nửa đời người, ông mới có cơ may được trông thấy nó, nhận ra nó, cái sản phẩm tinh thần của mình, hiện hữu ở một nơi được gọi là xa xôi nhất, nhưng lại là gần với người dân nhất!
Đi hết bức tường bao đình làng, con đường từ đây biến thành con phố kéo dài tới cả trăm mét mà hai bên đã mọc lên hai dẫy cửa hiệu lúp xúp bán đủ trăm thứ bà giằn. Hết dãy phố làng là đến chợ làng.
Vẫn là con đường đất ấy, nhưng hai vệ đường lúc này đã mọc lên hai hàng lều quán cao thấp, rộng hẹp nghiêng ngả đủ kiểu. Không biết ngày dưng thì thế nào chứ hôm nay phiên chợ giáp Tết, nó lại đông vui náo nhiệt giống như một ngày hội chợ thì đúng hơn. Lúc này mới khoảng 8 giờ sáng mà không gian đã ồn ã một thứ âm thanh vang vọng trùm lấp khác biệt, không biết tả như thế nào cho người khác hình dung, mà chỉ có thể duy danh định nghĩa đó là kiểu âm thanh chợ làng. Tất cả các lều quán đã thấy người bán kẻ mua ngồi kín hết cả. Thoạt đầu là các quán hàng ăn uống, mới tạt qua bên ngoài đã thấy mùi thơm nấu nướng ngạt ngào bay ra. Tiếp đến là khu hàng xanh hàng xáo gạo ngô cám bã, từng thúng từng thúng đầy có ngọn, trắng như tuyết, vàng như tơ bầy san sát ra tận mép đường. Kế đến là khu bán hoa quả, gấc đỏ, bưởi vàng, chuối xanh, cà tím, rồi cành đào phai, cành mận trắng… sắc màu tươi rói như một vườn cây quả được trồng ngay giữa chợ. Bên cạnh khu hoa quả là khu tranh ảnh Tết, những bức tranh gà lợn Đông Hồ, tranh Hàng Trống Lý Ngư vọng nguyệt, tranh Ngũ Hổ… được xếp cạnh những bức ảnh bộ đội ta tiến quân vào giải phóng Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… Rồi tiếp nữa là khu bán con giống con má, lợn gà ngan ngỗng chó mèo, mỗi con mỗi giọng trầm bổng như một khúc hát nhiều bè đón mùa xuân sang…
Cứ thế, cứ thế, ông Nguyên đã đi qua tất cả các khu mua bán của đủ các ngành hàng khác nhau, cố len lỏi để bắt kịp thằng cháu Thật giữa đám đông kẻ ngược người xuôi. Trên đường đi, cứ thỉnh thoảng lại có một người nào đấy, có khi là đàn ông, có khi là đàn bà, họ vẫn cứ mải mốt bước những bước đi vội vã nhưng vẫn kịp hỏi Thật một câu rõ to, đại loại: “Cháu Thật đi chợ đấy à, thế bà giáo đâu?”. Và Thật cũng cứ một kiểu vừa đi vừa trả lời, đại thể: “mẹ cháu đang gói bánh ở nhà!”. Rồi ai lại đường nấy! Người đi chợ xung quanh cũng thế, chào nhau hỏi nhau cứ râm ran nhưng cấm thấy ai dừng lại bao giờ, tất cả cứ nhoang nhoáng, linh động, trôi chẩy như một dòng nước vậy. Ông Nguyên lần đầu tiên trong đời được hoà mình trong cái dòng người chuyển động đầy âm thanh, màu sắc và hương sắc đồng quê ấy, lại trong một buổi sáng đẹp trời sửa soạn đón mùa xuân sang như sáng nay, lòng dạ ông bỗng thấy rộn ràng phơi phới lạ thường, và ông cứ mải miết đi, mải miết mơ màng và thưởng ngoạn. Cho đến đoạn cuối cùng là khu giết mổ gia cầm gia súc và bán các loại thực phẩm tươi sống, thấy ông Nguyên chỉ cứ luôn mồm xuýt xoa khen hết thứ này sang thứ khác mà chẳng mua gì, Thật mới có ý giục giã:
- Mẹ cháu dặn là ông mua gì thì đưa cháu cầm đỡ cho không rồi lại lúng túng rơi hết dọc đường.
Ông Nguyên như chợt nhớ ra công việc của mình sáng nay mới ngơ ngác hỏi lại:
- Cậu nói phải đấy, nhưng mà ta biết mua gì bây
giờ nhỉ?
- Mẹ cháu dặn là phải mua mấy ca gạo, chai nước mắm, muối, liễn sành muối dưa, ít bát đĩa môi thìa, nồi đất kho cá, một cân thịt lợn về nấu đông ăn Tết, rồi ít rau xu hào bắp cải với ít dưa cải về muối ăn dần... Ngoài ra ông thấy cần gì thì mua thêm.
- Nhiều thế thì mang làm sao cho hết?
- Thế cho nên phải mua thêm mấy cái rổ rá vừa để rửa rau vo gạo vừa để làm quang treo úp bát đĩa và cất đồ ăn thức uống thay cho cái chạn. Lấy rổ rá ấy mà đi chợ thì tha hồ đựng ông ạ!
- Đúng là không có bà với cậu thì tôi đành chịu chết. Bà với cậu đúng là con cháu ông Bụt trong truyện Tấm Cám xuống giúp tôi đây, phúc đức cho tôi quá!
Theo cách thức hướng dẫn lựa chọn phẩm chất, mặc cả giá mua của Thật, trong vòng nửa tiếng đồng hồ hai ông cháu đã mỗi người một cắp hàng nặng đem về. Ngoài những thứ Thật chọn, ông Nguyên còn mua thêm mấy bức ảnh bộ đội, một phong pháo Tết, hai hộp mứt với mấy gói chè.
Trên đường quay về, lúc đi qua một cửa hàng trên dãy phố ban nãy ông mới đi chậm lại khi thấy từ trong nhà phát ra tiếng hát rất êm ái du dương, nghe thoáng một cái là ông nhận ra ngay đó là loại ca nhạc từ thời trước chiến tranh mà hồi trong tù Toản Trương Chi vẫn hay hát. Ngạc nhiên thoáng chút hoang mang ông mới hỏi Thật:
- Ở đây người ta mở đài địch to thế mà không ai nói gì hả cậu Thật?
- Ông nói đài địch nào cơ?
- Đấy, đài đang hát bài Thuyền viễn xứ của Phạm Duy đấy thôi!
Thật càng lúc càng tỏ vẻ ngạc nhiên về ông lão:
- Làm gì có đài địch nào ở đây hả ông, là máy catxet đấy ông ạ!
Hai người, một già một trẻ cứ thay nhau đẩy sự ngạc nhiên của mình lên một cách khác nhau. Đến đây quả là sự ngạc nhiên ở ông Nguyên đã lên đến đỉnh điểm và nó thể hiện ra mỗi lúc mỗi rõ rệt trên khuôn mặt cũng như trong giọng nói:
- Máy catxet là gì hả cậu?
- Là cái đài bán dẫn t’răngsito có hai phần, phần nghe đài và phần nghe ca nhạc. Kia kìa ông thấy chưa, nó như cái cục gạch nằm trên mặt tủ chè đấy.
Ông Nguyên nhìn theo tay chỉ của Thật để được mục sở thị cái sản phẩm của một nền văn minh mà lúc này ông đang choáng ngợp và không thể tưởng tượng ra nổi. Biết là mình đang tỏ ra quá lố vì đã làm phiền cậu bé, nhưng ông không thể kìm lòng nổi:
- Thế còn đài bán dẫn t’răngsito là cái gì cơ cậu Thật?
- Ông hỏi thế thì cháu cũng chịu. Ông chỉ cần biết đài bán dẫn là để nghe đài, nghe đủ các loại, đài ta đài địch, đài Liên Xô đài Trung Quốc, kể cả đài Mỹ đài Anh… nghe được tất; còn catxet là để nghe ca nhạc, nhạc tây nhạc ta, nhạc vàng nhạc đỏ… cũng nghe được hết, chỉ cần cho băng catxet vào là xong!
Trong thâm tâm ông Nguyên còn định hỏi tiếp vài câu, nhưng tự thấy cái kiến thức của mình nay đã quá cũ kỹ, lạc lõng nên không dám, ông chỉ gật gù để tỏ ra là mình đã vỡ vạc được ra đôi điều, bất giác ông mới buột miệng thành ra điều tự sự:
- Cuộc đời tưởng ngắn hóa ra thật dài, có những khoảnh khắc một ngày bằng cả hai mươi năm!
Hai ông cháu quay về đến quỹ tín dụng thì đã thấy lác đác người ra kẻ vào. Ông Nguyên tiến đến quầy làm thủ tục gửi tiền, cô nhân viên hỏi chứng minh thư để làm thẻ thì ông mới nhớ là mình chẳng có một thứ giấy tờ gì trong người. Lúc ra tù có tờ quyết định thì xã đã giữ. Ông đang còn chưa biết trả lời thế nào thì Thật đứng bên cạnh nói đỡ:
- Chị Mận ơi, ông Nguyên làm ở chỗ mẹ em đấy, chị cứ cho ông ấy gửi, mẹ em bận ở nhà bảo em dẫn ông ra nhờ các chị.
- Ở trường sao chị không biết nhỉ? Mà chị cũng hỏi thế thôi cho đúng nguyên tắc, chứ mẹ Thà đã có lời rồi thì chẳng có thứ giấy tờ nào bảo đảm cho bằng!
Cô Mận quay sang hỏi ông Nguyên định gửi bao nhiêu. Trước đấy ông đã nhẩm tính trong óc, có hai trăm tư cả thảy, hôm qua cho Cường bốn chục còn lại tròn hai trăm, từ sáng đến giờ sắm Tết mất khoảng mười đồng, còn lại cứ cho là trăm chín, nay gửi trăm rưởi, giữ lại bốn chục để dùng vào việc thường nhật hoặc đột xuất. Ông nói nhỏ với cô Mận:
- Cô cho tôi gửi trăm rưởi.
Cô gái tròn mắt nhìn ông sợ là mình nghe nhầm:
- Ông bảo bao nhiêu cơ?
- Tôi gửi trăm rưởi, có được không cô?
Cô gái nhìn ông đầy vẻ nể nang:
- Vâng, được quá đi chứ ạ! Bây giờ ông cho biết tên tuổi, còn địa chỉ cháu cứ lấy tên Trường cấp II Song Yên được không? Thế thời hạn ông định gửi bao lâu?
- Vâng cô cứ ghi Trường Song Yên cho tiện, còn tên tôi là Hoàng Hữu Nguyên, sinh năm 1919, 57 tuổi. Thời hạn gửi cô cứ cho loại một năm.
- Một năm lãi suất 12%, tức mỗi tháng 1%. Như thế là ông được đồng rưỡi lãi mỗi tháng.
Cô gái vào sổ, viết thẻ, thu tiền rồi trao tấm thẻ gập đôi cho ông Nguyên. Lúc ra đến cửa, ông còn nghe tiếng cô Mận nói nhỏ với cô nhân viên bên cạnh: “Trông thế mà lại là cóc vàng đấy mày ạ!”.
Về đến trường Thật chỉ kịp đặt rổ hàng Tết lên giường là nói với ông Nguyên mình phải về nhà ngay, ông Nguyên bảo:
- Vâng cậu về giúp mẹ kẻo bà lại đợi. Cảm ơn cậu đã mất cả buổi với tôi. Cho tôi gửi lời cảm ơn ông bà ở nhà nhé. Tiện đây cậu đem hộp mứt với hai gói chè này về đưa bà giúp tôi, bảo với bà đây không phải quà biếu, mà chỉ là chút lòng thành của tôi nhờ bà thắp hương thần linh chứng giám cho.
Thật chối từ nhất định không nhận, cậu bảo nhận về mẹ mắng chết. Ông Nguyên thì lại cố giúi vào tay Thật mà rằng cậu không nhận giúp thì tí nữa tôi lại phải tự đem đến thì bất tiện lắm. Kẻ đưa người đẩy giằng co mãi, cuối cùng Thật đành miễn cưỡng cầm gói quà đã được bọc kín giấy báo. Tiếp đấy ông Nguyên lại lấy từ trong hòm đồ đạc ra một chục đũa ăn đưa cho Thật:
- Còn đây mới là quà biếu cậu Thật ạ. Thưa giúp với bà là tôi có chục đũa tự vót từ loại hóp đá trên núi, cứng như thép mà mịn như mun, xin được biếu gia đình để tỏ lòng biết ơn sâu nặng. Cậu vui lòng nhận và nhớ thưa như thế giúp tôi nhé cậu!
Ông Nguyên đưa Thật ra cổng rồi quay lại nhà. Việc đầu tiên là dỡ hai rổ hàng Tết ra, mới chỉ sơ sơ như thế mà đã thấy ngổn ngang khắp nhà. Đúng là không có mấy cái quang treo này thì không biết xoay xở thế nào cho gọn. Nghĩ về cái sự nhanh chóng và ổn định nơi ăn chốn ở chỉ sau chưa đầy một ngày mà mình được hưởng, càng lúc ông càng nhận ra cái công ơn nghĩa cử sâu nặng của hai mẹ con cô giáo, và rồi ông tự nhủ lòng, giá như cuộc đời có lúc nào đó được mở mày mở mặt, những người mà ta nghĩ đến đầu tiên để được đáp đền chút ân tình tri ngộ, thì chẳng phải ai khác mà trước hết sẽ là hai mẹ con cô giáo! Lúc này ông Nguyên đang chú tâm vào công việc bếp núc rau thịt mắm muối, những việc mà lần đầu trong đời ông mới có dịp trực tiếp mó tay. Không thể nói đấy là những việc dễ dàng! Muốn thái thịt để nấu nồi thịt đông như cách hướng dẫn của Thật thì lại không có thớt với dao. Muốn đun nồi nước pha ấm trà mà không có củi thì đun bằng gì? Lại nữa, có ít thịt mà không có tí hành hoa cho vào thì có phí đi không… Nghĩ thế nên sau khi sắp xếp qua loa, rau dưa cho vào rổ, cân thịt cho vào cái liễn sành treo lên cao, ông Nguyên lại vội vã quay ra chợ.
Chợ lúc này đã vãn lắm rồi. Người đến lác đác chỉ thi thoảng mới thấy một vài, còn người ra về thì lại gồng gánh nườm nượp như khi họ dồn về đây lúc đầu giờ buổi sớm. Ông Nguyên tỏ ra thành thạo khi nhớ lại cái cung cách mua bán của Thật lúc nãy, nên chỉ một loáng là đã mua đủ cả dao thớt, mấy cái rế nồi, cái chổi tre, mớ hành hoa. Còn củi thì tìm khắp chợ tịnh không thấy hàng nào, đành phải về tìm nhặt cành bàng khô sân trường vậy.
Khi về qua cửa gian nhà có cái máy catxet ban sáng, vẫn thấy tiếng hát từ trong vọng ra. Chợ lúc này đã vắng, cái âm thanh đặc hữu chợ làng đã lắng xuống đến độ đã có thể nghe rõ tiếng nói của từng người gọi nhau, nên tiếng máy hát càng có vẻ to hơn, rõ nét hơn. Như có một sức hút vô hình giữ chân, ông Nguyên dừng lại bên kia đường như tỏ ra đang đợi chờ ai, nhưng thực ra là ông đang cố sức lắng nghe không sót một lời các bài hát từ bên ấy vọng sang. Có lúc ông thầm nghĩ, cái máy chỉ bé bằng hòn gạch lục mà hát được rất nhiều bài, âm thanh lại trầm ấm, đã thế máy lại còn nghe được cả các đài nữa, hiện đại thế chắc phải đắt tiền lắm. Rồi ông ước giá như mình có được một cái như thế thì đời chẳng còn mong gì hơn nữa! Ông hình dung nó sẽ là một cánh cửa lớn mở ra cho mình hoà nhập với cuộc sống bên ngoài mà 15 năm qua mình phải sống cách biệt! Từ bên này nhìn sang thỉnh thoảng lại thấy có người ra người vào, dáng điệu có vẻ như khách hàng ghé qua mua bán gì đó. Nếu vậy thì đấy hẳn phải là một cửa hàng, đã thế ta sẽ đóng vai khách hàng vào thử xem sao.
Nghĩ sao làm vậy, ông mạnh dạn bước vào nhà. Một anh thanh niên hỏi ông cần gì? Đã đến nước này thì không thể chần chừ, ông bảo muốn mua một cái máy catxet nhưng lại có thể nghe được nhiều đài. Người thanh niên mời ông ngồi ghế rót nước rồi hỏi ông cần loại nào, “Na ti ô na Panaxônic, Sôny hay Ai oa?”. Ông bảo loại nào cũng được miễn là bền và giá phải chăng. Anh ta đứng dậy với tay lấy luôn chiếc máy đang hát trên mặt tủ chè mà ông đã thấy và cứ mê mẩn từ sáng đến giờ, đưa cho ông Nguyên anh ta bảo:
- Thế thì ông lấy luôn con Sôny này này, vừa bền vừa rẻ, hết ý đấy!
Anh vừa bấm máy tanh tách vừa giới thiệu:
- Con Sôny này là loại nồi đồng cối đá nhất trong dòng ghi âm catxet, có đầy đủ các chức năng nghe nhạc, ghi âm, nghe đài. Có ôtô ri vơp. Đây nhé ông xem, băng catxet đang hát, hết bài lại tự động quay sang bài đầu mặt sau, cứ thế nó hát cả đêm như ru ngủ, tuổi già như ông thì mới gọi là hết sẩy! Lại có phím hẹn giờ, có phím chọn bài. Thí dụ ông thích nghe bài Nắng Thủy Tinh trong băng Sơn Ca 7 của Trịnh Công Sơn do Khánh Ly hát, thì đây, ông đọc trên mặt đĩa, Nắng Thủy Tinh… Nắng Thủy Tinh… đây rồi số 15, ông bấm số 15 trên bàn phím, rồi bấm PLÂY, thấy chưa…
Chiếc máy đang hát một bài khác bỗng nhẩy đánh tách để chuyển sang bài số 15: “Màu nắng hay là màu mắt em, mùa thu mưa bay cho tay mềm…”, giai điệu bài hát êm đềm quá, giọng hát ngọt ngào như mật rót. Ông Nguyên ngồi ngây ra như bị thôi miên, hai cánh tay nổi sởn da gà.
Anh chàng vẫn tiếp tục:
- Ghi âm thì miễn chê, bắt cực nhậy và thật tiếng, ngồi xa ba mét nói nhỏ cũng bắt được hết. Về phần nghe đài thì không còn gì để nói, ngoài băng sóng FM nghe ca nhạc suốt ngày đêm thì ba băng sóng dài sóng trung sóng ngắn ông có thể nghe được tất cả các đài trên thế giới 24 trên 24 giờ, mệt nghỉ. Đây nhé, thí dụ ông thích nghe đài Bắc Kinh tiếng Việt để xem họ đi với Mỹ và chửi Liên Xô như thế nào, thì đây… thấy chưa. Còn nếu ông thích xem Liên Xô đang làm gì để một mình chống lại kẻ thù cả hai phía, cũ là Mỹ và phương Tây, mới là Trung Quốc, thì ông mở đài Mát xì cơ va tiếng Việt… đấy, đấy, nghe giọng nói phát thanh viên là biết ngay. Còn nếu thích nghe thằng Mỹ đang tìm cách lấy lại danh dự bằng cách chửi Việt Nam như thế nào sau khi đại bại ở miền Nam, thì ông mở đài Hoa Kỳ là thấy ngay…
Sau những phút giây mộng du trên làn sóng điện của tay phù thủy trẻ, ông Nguyên bỗng choàng tỉnh như người nhập đồng vừa được nói chuyện với vong hồn trở về, khi bỗng nghe thấy tiếng nói to như tiếng quát của cô đồng:
- Bố thấy chưa, đa chức năng, miễn góp ý nhé!
Ông Nguyên tuy đã tĩnh trí trở lại nhưng vẫn tỏ ra chưa hết mê man khi trí nhớ lại đưa ông trở về với cái thời trước khi đi tù. Miền Bắc lúc đó đang có phong trào chơi đài Galen. Một cái tai nghe cuốn dây điện quanh cục nam châm, màng mỏng sắt tây làm màng rung. Mỗi lần muốn nghe lấy vòng dây chun to bản làm sẵn chụp lên đầu ép chặt tai nghe vào tai, một tay cầm đầu dây dẫn nối với dây ăng ten căng trên nóc nhà để chọc chọc, di di lên cục galen vàng sống đang cầm ở tay kia. Giữa muôn vàn tiếng lạo xạo sóng vô tuyến, thỉnh thoảng lại nổi lên những giọng nói quen thuộc của Đài Tiếng nói Việt Nam, được một hai phút rõ tiếng lại thấy tiếng lạo xạo quay về. Lại dò galen, hồi lâu, may ra thì bắt được đài cũ nghe tiếp, có khi lại nhẩy sang đài khác xì xồ thứ tiếng không hiểu là họ nói gì. Từ cái thời Galen ấy, mười lăm năm sau bỗng dưng sẩy chân bước chân vào thế giới của T’răngsito Catxet thế này, không bị đột quỵ như ông Nguyên đây kể cũng là giỏi lắm rồi!
Chỉ còn một việc khó nhất mà ông Nguyên cứ ngập ngừng dền dứ mãi không dám bước vào để vượt qua, ấy là vấn đề giá cả. Liệu rằng bốn chục trong túi, hay là cả cái phần trăm rưởi gửi tín dụng kia có đủ với cái kỳ quan này không? Chần chừ hồi lâu ông vẫn không dám, đành trì hoãn bằng một lời đề nghị:
- Anh thử mở Đài Tiếng nói Việt Nam xem nào!
- Dễ ợt!
Đúng là giọng nói trầm ấm thân thuộc đặc trưng riêng có của nam phát thanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam, mà 15 năm qua ông không một lần được nghe lại. Ông cố gắng cúi thấp người xuống như muốn nghe rõ hơn, nhưng thực ra là để che đi nỗi xúc động lòng mình: “… trong một chuyến bay đặc biệt từ Hà Nội vào Sài Gòn chiều hôm qua có một món quà đặc biệt, đó là 100 cành đào Nhật Tân do Ủy ban Hành chính Hà Nội gửi vào tặng Ủy ban Quân quản Sài Gòn. Món quà quý hiếm như thể hiện tấm lòng thương nhớ muôn vàn của nhân dân Thủ đô, nhân dân miền Bắc gửi tới nhân dân thành phố mang tên Bác cũng như toàn thể nhân dân miền Nam. Câu chuyện như một sự tái hiện lịch sử huy hoàng của dân tộc, khi chúng ta nhớ lại, vào ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789, hoàng đế Quang Trung chiến bào còn nồng hơi súng thống lĩnh đại quân tiến vào giải phóng thành Thăng Long, trong muôn vàn công việc đại sự quốc gia, nhà vua vẫn không quên sai người ngày đêm cưỡi ngựa trạm mang theo một cành đào Nhật Tân trở về kinh đô Phú Xuân tặng cho người vợ yêu Lê Ngọc Hân của mình…”.
Tiếng loa được vặn nhỏ để thay vào đó là tiếng anh chàng bán hàng:
- Thế nào ông bác, chất lượng có gì phải góp ý nữa không?
Cũng lúc đó, khi người khách cuối cùng đã bước ra khỏi cửa, thì người đàn ông đứng tuổi tóc vẫn còn đen mà râu ria đã bạc trắng, từ quầy bán hàng cũng bước ra rồi đi tới ngồi vào chiếc ghế bên cạnh ông Nguyên. Ông ta nhắc cậu thanh niên:
- Con thay ấm chè khác để mời ông chứ Bắc!
Rồi chủ nhà bắt ngay vào chuyện:
- Cái con Sôny này là thằng bố cả nhà tôi mua mới trong tiệm ở Sài Gòn ra đấy, nay muốn thay giàn AKAI băng cối nên mới bán đi, ông mà mua được thì yên tâm về chất lượng rồi!… Ờ mà ông người đâu ta mà tôi chưa bao giờ gặp thì phải?
Ông Nguyên dè dặt trả lời:
- Vâng, tôi cũng mới nhận việc ở trường đây hôm qua.
- Trường nào thế?
- Trường cấp II Song Yên.
- Thế ra ông bảo vệ thay ông Hậu?
Ông Nguyên giật mình tỏ sự cảnh giác trả lời cụt lủn:
- Phải.
Chủ nhà bỗng hạ thấp giọng đầy vẻ bí mật:
- Nghe nói ông vừa đi cải tạo 15 năm trở về?
Ông Nguyên thấy thót tim và thân thể rã rời:
- Ông cũng biết?
Lão chủ nhà râu bạc bất chợt vỗ vai ông cười ha hả:
- Tôi hỏi thế để ông đừng có ngại ngần gì. Nói ông bỏ quá chứ tù cũng có dăm bẩy loại. Đi tù mà do trộm cắp, giết người cướp của, tham nhũng, đạo tặc trở về thì nhục lắm, trong con mắt dân làng coi cứ như chết rồi. Còn những người như ông, không ai nỡ xa lánh đâu!
- Như tôi?
- Phải! Ông về đây trưa qua thì buổi chiều cả làng ai cũng biết tin cháu bốn đời nhà Trương Tíu do viết báo góp ý với Nhà nước về sai lầm cải cách ruộng đất mà bị đi tù nay đã về làng. Mọi người ai cũng xuýt xoa thương xót đều ví ông với ông Ba Cảo ngày trước.
- ?!
- Ông Ba Cảo hồi đó là Bí thư Đảng ủy xã, thấy hợp tác xã làm ăn như nhà vô chủ, xã viên đủng đỉnh như đĩ chơi giăng, sáng không vừa trưa không vội, công sá mỗi ngày chưa nổi cân thóc lép, dân đói bỏ làng chạy chợ quanh năm. Ông Ba mới bàn trong lãnh đạo thực hiện khoán chui cho các hộ. Được ba vụ lúa tốt bời bời, dân no, đốt đuốc cũng chẳng tìm ra mống nào đi buôn nữa, nhà nhà cặm cụi bám đồng. Nhưng chui làm sao được mãi, cái kim trong bọc lâu ngày còn tòi ra nữa là! Thế là lệnh cấm ban xuống, cấp trên các đoàn kìn kìn kéo về, chẳng biết làm những gì mà đông đến thế. Cuối cùng cả ban lãnh đạo xã bị cách chức, xóa hẳn khoán hộ quay về giong công phóng điểm, đói lại hoàn đói. Riêng Ba Cảo tuy không gọi là đi cải tạo, nhưng cũng bị khai trừ Đảng phải tập trung học tập chính trị mất mấy tháng. Mới về được bốn năm nay chứ mấy. Cải tạo về làm chân lão nông chi điền, nhưng được cả làng trọng vọng, hội hè đình đám bao giờ Ba Cảo cũng được rước ngồi chiếu trên. Vui thật lực!
Ông Nguyên như trút được hòn đá tảng nghìn cân trong lòng nhưng vẫn cảm thấy chưa hết nghi ngại mới tìm cách lảng tránh:
- Cảm ơn ông đã cho biết chuyện, giờ tôi xin phép phải về còn công việc ở nhà.
- Ấy ấy ngồi thêm tí đã, ấm nước mới giờ mới ngấm. Nào mời ông! Ông thấy thế nào? Chè Thái Nguyên chính hiệu đấy, chú em tôi đóng quân trên ấy cũng phải mua chui mới được mấy lạng về làm quà Tết. Ông thấy không, cái ngọt hậu của nó thì không ông mãnh nào có thể sánh được, đúng là chè Thái gái Tuyên!
Chíp chip cái miệng mấy hồi như để tận hưởng cái ngọt ngào của loại chè thượng hạng, chủ nhà nói tiếp:
- Giờ ta quay lại chuyện cái con Sôny này nhé. Lúc nãy nghe hai bác cháu trò chuyện tôi biết là ông có ý định muốn mua, nhưng ông còn đắn đo không biết giá cả cao thấp thế nào nên chưa tiện nói ra.
Trước một người đàn ông cởi mở thế này, những mặc cảm và nghi ngại ban đầu trong lòng ông Nguyên cứ như cũng được vơi dần, nghe nói vậy ông mới mạnh bạo góp chuyện:
- Ông quả là có khả năng đoán người đoán việc như thần, Gia Cát Lượng khi xưa chắc cũng chỉ đến thế!
Ông lão râu bạc cười khấc khấc chả cần nhún nhường:
- Cả làng này ai cũng bảo tôi như thế, nhiều người tín nhiệm có gì khúc mắc đều đến hỏi, mình lựa lời khuyên giải phân tích, được việc ra phết. Ai cũng quý mến, đi xa về gần đều có quà, vui thật lực! Thôi chết! cứ mải chuyện linh tinh quên mất chuyện chính. Tôi nói đến đâu rồi nhỉ, ờ ờ cái đoạn ông chưa tiện hỏi về giá cả, với lại tôi cũng nói khí không phải mong ông bỏ quá, ông mới đi về như thế thì chắc cũng chưa có dư dả gì nhiều, đúng không nào? Bởi vậy tôi mới có một đề nghị nhỏ với ông thế này.
Chủ nhà im lặng hồi lâu kéo theo cả sự im lặng trong cái khoảng không gian giao lưu chật hẹp giữa hai người. Trong cái im lặng đợi chờ ông Nguyên tự nhủ, chủ nhà đã tỏ ra thông cảm đến thế chắc thế nào cũng sẽ đưa ra một cái giá phải chăng để khách có thể mua được. Ông cứ đoán bừa chắc cũng phải cỡ trăm, trăm hai gì đó. Nhẩm tính ấy cũng là suy ra từ cách so sánh của Cường tối qua, bốn chục đồng có thể mua được con bò non vực cày, con bò cũng chỉ là con giống con má, chứ đây cái máy hiện đại hẳn đã là một cái tài sản lớn, ba con bò non cũng còn chả xứng!.. Đến đây ông lão râu bạc hạ giọng nói tiếp:
- Nói thật với ông giá cả thì cũng vô cùng, mua của người chán bán cho người thèm, chẳng biết đâu mà lường. Bởi thế cho nên tôi xin phép được nói với ông thế này, nhân dịp ông được Trung ương sắp xếp cho về cư ngụ tại chính quê hương bản quán gốc gác của mình, với tôi, ông nay đã là người đồng hương, rồi biết đâu sau này trời đất mà cho thì có khi ta lại là bằng hữu. Bởi vậy nhân tiện nhà có mấy con máy không dùng đến, tôi xin được biếu ông con Sôny này để ông có cái dùng, coi như có người sớm tối bầu bạn!
Trong cuộc đời mình, ông Nguyên đã nhiều phen phải nghe những tin bất chợt kinh hoàng như sét đánh ngang tai. Lần này cũng lại là một tiếng sét mà tiếng nổ còn lớn hơn những tiếng sét kinh hoàng bình sinh ông đã từng bị. Nhưng thay vì những cảm giác hoảng sợ, kinh hãi thường gặp thì lần này tiếng sét lại mang đến cho ông một cảm giác yên ả mà còn pha chút day dứt đến lạ kỳ. Ông ta là ai? Một người đàn ông xa lạ ta chưa biết tên biết tuổi, lần đầu tiên gặp mặt mới biết là có một người như thế trên đời. Còn ta là ai? Một tên tù chính trị tứ cố vô thân trở về. Ừ, cứ cho là hai kẻ đồng hương với nhau, nhưng sợi dây tình cảm nào đã khiến ông ta có một việc làm bất thường đến mức vô lý, một nghĩa cử cao đẹp đến mức nghi ngờ? Hay đây lại là một trò chơi độc ác kiểu mèo vờn chuột mà ta đã bao phen nếm trải trước và trong khi ở tù? Ông Nguyên bỗng thấy rùng mình về những cách con người đối xử với nhau. Điều đó khiến ông có được thái độ dứt khoát:
- Xin được cảm ơn tấm lòng hảo tâm của ông, nhưng tự xét thấy mình là một kẻ tầm thường tài hèn đức mỏng, chưa giúp được cho ông điều gì nên không xứng với món tài sản quá lớn như thế!
Chủ nhà vội ngắt lời:
- Ông nói thế là sai mất rồi. Dân ta từ xưa đến nay vẫn có truyền thống lá lành đùm lá rách, thấy người hoạn nạn thì thương. Khi đã vì tấm lòng hào hiệp mà cho nhau thì một củ khoai cũng quý tựa một toà nhà bằng vàng. Thiên hạ lâu nay cứ nhiễm cái thói hay quá nặng lòng với những món lợi lộc bạc vàng mà nhẹ tình với những thơm thảo ngô khoai. Tôi biết ông là một người nghĩa khí, nguyên cái việc những sai lầm trong cải cách ruộng đất không ai dám đụng đến mà ông dám có lời chân thành góp ý lên trên thì đó đã là một nghĩa cử của người quân tử, cũng là cách giúp ích cho vô khối con người thấp cổ bé họng rồi đấy. Ông có biết không, ông bố tôi hồi mới hoà bình là Phó chủ tịch tỉnh này, Đoàn ủy cải cách có lệnh gọi về, rập gẫy có ba tuần vu cho là Quốc dân đảng, tống giam lập toà xét xử rồi lôi ra bắn. Ngày hôm sau có trát gửi về tha bổng thì mọi việc đã xong xuôi! Nỗi cay đắng đó được người như ông từ trên cửu trùng nhìn xuống cảm thông thấu hiểu, thì những gia đình oan khuất như chúng tôi sao lại không nặng lòng cảm kích cho được. Bởi thế cho nên chút quà mọn này không phải là cái gì mờ ám đâu mà ông phải phân vân ngần ngại.
- Ông đã nói thế thì tôi cũng xin hết lòng đa tạ, nhưng quả thật tôi không dám nghĩ tới cái ân huệ lớn…
Chủ nhà lại cắt ngang:
- Cũng nói thêm để ông vững tâm, loại đài catxet kiểu này giờ còn có giá một tí, chứ nay mai có mà cho trẻ con chơi chúng cũng chả thèm.
Ông Nguyên tròn mắt nhìn chủ nhà không nói nổi câu gì. Thấy vậy chủ nhà bèn hăng say giải thích:
- Không biết ông có nghe vừa qua, mấy cụ lãnh tụ nhà ta đã chẳng tuyên bố là từ nay đất nước sạch bóng quân thù, không một thế lực phản động nào còn dám nghĩ đến chuyện xâm lược nước ta, chúng ta sẽ tập trung cao độ cho công cuộc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, rồi đây mỗi nhà dân là đều phải có ti vi và tủ lạnh. Ông thử nghĩ đến lúc đó thì ai còn dùng cái của nợ này làm gì. Thế cho nên ông cứ phải coi cái tặng phẩm này nó chỉ nhẹ như lông hồng mới được. Nào mời ông xơi nước, cái tang Bắc Thái này đã đậm đà lại được nước đáo để. Đúng là chè Thái gái Tuyên!
Chủ nhà tắt đài, một lần nữa hướng dẫn qua loa cách sử dụng, rồi đứng lên lấy một vỉ 4 chiếc pin nhãn Con Thỏ, cả đài cả pin đưa cho ông Nguyên:
- Xin được biếu ông để làm kỷ niệm ngày hội ngộ, tôi là Hổ, Phí Quang Hổ, đại úy quân đội Nhân dân Việt Nam về hưu, còn ông?
Ông Nguyên đứng lên run run đón nhận món quà từ tay ông Hổ râu bạc:
- Xin được đa tạ tấm lòng hào hiệp của ông Hổ, ơn này xin được mãi mãi ghi tạc trong tim. Còn tôi là Nguyên, Hoàng Hữu Nguyên, nghề nghiệp thì ông biết rồi, tù chính trị được trả về quản thúc tại địa phương!
*
Trên đường trở về nhà ông Nguyên cảm thấy như đang bước trên mây. Bước thấp bước cao, bước dài bước ngắn mà sao lại cứ bồng bềnh như bay. Trời đã gần về trưa, gió bớt xào xạc và nắng cũng thấy hoe vàng. Ông cởi chiếc áo trấn thủ cộc tay cuộn kín chiếc đài ôm chặt vào ngực như sợ người khác biết được, còn tay kia thì lỉnh kỉnh những dao cùng thớt. Về đến cổng trường tay vẫn chưa hết run tra mãi chìa vào ổ mới mở được khóa.
Trước cửa phòng vẫn còn khóa thấy có một đống củi cành bàng bẻ ngay ngắn đầu đuôi cỡ hai người ôm, trên cánh cửa lủng lẳng một cái quang treo nồi đất, sờ tay còn ấm, ghé mũi ngửi thấy mùi cá kho tương gừng bay ra thơm đặm đà. Ai thế nhỉ? Cổng vẫn khóa mà người đã vào! Kiểu này chỉ có anh chàng Cường chứ chẳng thể ai khác. Ông Nguyên bỏ đám dao thớt rế nồi xuồng thềm, tay vẫn ôm khư khư bọc đài quay ra sân trường. Nhìn quanh không thấy ai ông mới bắc loa tay hướng về lối sân sau hú lên mấy tiếng kiểu đi rừng. Ngay lập tức có tiếng hú dài đáp lại. Chỉ một nhoáng đã thấy Cường từ phía bờ giếng chạy về. Từ xa cậu cả đã nói cười phớ lớ:
- Bố đi đâu mà con đợi mãi không thấy?
- Tôi ra chợ mua ít thức ăn đồ dùng, quên dao thớt lại phải đi lần nữa.
- Trời lạnh mà bố mặc phong phanh thế, áo trấn thủ lại đem bọc cái gì kia nữa?
- Ờ… ờ… vào nhà đi đã. Mà đống củi này anh đem sang đấy à?
- Trong lúc đợi bố con tranh thủ trèo lên mấy cây bàng bẻ ít củi để bố có cái đun Tết.
Ông Nguyên mỉm cười nhìn Cường:
- Tôi ra chợ tìm mua củi mà không đâu có, thế này thì quý hóa quá. Nhưng mà cây cao bóng cả anh cứ leo trèo, nói dại nhỡ sa sẩy thì khốn!
- Bố không phải lo, con cầm tinh con đười ươi mà bố. Từ nay riêng cái khoản củi đun là bố để con phụ trách. May mà lúc nãy không mua được chứ không lại vứt tiền qua cửa sổ.
Cường bước lên tay xách niêu cá kho nâng cao về phía ông Nguyên như có ý khoe:
- Mẹ con bảo đem sang biếu bố niêu cá kho. Bố cứ thử ăn sẽ biết, mẹ con là nghệ sĩ kho cá đấy, xương cá rô mà cứ mềm thỉu như đậu phụ ấy. Mà cả cái khoản cá này nữa bố đừng có phải mua bán bao giờ đấy nhé, thích ăn lúc nào ới con một tiếng là có ngay tắp lự.
- Anh cứ làm như ở nhà nuôi cá bằng chậu không bằng!
Cường tỏ vẻ kiêu hãnh trước ông bố mới bắt được:
- Còn hơn thế cơ bố ạ, bố chưa biết tài của con đấy thôi. Tất cả hồ ao chuôm vực hợp tác xã vùng này con thuộc như lòng bàn tay. Trắm chép riếc rô chỗ nào nhiều, chỗ nào béo, con chỉ lặn xuống một lúc là đã lưng một thời.
Ông Nguyên tỏ vẻ ái ngại:
- Anh làm thế các đội bảo nông họ lại tha cho chắc?
Cường tự tin trả lời:
- Chúng biết sao được bố. Con toàn bắt trộm nửa đêm thôi, thứ nhất là lúc cá ngủ say lặn xuống muốn chọn con nào thì chọn, thứ hai mấy ông mãnh canh cá có giỏi thức lắm thì tới lúc ấy cũng ngủ lăn như chết rồi, mình muốn làm gì thì làm.
- Có hai mẹ con ăn hết bao nhiêu mà phải khổ sở thế?
- Cá ăn không hết bao nhiêu nhưng cơm gạo mắm muối dầu đèn thì lại hết nhiều, con phải đổi cá ra tất cả những cái đó chứ bố bảo trông chờ vào mấy đấu thóc lép của hợp tác thì có mà mẹ con chết ngóm từ lâu!
Một nỗi buồn tê tái trùm lấp trong lòng ông Nguyên:
- Nghe nói thế tôi hiểu là anh bắt cá rồi đem đi bán để lấy tiền trang trải, lâu thế mà không ai phát hiện ra ư?
Cường tỏ vẻ bí mật:
- Đấy là bí quyết của riêng con. Chọn bắt những con cá đạt yêu cầu mà người ta đặt mua, cho vào túi lưới cùng với một viên gạch lục thật nặng buộc chặt lại, tìm chỗ kín đáo ven bờ thả xuống nước. Sáng hôm sau mặt trời lên ngang con sào xã viên chưa ra đồng thì mình đủng đỉnh dắt xe đạp ra chỗ giấu cá. Gạch nặng, túi lưới chật cá nằm im tại chỗ mình chỉ việc nhấc lên cho vào túi hộp cao su sau gác baga phóng lên hàng cơm phố huyện, tiền trao cháo múc, êm cứ như thóc!
Con người tài hoa này, ông Nguyên nghĩ thế, giá mà được học hành giáo dục tử tế thì nên người lắm đây! Trong lòng ông bỗng xuất hiện một thứ tình cảm mới lạ. Ông vốn là người cô độc không vợ không con, không hiểu được xúc cảm của thứ tình phụ tử, nhưng trước một người con trai khôi ngô tuấn tú, cởi mở lòng dạ, khéo léo tài hoa, mà lại chân thành mong được chia sẻ cùng ông cái tình cảm mà cả hai người cùng đang thiếu thốn ấy, ông bỗng thấy như giữa hai người đã có một sợi dây số phận nào đấy kết lại với nhau. Lòng ông rộn ràng một niềm hạnh phúc mơ hồ mỏng manh khiến ông tự nhủ, tại sao ta lại không nghĩ rằng đây là một ân huệ to lớn hiếm hoi mà số phận đã cảm thương và hào phóng dành cho ta?
Ông Nguyên mở khóa nhìn Cường hồi lâu bằng
ánh mắt thật trìu mến, ông tránh sang một bên đẩy cửa nói với Cường:
- Vào đi con!
Hai bố con, từ nay đã có thể gọi như thế, bước vào nhà, Cường lên tiếng trước tiên:
- Bố cứ ngồi nghỉ đi để con làm cho. Xem bố mua được những gì rồi nào!
Cường mồm nói tay làm, chạy ra chạy vào, chỉ một loáng sắp xếp chuẩn bị mọi thứ đã đâu vào đấy. Thịt lợn được chia hai phần thái sẵn, phần lớn nấu đông, phần nhỏ xào cháy cạnh ăn dần. Dưa cải thái xong rửa sạch để đấy cho rich nước tí nữa sẽ muối. Gạo vo rá mới nấu nồi đất mới Cường bảo sẽ ngon phải biết!
Bếp lửa đã được nhóm lên, một bếp thổi cơm một bếp đun nước pha trà. Ngọn lửa bén đều cành bàng, khói tỏa thơm hương, tiếng nổ tí tách. Nhìn cảnh tượng ấm cúng vui mắt mà chỉ trong phút chốc Cường đã đem đến cho căn phòng, ông Nguyên cứ thấy nao nao một niềm vui khó tả. Gần hết đời người mà chưa khi nào ông lại thấy mình có được cái không khí gia đình thuộc sở hữu riêng như lúc này. Ông không dám nhìn Cường lâu quá sợ rằng nó lại đoán ra được ý nghĩ mình lúc này, nên khi nồi nước sôi trên bếp ông mới giành lấy việc rót nước vào phích và pha trà. Nồi cơm cũng vừa cạn, Cường dập tắt lửa cời than rồi quay lên rót nước trà ra hai chén, hai tay nâng chén trà nóng đưa cho bố và bảo:
- Lần sau bố đừng mua cái tang chè gói mậu dịch thế này làm gì, vừa đắt vừa không ngon. Con thấy nhất là hãm nồi lá vối uống vừa thơm vừa lành, nếu không để con kiếm ít chè mạn uống còn hơn.
Ông Nguyên cố hết sức nhưng vẫn không giấu được chút ngượng nghịu trong giọng nói:
- Bố… cũng… tìm chè mạn nhưng không thấy nên mua tạm mấy gói vừa thắp hương vừa uống Tết. Tới đây ta cứ lá vối là thượng sách!
Uống dở chén trà ông Nguyên quay lại lấy cái đài catxet cuộn trong áo trấn thủ đưa ra cho Cường xem. Ông chưa kịp nói gì thì Cường đã vồ lấy mà kêu lên:
- Chao ôi! Bố lấy con Sôny này đâu ra mà xịn thế không biết?
- Anh giúp bố xem chất lượng nó ra sao?
Cường bật máy xoành xoạch thử hết động tác này sang động tác khác, cuối cùng vặn nhỏ về sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, nói với ông:
- Con này chất lượng gần như mới nguyên, bố mua có đến trăm rưởi không?
- Gớm! Anh cứ làm như bố lắm tiền lắm không bằng.
- Nếu không hữu nghị lắm cũng phải trăm ba trăm tư, bố nói xem con đoán thế có đúng không nào?
- Tôi mà nói ra sợ anh giật mình.
- Con không yếu tim đến thế đâu, bố cứ yên tâm!
Ông Nguyên kể lại đầu đuôi câu chuyện ở nhà ông Hổ cho Cường nghe. Cường tỏ vẻ không vui sau câu chuyện:
- Cái lão Hổ này tính khí cũng lạ lắm bố ạ, trắng đen rõ ràng, yêu ghét ra mặt. Yêu quý ai thì chẳng tiếc cái gì, mà ghét ai thì cứ gọi là đào đất đổ đi. Lão ấy thân thiện với nhiều người nhưng với mẹ con nhà con lão ấy cứ như mặt giăng mặt giời. Con cũng chẳng cần, mà có cần lão cũng chẳng giúp!
Ông Nguyên thấy như mình có lỗi về câu chuyện này mới nói như có ý thanh minh:
- Bố không biết nó lại liên quan đến con, thế có chuyện gì kể bố nghe được không?
- Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm đâu, chẳng qua là hồi cải cách ông cụ Phi Long là bố của lão Hổ bị bắn oan, mà lúc ấy ba con là Đoàn trưởng của huyện, chả biết có dính líu gì không mà sau này lão ấy cứ oán trách mãi. Ấy là mẹ con nói thế chứ như bản thân con thì biết được đâu vào với đâu! Thế còn lão ấy nể trọng mà biếu bố thì bố cứ vui vẻ mà nhận, con mừng cho bố lắm, bởi một người như lão Hổ mà đã quý mến nể phục ai thì không phải là vừa. Bố cứ yên tâm, rồi đây con tin là làng này nhiều người đều đối xử với bố như thế cho mà xem. Con yên tâm và mừng về điều ấy lắm đấy bố ạ.
Càng lúc ông Nguyên càng thấy Cường giống như một quý vật mà ông trời bỗng nhiên đem tặng cho mình, giống như một sự xoa dịu, một sự bù đắp cho những đớn đau mất mát trước đây. Những lời chia sẻ an ủi từ Cường sao mà thấu tình đạt lý, sao mà mát ruột cho ông đến thế. Ông rót nước đưa cho Cường:
- Bố cảm ơn vì anh đã biết chia sẻ cả những niềm vui nỗi buồn với bố. Còn với người đời, yêu ghét cũng là lẽ thường tình, miễn là mình cứ sống sao cho ngay thẳng theo với những gì mình cho là đúng. Bố nói thế chắc anh hiểu chứ?
- Con hiểu ý bố, và con sẽ cố gắng để sống thẳng thắn và lương thiện như những điều bố dạy bảo.
Uống hết chén nước Cường lại quay vào bếp. Lại chỉ một loáng là xong xoong thịt rang, múc thịt ra đĩa lấy luôn xoong đó xào su hào, gắp thêm một đĩa cá kho, tất cả được đặt lên ban thờ. Châm lửa thắp hương đâu đấy Cường nói với ông Nguyên:
- Bố ở nhà khấn vái thần linh thổ địa, con chạy ù đi mua cút rượu về hai bố con nhâm nhi.
Cậu cả xăm xăm định lao ra chèo tường thì ông Nguyên đã kéo lại:
- Từ nay trở đi anh đừng phải vào ra kiểu ấy, cứ cổng mà đi, quân tử hành đại lộ, nhớ nhé!
- Thế nghĩa là sao hả bố?
- Đã là người quân tử thì phải đường lớn mà đi, hành đại lộ là đi đường lớn, các bậc thánh hiền xưa khuyên bảo như vậy.
- Người xưa cũng lắm chuyện đáo để bố nhỉ?
Cường đi rồi ông Nguyên lại đến trước ban thờ khấn vái một lúc rồi thu dọn nhà cửa, sắp xếp bát đũa đợi Cường về ăn cơm. Một mình ngồi uống nước trong căn phòng ấm cúng ngạt ngào mùi hương trầm quyện với mùi thức ăn, tất cả những cái đó mang đến cho ông một tâm trạng nhẹ nhàng mãn nguyện, giống như tâm thế của một người đàn ông đang được sống giữa cái không gian đầm ấm hạnh phúc con cháu đông đàn dài lũ của gia đình mình. Ông ngất ngây trong niềm hạnh phúc mới mẻ khi nhận ra, chỉ trong phút chốc mình đang từ chỗ một kẻ tay trắng không có gì, bỗng nhiên lại trở thành người có tất cả, có nơi ăn chốn ở, có việc làm, có người con trai biết yêu thương biết sẻ chia an ủi nỗi cô quạnh và gọi mình là bố. Và đặc biệt là dù chỉ mới có một ngày sống ở làng, nhưng cái tâm trạng mặc cảm về sự khinh khi ghẻ lạnh của người đời luôn nặng trĩu lòng ông, thì nay đã như được dỡ bỏ. Hình ảnh và những việc làm của mẹ con cô giáo Thà, của ông Hổ râu bạc, của Cường đối với ông; rồi những câu chuyện về những người mà ông chưa hề biết mặt như chuyện ông Ba Cảo, chuyện ông Phi Long, chuyện bà Hân hàng xóm cô giáo, chuyện người mẹ bất hạnh của Cường… đã đem đến cho ông nỗi xúc động rưng rưng về những con người có tấm lòng nhân hậu, thấy người hoạn nạn thì thương, luôn biết nhường cơm xẻ áo, luôn biết hy sinh cống hiến nhưng lại phải nhận về mình những bất hạnh rủi ro.
Rồi thì hình ảnh của phiên chợ làng rộn rã sắc xuân với những người nông dân thuần phác và linh động đã đem đến cho ông những cảm xúc khác lạ về mảnh đất xa lạ này, mảnh đất mà trên tờ giấy số phận người ta đã viết là quê gốc của ông. Từ những cảm xúc ấm áp về tấm lòng những con người nhân hậu đã biết và chưa biết ấy, dường như lại có một nhịp cầu bắc ngang trong tâm tưởng ông. Giống như tâm trạng người lữ khách một đời phiêu bồng trên con đường vạn lý, đến một ngày chồn chân mỏi gối nghỉ lại bên đường, tự thấy sức mình đã kiệt mà con đường phía trước còn dài không thể đi tiếp. Ông hiểu rằng nơi đây không phải mảnh đất mình sinh ra và lớn lên, cũng không phải là nơi còn lưu lại chút hình ảnh xa mờ như ý niệm nào đó về tổ tiên dòng họ. Nhưng bỗng dưng lúc này đây, tận nơi sâu thẳm chín tầng gan ruột, ông thấy như có một sợi dây vô hình nào đấy đã buộc chặt hồn mình với cái không gian, mà ông đã mường tượng ra nó cứ bồng bềnh huyền ảo như làn mây ngũ sắc, thoang thoảng đòng đưa hương đồng gió nội, ngọt ngào như lời ru của mẹ thuở nằm nôi, để cho tâm hồn ông được dâng dâng niềm hạnh phúc mới, khi nhận ra rằng nó đã được neo đậu vào mảnh hồn quê chân mộc chốn này…
14. Hai mẹ con
Từ sau cái Tết năm đó cuộc sống ông Nguyên may mắn thay đã dần dần đi vào ổn định. Ngay từ buổi làm việc đầu xuân, thầy Hiệu phó Trịệu Quang Hội đã mời ông lên phòng Hội đồng trao đổi công việc.
Thầy Hội đưa cho ông một bản đánh máy sẵn trên đó quy định những nhiệm vụ cụ thể mà ông phải làm như mở cổng đóng cổng trường, mở đóng cửa lớp; đánh trống vào học, ra chơi, tan trường; đun nước vối ủ vào chiếc thùng men lớn, rửa ấm chén, quét dọn vệ sinh phòng Hiệu trưởng và phòng Hội đồng; thủ kho văn phòng phẩm nhà trường, phân phát phấn trắng và giấy soạn giáo án tới từng giáo viên; quét dọn vệ sinh hành lang, sân trường và bảo vệ trường suốt cả ngày đêm… Bản đánh máy thứ hai là bản thời gian biểu, trong đó gạch đít từng giờ từng phút đánh trống hiệu: Vào lớp đầu giờ, hai hồi ba lệnh; ra vào giải lao giữa giờ, ba lệnh; tan trường ra về, ba hồi ba lệnh… Ngoài ra ông được giao thêm nhiệm vụ mới mà trước kia ông Hậu không phải làm, đó là cứ sau 9 giờ sáng hàng ngày thì lấy báo mới từ phòng Hiệu trưởng treo lên giá trong phòng Hội đồng cho mọi người cùng đọc, đồng thời cất giữ bảo quản báo cũ theo thứ tự thời gian.
Giao nhiệm vụ xong xuôi, thầy Hội trao cho ông Nguyên một chiếc ấm nhôm đen kịt nhọ nồi để đun nước, một chiếc đồng hồ báo thức có hình con gà mổ thóc để theo dõi giờ giấc. Thầy còn đưa cho ông 5 đồng bạc bảo đây là tiền củi đun nước 3 đồng và tiền lá vối 2 đồng mỗi tháng.
Với một thái độ trân trọng nhưng có phần nguyên tắc, thầy Hội nói với ông Nguyên:
- Công việc thì nhiều nhưng lại toàn việc không tên rất dễ nhầm lẫn sơ suất, tôi mong bác cố gắng làm tốt nhiệm vụ được giao. Còn tiền thù lao của bác tôi sẽ trực tiếp lên huyện nhờ các anh trên ấy khẩn trương giúp đỡ để nhanh có quyết định. Trong khi chờ đợi, chị Thà cũng đã bàn với xã để có hướng hỗ trợ, bác cứ yên tâm!
- Cái thù lao của tôi chỉ là việc nhỏ mọn làm các ông các bà phải bận tâm tôi thấy áy náy quá. Còn công việc được giao, xin hứa với ông tôi sẽ làm tròn không để sơ suất xẩy ra để không phụ lòng các ông các bà.
Thầy hiệu phó tỏ vẻ thân mật hơn:
- Kho văn phòng phẩm ông có nhu câu giấy bút sử dụng cho cá nhân mình thì có thể tự lấy, chắc là đã lâu ông không có dịp viết lách gì?
Ông Nguyên cố gắng để cho sự thận trọng không bộc lộ ra ngoài:
- Cảm ơn ông đã quan tâm, tôi nay chỉ mong sao trời cho cái sức khỏe để làm thật tốt công việc các ông các bà giao cho, được như thế đã là hạnh phúc với tôi lắm rồi, thưa ông.
Ông trả lời như thế một phần vì muốn tránh tất cả những câu chuyện phiền toái liên quan đến cái thời làm báo trong quá khứ, nhưng nhiều phần là vì ông muốn được bộc bạch cái niềm vui công việc hôm nay của mình.
Quả là ông Nguyên đã tìm thấy hạnh phúc thật sự trong cái công việc mới mẻ này, một công việc độc nhất chỉ có mình với mình, một mình độc hành, một mình độc thoại, không phải tiếp xúc, chẳng phải trao đổi với ai. Trong giờ làm việc ông không cho phép mình ngơi nghỉ lúc nào. Quét nhà, rửa cốc chén, đun nước ủ lá vối, xem giờ đánh trống… Ngơi việc một cái là ông lại cấm lấy cái chổi. Sân trước vườn sau, hố tiểu nhà xí, chỗ nào cũng cứ tinh tươm gọn gàng. Không bao giờ người ta trông thấy ông xem báo hoặc nghe đài, dù cho đối với ông những cái đó chúng còn quý hơn cả cơm gạo. Có lần ông chợt nhớ lại cái lời báng bổ răn dạy của tay trưởng công an xã, tôi không có thói quen nghe lời người ta nói mà chỉ cần xem việc người ta làm. Ghê gớm thật! Chẳng biết học được câu nói ở đâu mà đặt vào đúng lúc đúng chỗ thế. Nhưng cũng không phải vì câu nói ấy mà ông mới làm việc cần mẫn chăm chỉ ngày đêm, mà đây, thực sự chúng đã trở thành niềm vui thường nhật, giúp ông tìm lại thói quen tự chủ của một con người, cái thói quen nhân tính mà trong suốt những tháng năm tù đầy đã có lúc ông hoang mang lo sợ nhận ra, nó đang bị nguyên thủy hóa, nô lệ hóa và phần nhân tính đang bị cạn dần trong dòng máu của mình. Trở lại đời thường không phải chỉ là trở lại với cái thân xác hình người, mà cấp thiết hơn là phải mau chóng trả lại cho nó cái nhân cách cao đẹp đã mất, ông Nguyên ngậm ngùi thường tự nhủ với lòng mình như vậy.
Ba tháng sau ông Nguyên được ký hợp đồng lao động với nhà trường, mức trợ cấp là 13 đồng 5 hào mỗi tháng. Lãnh đạo xã Song Yên cũng đồng ý chi trả thù lao cho ông 3 tháng công vừa qua, mỗi tháng năm chục cân thóc, vị chi là tạ rưỡi. Lòng dạ ông vui mừng không biết đâu mà kể. 13 đồng rưỡi tiền lương, 1đồng rưỡi tiền lãi tín dụng, 15 đồng mỗi tháng như mình tiêu sao cho hết! Lại còn tạ rưỡi thóc ăn dần. Chà chà, ta là triệu phú đến nơi rồi còn gì!
Nhưng vẫn chưa hết! Người ta thường bảo phúc bất trùng lai, phúc chẳng hai lần cùng đến bao giờ, thế mà nay với ông lại là liên tiếp. Ký hợp đồng tuần trước thì tuần sau thầy Hội lại gọi ông lên bảo, Ban Giám hiệu giao cho ông quản lý và sử dụng toàn bộ mảnh vườn khoảng một sào đất sau trường, ông có thể trồng rau hoặc rào lại chăn nuôi một phần, miễn sao giữ gìn vệ sinh cảnh quan sạch đẹp, toàn bộ hoa lợi đó đều thuộc về ông! Chao ôi! Đó mới là một giấc mơ không bao giờ ông dám mảy may tơ tưởng. Một sào đất vườn, phân gio nước nôi lại sẵn. Đồ ăn thức dùng, chăn bông áo ấm đấy chứ còn ở đâu ra nữa!
Từ đấy trở đi, kể từ lúc mặt trời chưa hé đằng Đông cho tới khi những tia nắng cuối cùng đã tắt hẳn ở đằng Tây, ngoài những lúc chú mục vào các công việc nhà trường mà ông luôn tâm niệm không bao giờ được xao nhãng mảy may, ông Nguyên đã dành tất cả thời gian và công sức cho mảnh vườn. Xúc đất ở phần trũng đắp lên phần cao, san bằng phẳng cả hai, phần trên trồng cải xanh cải bẹ, su hào bắp cải, cà chua, phần dưới be bờ giữ nước trồng rau muống. Lứa đầu thu hoạch rau đẹp như tranh, ông biếu tất cả giáo viên trong trường mỗi người một bó cải xanh nõn to tướng với mấy cân cà chua. Không ai nỡ nhận cứ đòi trả tiền, nhưng ông bảo đây là hương hoa thơm thảo của trường mong được chia vui với các thầy các cô, mọi người mà vui thì đấy đã là phần thưởng lớn nhất đối với ông rồi. Ông cũng không quên mang biếu gia đình ông Hổ những cây rau và quả cà chua ngon nhất như một sự tri ân nghĩa tình.
Vào một buổi trưa hè, trong lúc ông Nguyên đang lúi húi trong vườn thì nghe tiếng hú tín hiệu của Cường, ông hú đáp trả rồi chạy ra mở cổng. Trông điệu bộ thiểu não của Cường, ông giật mình hỏi dồn:
- Sao, có chuyện gì rồi hả, hay là mẹ con làm sao?
Cường tỏ vẻ chán nản:
- Không bố ạ. Mẹ con không sao cả, chính con mới là người không chịu nổi những điều đốn mạt như thế.
- Chuyện đốn mạt gì mà sức dài vai rộng thế này lại không bằng một người đàn bà yếu đuối thế kia, kể bố nghe được không?
- Con sang đây chỉ là muốn được kể cho bố nghe chuyện đó.
Ông Nguyên bảo Cường vào nhà rồi xuống bếp rửa ráy chân tay qua loa. Khi hai bố con đã ngồi yên vị bên giỏ ấm nước vối, ông mới giục Cường:
- Kể bố nghe xem nào!
Cường im lặng hồi lâu rồi buồn bã nói:
- Thực ra chuyện này xẩy ra đã từ lâu. Bố có nhớ hồi con mới đi Đã Nẵng ra, trong rất nhiều câu chuyện buồn về ông Tư Xuyên con kể mà bố cũng nhận xét ông ta như thế là tệ bạc không? Nhưng còn duy nhất một chuyện con chưa kể với bố ấy là khi con quay ra Bắc, ông ấy có gửi con một tờ đơn xin ly dị ký sẵn bảo đem ra cố gắng thuyết phục mẹ Lan ký vào. Làm như thế chỉ là để giúp ông tháo gỡ một vấn đề liên quan đến pháp luật, một cán bộ lãnh đạo cao cấp ở tỉnh như ông không thể một lúc có hai vợ. Ông nói ông đang có khả năng được đề bạt Phó chủ tịch tỉnh, mang danh hai vợ là sẽ bị loại ngay vòng đầu! Nếu lên được Phó chủ tịch thì điều kiện giúp đỡ mẹ Lan và nuôi dạy con sẽ thuận lợi và đầy đủ hơn rất nhiều. Con vô cùng hận về tờ đơn và những lời đường mật ấy, nhưng cố nuốt hận vào lòng để cầm ra Bắc, coi đó như một bằng chứng về sự phản bội cần được lưu giữ. Lúc đưa con ra ô tô liên vận ông rút ví đưa cho hai chục bạc tiền Giải phóng, nếu quy ra tiền ngân hàng miền Bắc thì cũng khoảng gần ba chục. Con hỏi để làm gì, ông bảo để thỉnh thoảng ra bưu điện huyện gọi đường dài vào Đà Nẵng hai ba con trò chuyện, đặc biệt khi nào mẹ ký đơn thì gọi ngay cho ba biết!
Câu chuyện từ đó con cũng giấu mẹ Lan luôn, sợ rằng mẹ không chịu đựng nổi miếng đòn tàn độc như thế. Nhưng cách đây nửa tháng mẹ nhận được thư của ông Tư Xuyên, không biết trong thư nói những gì, nhưng khi con đi cào cỏ lúa hợp tác về thì thấy mẹ ngồi ở bậc thềm ngoài sân, dưới chân là đám tro tàn vẫn có thể nhận ra chiếc phong bì và những tờ giấy đã cháy hết. Mẹ khóc bảo chuyện hệ trọng như thế sao lại nỡ giấu mẹ, rồi hỏi tờ đơn ly dị đâu? Con vào lấy đưa tờ đơn và an ủi mẹ rằng con đang tìm lời thuyết phục ba nghĩ lại, nói ra sớm sợ mẹ không chịu đựng nổi. Nghe lời con mẹ lau nước mắt bình tĩnh nói, ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên, ông ấy đã không còn tình thương yêu với mẹ mà cố giữ thì giữ để làm gì. Rồi mẹ bảo lấy bút mẹ ký. Con nhắc là nếu ký thì sáng mai ra Ủy ban ký trước mặt họ rồi họ xác nhận chữ ký đóng dấu mới hợp lệ, giống như chữ ký ông Tư Xuyên có dấu xác nhận đây này…
Ông Nguyên sốt ruột cắt ngang lời Cường:
- Thế mẹ con ký rồi ư?
- Vâng, mẹ con bình thản lắm. Con cứ lo bà sẽ nằm bẹp sau cái quyết định đó, nhưng không thể hiểu được vì sao mà từ đấy đến nay, con thấy bà lại có vẻ khỏe mạnh hẳn ra, thỉnh thoảng cắp rổ đi chợ, chiều chiều hay sang hàng xóm chơi bời thăm thú, con mừng lắm bố ạ.
- Bà ấy đã xác định được tư tưởng, lại còn vững vàng tỏ rõ nghị lực hơn người, con phải mừng chứ làm sao lại buồn bã làm vậy?
- Con không buồn vì chuyện ly dị, mà buồn vì không làm thế nào để moi được nhiều tiền hơn từ cái lão già tệ bạc và keo kiệt ấy, ngược lại còn bị mất 2 cây vàng vào tay lão!
Ông Nguyên lại thêm một lần ngạc nhiên:
- Con nói thế bố không hiểu.
- Có gì khó hiểu đâu bố! Khi đã cầm tờ đơn ly dị có đầy đủ các loại chữ ký, con mới gọi điện vào cho ông Tư Xuyên cho biết mọi việc đã xong, tờ đơn hợp lệ tôi đang cầm trong tay đây, ông muốn có nó thì phải có điều kiện. Điều kiện gì, ông hỏi. Con mới trả lời là mẹ Lan ốm nặng không có tiền chữa thuốc, tôi không có phương tiện chạy chợ kiếm tiền nuôi mẹ, ông phải lo cho đủ thì tôi đưa giấy liền. Lại hỏi đủ là thế nào? Con trả lời ngay là 5 cây vàng thuốc thang và nuôi dưỡng mẹ Nguyễn Thị Hương Lan, và chiếc HONDA 67 ba Huỳnh Tịnh Xuyên đang đi sang tên ngay cho con trai Huỳnh Minh Cường. Nghe con nói vậy ông chửi qua điện thoại rằng con là thằng bất hiếu, ngần ấy của giết ai cho ra? Con mới bảo không nói dài tốn tiền điện thoại, không đủ thì kiếm cho đủ, khi nào đủ thì nói chuyện tiếp, tôi cúp máy đây. Ông vội van nài, chiếc 67 tao đồng ý sang tên với danh nghĩa tặng cho con trai, còn vàng chỉ có 2 cây thôi. Kém một cây tôi cũng đốt luôn tờ giấy! Thấy con cương quyết ông mới khóc nấc lên rồi đồng ý nâng lên 3 cây. Chẳng hiểu vì sao lúc ấy con lại thấy thương xót cho ông ấy quá. Một đời oanh liệt vào sinh ra tử chiến công lẫy lừng, thế rồi chỉ vì sự giầu sang và địa vị mà trở thành con người hèn mạt tham vàng bỏ ngãi. Nghĩ vậy nên con đã đồng ý và hẹn đúng ngày… giờ… ông đem xe máy có đủ giấy cho tặng hợp lệ cùng với số vàng đã hẹn, hai người sẽ gặp nhau ở Ban Thống Nhất Trung ương phố Quốc Tử Giám Hà Nội. Trước khi cúp máy ông còn đe con, nếu sai hẹn thì ông sẽ bắn bỏ!
Đến đây ông Nguyên mới thở phào:
- Như thế thì anh còn phải quá nặng nề làm gì!
- Thì con đã nói với bố rồi, con mừng cho mẹ con là đã dứt điểm được một việc lình xình, nhưng chỉ buồn là vì, thứ nhất có một ông bố mình luôn tự hào nay hóa ra lại là một con người tồi tệ, thứ hai, buồn vì trong một lúc mềm lòng mà để rơi mất 2 cây vàng. Đau hết cả người bố ạ! Bố có biết không, con thừa hiểu hoàn cảnh ông ấy lúc này vàng là cứ phải hàng hộp bích quy, bản thân cái chức Trưởng ty đã ăn đủ, rồi mụ vợ già Trương Thị Tợ chủ một khách sạn và một nhà hàng lớn ở trung tâm thành phố, giầu thế mà cũng có chứng nhận hoạt động cách mạng nội thành, mấy người con riêng của ông đều đi làm và giữ những vị trí ngon lành trên thành phố. Con cá lớn thế mà để tuột mất trong khi mình là một chuyên gia bắt cá! Con buồn là buồn như thế, mà hận là hận ở chỗ ấy bố ạ.
Ông Nguyên nửa như an ủi nửa như động viên:
- Bố rất thông cảm và mong được sẻ chia nỗi buồn chia ly này với con. Được sống trong một gia đình sum vầy hoà thuận là mong ước của tất cả mọi người chúng ta. Nhưng con hãy noi gương sống của mẹ con, giữ người ở lại chứ không thể giữ được người quyết chí ra đi. Mẹ con đã nghĩ được như thế và dũng cảm cắt đi cái khối tình bất hạnh, tuy là rất đau đớn nhưng cùng với thời gian mọi vết thương cũng sẽ lành lặn dần. Con còn trẻ, tương lai còn rất dài, lại có mẹ sống bên cạnh, đấy là niềm hạnh phúc và an ủi lớn nhất của con. Hãy làm tất cả những gì có thể làm để bù đắp cho mẹ, an ủi mẹ. Cuộc sống mẹ con tới đây thật sự có được thanh thản vui tươi và hạnh phúc hay không sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào con, hãy nhớ và cố làm bằng được điều đó. Còn với Tư Xuyên, dẫu có thế nào thì đó vẫn là người cha của con. Bố tin chẳng ai nắm chặt tay được từ tối đến sáng, thế nào rồi cũng có lúc ông ấy nghĩ lại. Con hãy để dành một khoảng trống không có hận thù trong trái tim mình đợi khi ông ấy cần đến quay về trú ngụ. Trái tim con người nhỏ bé lắm, nếu để hận thù trùm lấp thì còn chỗ nào dành cho tình yêu thương, chí khí, lòng quả cảm và nghị lực vươn lên phía trước. Bố nói thế con có hiểu không Cường?
Cường hai tay rung rung cầm tay ông Nguyên và đôi mắt ngấn ngấn nước:
- Con cảm ơn bố, ngoài mẹ con ra thì bố là người thương con và hiểu thấu lòng con nhất trên cõi đời này. Con thật may mắn vì ông trời đã cho con được gặp bố. Con thấy yên tâm nhiều lắm và không còn day dứt về cuộc chia ly của ba mẹ con nữa. Cũng nhờ có bố mà con đỡ thấy khinh ghét và căm thù ba con hơn. Nghĩ lại cũng thấy tội nghiệp thay cho Huỳnh Tịnh Xuyên...
*
Làng Sòi, một làng quê nhỏ bé, tiếng là vùng biển nhưng lại thuần nông, một ngôi làng yên tĩnh với nếp sống thuần phác và giản dị trôi đi một cách êm ả và chậm rãi, đến mức trai gái trong làng có thời đã ví làng mình giống như một mảnh đất bị bỏ quên ở nơi tận cùng thế giới. Ấy thế mà từ ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, cái không gian và nếp sống tĩnh lặng ấy bỗng nhiên như bị đánh thức trở dậy.
Thoạt đầu là những anh bộ đội trở về sau cuộc chiến với chiếc ba lô to tướng nặng trĩu trên vai, kèm theo đó bao giờ cũng là một hai chiếc khung xe đạp mộc cầm tay. Những chiếc ba lô được mở ra giống như những túi quà ông tiên trong câu truyện cổ tích, để từ đấy mà lần đầu tiên dân làng biết được thế nào là cái đài bán dẫn, cái máy catxet, chẳng phải dây dợ gì mà cứ oang oang suốt cả ngày khi thì hát hò, lúc lại tin tức, làng trên xóm dưới thôi thì cứ rộn rã ngày đêm như là mở hội. Những đứa bé gái lần đầu tiên trong đời được ôm những con búp bê bằng nhựa tái sinh, mặt xinh như vẽ, tóc vàng như tơ, mắt nhắm mắt mở xanh biếc như phẩm màu hồ thủy của bà thợ ruộm Hai Thắm chợ Sòi. Còn lũ con trai thì chết mê chết mệt với những chiếc ô tô xe máy bằng nhựa xanh đỏ, hễ mỗi khi lên dây cót mà buông tay ra là chúng chạy cứ gọi là thục mạng.
Những người lính chiến đấu xa nhà hàng chục năm bặt vô âm tín, nay trở về chững chạc trong bộ quần áo ka ki dầy dặn màu cứt ngựa, tay đeo đồng hồ Thủy quân lục chiến của Nhật che lấp cổ tay, gặp nhau chào hỏi đa đá chút giọng Xà Goòng với những câu chuyện trận mạc ly kỳ còn hơn cổ tích. Rồi thì những chiếc khung xe mộc mạc, chỉ sau vài buổi mang lên phố huyện, lúc quay về bỗng hóa thân thành những chiếc xe đạp óng ánh sắc màu như vừa mới được dắt ra từ những câu chuyện cổ tích, cứ thế chạy bon bon khắp cả làng trên xóm dưới.
Thế hệ thứ hai những người trở về là những sĩ quan. Tư trang, của nả của họ không ồn ào như những người lính, họ đi lại trong làng không phải những chiếc xe đạp sơn xanh sơn đỏ mạ kền bóng nhoáng, mà là những chiếc xe Honda chạy êm không có tiếng động, êm đến mức nhiều cụ già đang đi trên đường làng bỗng thấy chiếc xe màu xanh nõn chuối vượt lên trước mặt đánh vèo một cái, mới giật mình nhẩy cẫng lên y như bị chó cắn trộm.
Thế hệ thứ ba, cứ tạm gọi là thế, góp phần vào công cuộc đánh thức giấc ngủ dài của làng Sòi, lại là lũ thanh niên mới lớn, chưa một ngày cầm súng, học hết trung học nhưng trượt đại học, trượt trung cấp, không phải đi lính nên chỉ còn nước ở nhà chạy chợ. Chạy chợ những năm tháng đất nước hoà bình thống nhất không đơn thuần chỉ là gánh rau từ nhà lên chợ huyện, mà nay đã có những người biết mang hàng từ Bắc vào Nam, rồi lại từ Nam ra Bắc. Những người chạy chợ thế hệ này mới là những người góp phần làm thay đổi bộ mặt làng Sòi nhanh chóng nhất. Họ ăn mặc theo lối mới, quần loe ống bó, áo chiết ly in hoa như áo con gái, áo phông sặc sỡ chữ Anh. Nói năng to tát, từ ngữ mới mẻ, ví von lạ lùng, hết sẩy con bà Bẩy, hết ý con bà Tý. Xấu hổ thì bảo mắc cỡ, béo gầy chuyển thành mập ốm, con lợn gọi là con heo, mà con ngan thì cứ vịt Xiêm mà gọi… Nhưng cái thấy rõ nhất là những chiếc xe. Những chiếc xe họ đi mới oách làm sao! Không phải xe đạp thế hệ thứ nhất, cũng chẳng phải Honda 50 màu nõn chuối thế hệ thứ hai, mà là những chiếc Honda 67, 68, Lambro, Vespa Spring… khi đã nổ máy thì ai cũng biết đường mà tránh từ xa, bởi những tiếng nổ phành phành như tiếng tiểu liên xả đạn có thể vang vọng tới nửa cây số. Trong khi người dân trong làng đã bắt đầu nhận ra những cái bất tiện của sự thay đổi, thì giới trẻ lại tỏ ra ngày càng ngưỡng mộ và thích thú, đặc biệt là sự ngưỡng mộ dành cho những chiếc xe thế hệ thứ ba này.
Trong những chiếc xe được ngưỡng mộ như thế thì chiếc Honda 67 của thằng Cường con nhà miền Nam lại là chiếc đứng đầu bảng. Bọn trẻ mới lớn trong làng truyền tụng như thế. Chiếc xe có nước sơn đen bóng lúc nào cũng sạch như ly như lau không một hạt bụi. Mọi thứ phụ tùng trên xe từ yên da cho tới vành bánh, săm lốp, ghi đông, xi nhan đèn hậu… đều hoàn hảo như mới. Đặc biệt là tiếng nổ của máy. Không chát chúa bẹt dí như tiễng gõ kẻng, mà ở đây nghe như thấy rõ tiếng hơi bị dồn nén trong xilanh rồi bỗng nhiên được thoát ra ngoài ống bô, không phải xổ ra tất cả một lúc, mà chỉ từng ngụm, từng ngụm hơi một mà thôi. Cường giải thích cho những con nhang đệ tử trong giới chơi xe của làng: “Chúng mày có biết Honda nghĩa là gì không? Honda theo tiếng Nhật cổ là Hẩu Tơ, Hẩu Tơ có nghĩa là tiếng nổ trên không. Đó là hình ảnh của ông Thiên Lôi đi mây về gió mỗi khi giơ búa tầm sét chém xuống lia lịa. Mà trong dòng Honda thì con 67 loại này là đạt trình độ Hẩu Tơ hơn cả!”. Lũ thanh niên mới lớn trong làng chỉ còn biết rụt đầu lè lưỡi bái phục và mơ ước.
Nhưng điều chúng nó bái phục ở Cường nhiều hơn cả không phải chỉ là con 67 đẹp long lanh ấy, mà lại chính là điều kể từ ngày nó bỏ công việc làm ruộng cổ cày vai bừa trong hợp tác xã để tìm được đường dây buôn chuyến Bắc Nam, thì xem ra cậu cả ngày càng tỏ ra khá giả và chững chạc hẳn lên. Ra đường một bước là xe máy một bước, quần áo thì chỉn chu mùa nào thức ấy, ăn nói lại từ tốn ý tứ dễ nghe. Những vụ trộm gà cắp chó trong làng đã vãn hẳn đi, mà nếu có thì không ai còn nghi ngờ tới Cường. “Nó đã đi buôn Xà Goòng, tiền tiêu như nước, nhà cửa tu sửa to như cái đình thì có mà điên mới đi ăn trộm vặt. Trộm vặt bây giờ chắc chỉ con nhà Thống Mân!”. Dù có thế nào đi chăng nữa thì vẫn không ít đứa trước mặt là cứ một điều đại ca hai điều đại ca, nhưng chỉ sểnh một cái là lại tìm cách chê bai nói xấu sau lưng, nhất là những đứa trước đây từng bị Cường bắt nạt: “Chẳng qua là lão bố miền Nam quyền cao chức trọng lại được mụ vợ già giầu có của lão hợp sức tắc tế nên thằng Cường mới được ăn thừa tự lớn đến thế. Mà khi đã có tiền rồi thằng chó nào mà chẳng ăn nói từ tốn, đi lại ung dung, đối xử lịch sự. Chứ tài cán đếch gì cái ngữ thằng ấy!”.
Cường nghe được tất cả, biết được tất cả. Giá như những ngày trước thì đã có chuyện, nhưng bây giờ thì thây kệ. Biết thế để hiểu lòng người hơn mà cẩn thận đề phòng, thế thôi. Vả lại trong cách giải thích này, Cường còn tìm thấy sự thú vị khác trong cái im lặng của mình. Ấy là chẳng ai biết một tí gì về mối quan hệ bố con giữa Cường với ông Nguyên, ngay cả mẹ mình nó vẫn còn giấu. Bởi thế mà cũng không ai có thể hiểu được những ảnh hưởng to lớn của ông tới sự thay đổi tâm tính của nó. Cứ để cho thiên hạ họ muốn hiểu thế nào thì hiểu, khen chê thế nào cũng mặc xác họ, miễn là mình cứ sống theo cách mình cho là chuẩn là đúng, chuẩn và đúng như những lời khuyên bảo cũng như cách sống trong sạch, trung thực và độ lượng của ông bố nuôi mà từ lâu Cường đã coi như chỗ dựa tinh thần của mình.
Có lần ngồi một mình ở thềm hè, Cường bỗng thừ người ra. Hình ảnh của hai người đàn ông, một là ông bố đẻ, một là ông bố nuôi lại cùng trở về trong suy nghĩ. Giá mà hồn xác hai con người này lại có thể đánh đổi cho nhau, để cho cái tâm hồn và nhân cách của ông Nguyên được sống trong cái thân xác của ông Tư Xuyên thì mẹ mình đỡ khổ bao nhiêu! Nghĩ rồi Cường lại tự cười vào mũi mình. Ôi dào, chuyện vớ vẩn. Đây là cuộc sống chứ có phải sân khấu hay chuyện cổ tích quái đâu mà biến mới chả hóa. Vả lại mình là một thằng con trai đầu đội trời chân đạp đất chứ có phải một con cua bấy nằm bẹp dí một góc ruộng để mà tưởng tượng ra những điều nhảm nhí đâu cơ chứ. Cường vùng thoát ra khỏi những ý tưởng vẩn vơ để trở lại với những điều trăn trở rất thật về mẹ mình.
Những ngày còn ở nhà làm ruộng bữa rau bữa cháo đã đành, nhưng hai mẹ con lúc nào cũng được ở gần nhau. Những khi mẹ trái nắng trở trời Cường gác tất cả mọi việc trên đời để săn sóc hầu hạ chẳng khác nào đứa con gái lớn hầu mẹ. Những lúc như thế bà mẹ nước mắt lưng tròng mà rằng: “Mẹ thật đoảng vị, đã chẳng giúp được gì mà lại chỉ làm vướng chân con. Giá như con có vợ thì thuận biết bao nhiêu!”. Nghe mẹ nói Cường bảo: “Con sẽ lấy vợ nhưng phải tìm được người thật sự thương yêu mẹ, nếu không thì thôi, con hầu mẹ cả đời!”.
Hoàn cảnh túng bấn, hai mẹ con Cường đã làm đơn xin phép xã cho được trở lại làm nghề lang chữa bệnh tại nhà nhưng không được, ông Nuôi Chủ tịch xã giải thích, nền sản xuất nhỏ của tư nhân với tiểu thương là từng ngày từng giờ đẻ ra Chủ nghĩa Tư bản nên phải cấm tiệt! Khó khăn túng bấn chẳng biết xoay xở cách nào, nên từ khi dành được ít dấn vốn từ tay người cha vô trách nhiệm, Cường đã xin phép mẹ cho mình tìm đường buôn chuyến Bắc Nam. Cũng chỉ vì sinh kế mà Cường phải nay Hà Nội mai Sài Gòn, tuy rằng mẹ đã vui vẻ khỏe mạnh hơn trước, đã đủ sức theo với công việc ươm tơ dệt lụa của hợp tác, nhưng những ngày xa mẹ Cường lúc nào cũng khắc khoải lo âu và canh cánh nhớ thương. Hình ảnh của người phụ nữ yếu đuối mảnh dẻ như một cây bạch đàn luôn gợi lên trong tâm trí Cường một nỗi xót xa chua chát về thân phận và cuộc đời bất hạnh của mẹ, mà chỉ sau khi chia tay với ông Tư Xuyên mẹ mới một lần duy nhất kể lại cho Cường nghe.
*
Bà ngoại Cường vốn là người ăn kẻ ở trong nhà ông Lý Chương, được ông đem về nuôi từ lúc còn là cái Lụa mới hơn mười tuổi. Lụa lớn lên dần trở thành một cô gái đẹp hay lam hay làm lại nết na lời ăn tiếng nói. Anh Giáp tá điền nhà ông Lý, một chàng trai khỏe mạnh hiền lành mồ côi cả cha lẫn mẹ hơn Lụa hai tuổi đã lọt vào mắt xanh của Lụa. Hai người đã ngấm ngầm thề thốt chuyện trăm năm. Nhưng rồi cả hai chưa tính được cách nào để xin ra khỏi nhà ông Lý, thì Giáp đã bí mật chia tay người yêu để bỏ làng đi theo anh em hoạt động trong một hội kín. Đêm chia tay anh nói với Lụa cố gắng đợi chờ, chẳng mấy lúc cách mạng thành công anh sẽ về cưới Lụa làm vợ. Một năm, hai năm trôi đi chẳng có tin tức gì của Giáp. Trong khi đó bà vợ cả của ông Lý ngã bệnh mất từ lâu, mấy người con nay cũng đã khôn lớn, ông Lý có ý định tục huyền nhưng chưa tìm được người hiền thục ưng ý. Thực ra trong bụng ông đã có ý nhắm cô Lụa từ lâu, nên khi ướm hỏi ba người con trai thì chúng đều phản đối, cho rằng không tương xứng với hoàn cảnh và địa vị của ông. Ông Lý mới thử đi xem bói của lão Tý Chuột đầu làng. Tý Chuột bốc quẻ rồi phán: Được! Nhận tiền xong Tý Chuột kéo ông Lý sát vào mình thì thào bầy cách đem chia bớt của cho lũ con cái, thế nào chúng nó cũng thuận. Ông Lý làm đúng như kế của lão thầy bói mù thế mà được.
Rồi ông ngỏ lời lấy cô Lụa. Lúc này Lụa mới thú hết chuyện mình với anh Giáp. Ông Lý bảo theo hội kín, Tây bắt được nó chém cả ba họ. Tháng trước dưới Duyên Hải, Tây nó chả chém năm người hội kín Cộng sản rồi bêu đầu ngoài chợ đó thôi! Chẳng khéo mà thằng Giáp cũng nằm trong số đó chưa biết chừng. Nghe chuyện Lụa rùng mình, cuối cùng thuận lòng lấy ông Lý Chương. Năm ấy ông Lý tròn năm mươi còn cô Lụa mới có 19. Lấy vợ xong ông chỉ giữ cho mình 2 mẫu ruộng, 5 sào vườn, làm một cái nhà ngói năm gian hai chái lên đấy để ở, còn thì cơ ngơi dinh dẫy, ruộng đất mấy chục mẫu chia hết cho ba đứa con. Ông Lý cũng giữ lại ông Bõ, một lão lực điền giúp ông chăm sóc ruộng vườn, còn thì hai vợ chồng chuyên chú vào nghề làm thuốc, cái nghề gia truyền từ nhiều đời tới nay vẫn còn giữ được. Năm sau cô Lụa sinh cho ông một mụn con gái, ông quý hơn vàng. Khi đặt tên con ông nghĩ đến những đóa hoa lan cánh mỏng như cánh bướm, e ấp lan tỏa mùi hương thanh khiết mỗi buổi sớm mùa xuân, mà trên những khóm trúc quanh vườn ông đã sưu tầm và treo rải rác lên đó có tới cả trăm giò lan quý hiếm. Ông đặt tên Hương Lan để muốn tôn vinh cái sự cao quý của cô con gái rượu và cũng là một sự mong ước về cuộc sống phong lưu thanh nhàn bên một người chồng quân tử thẳng thắn như cây trúc của con gái sau này.
Khi Hương Lan được 5 tuổi thì mẹ mất. Ông Lý, mà lúc này người làng đã gọi là ông Lang Chương, ông không lấy vợ mà ở vậy nuôi con. Năm sau Cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến chống Pháp, làng Sòi lập tề. Tây mời ông ra làm lý trưởng, ông từ chối với lý do tuổi già sức yếu. Hương Lan càng lớn càng giống mẹ. Ông Lang thương con gái đến xót xa cõi lòng, ông dồn tất cả thời gian công sức vào việc nuôi dưỡng, dạy dỗ con. Hết năm này qua năm khác, sáng nào cũng như sáng nào, ông lai xe đạp đưa con gái lên học trường huyện, đợi đến khi tan học lại đưa con về. Buổi chiều hai cha con quay vào làm thuốc. Ông giảng giải cho con những kiến thức cơ bản về y lý, y thuật, tính chất và công dụng của các vị thuốc, cách chữa trị một số bệnh mang tính gia truyền của dòng tộc… Lan thông minh sáng dạ học đâu nhớ đấy, dần dần bố mới cho tập sự bắt mạch kê đơn bốc thuốc. Năm 1954 Lan bước vào năm thứ nhất trung học thì hoà bình lập lại, ông Lang bảo con gái thôi không học nữa.
Năm 1955 làng Sòi cải cách ruộng đất, ông Lang lúc ấy đã ngoài sáu lăm, làm thuốc đã mười lăm năm có lẻ, thế nhưng tin tức đồn đại trong làng dồn dập bay đến tai ông, Lang Chương phen này khó mà tránh khỏi thành phần địa chủ dù cho ruộng đất nhà cửa đã chia hết cho các con! Ông Lang mất ăn mất ngủ về những tin đồn kiểu ấy. Hương Lan lúc ấy chưa đầy 16, đẹp như một bông hoa lan mới nở, nhan sắc nức tiếng cả vùng. Một lần Đoàn ủy cải cách của huyện về Sòi kiểm tra, anh đoàn trưởng người miền Nam, chỉ vô tình trông thấy Hương Lan mà đã chết mê chết mệt. Mấy hôm sau đội trưởng cải cách làng Sòi gọi ông Chương lên. Chẳng biết có chuyện gì, chỉ thấy ông về nhà mặt buồn rười rượi rồi gọi con gái vào nhà trò chuyện. Là chuyện gì cũng không ai rõ, chỉ thấy ông khóc nấc lên, rồi Hương Lan nước mắt đầm đìa gật gật đầu gục vào vai bố. Sang tuần sau, chẳng cưới xin gì, cô Lan theo chồng lên sống trên phố huyện. Chồng chẳng phải ai xa lạ mà chính là anh đoàn trưởng người miền Nam đã phải lòng cô Lan từ lần về Sòi kiểm tra tuần trước. Ông Lang Chương ở lại nhà, viết đơn tự nguyện hiến cho làng mẫu rưỡi ruộng với ba sào vườn, chỉ giữ lại 5 sào ruộng với 2 sào vườn cho mình. Nhờ vậy mà khi phân loại thành phần, ông được xếp hạng trung nông lớp trên. Nhưng mấy người con trai của ông đều bị quy địa chủ hết. Cũng vì chuyện ấy mà sau này chúng cứ hận ông mãi, chúng cho rằng vì ông chia hết ruộng nương tài sản mà ông thoát địa chủ để rồi chúng phải gánh tội thay ông. Người làng nghe chuyện họ chỉ cười mà chửi rằng đúng là lũ con thất tộc, tim la đổ cho trâu! Cũng từ đấy chúng giận mà bỏ mặc ông không thèm đi lại.
Làng Sòi trong cải cách lúc nào cũng cứ sôi lên như đang trong một lò lửa rừng rực căm thù. Ông Lang vẫn sống cô quạnh trong ngôi nhà cũ, đã được chứng kiến bao sự đổi thay của cái làng bé nhỏ này. Đến khi sửa sai, một cuộc trả thù lẫn nhau lại làm cho ngọn lửa hận thù một lần nữa ngùn ngụt bốc lên bao trùm cái làng tội nghiệp. Nhưng lửa gì thì lửa, cháy mãi cũng phải lụi tắt. Làng Sòi yên tĩnh trở lại. Sự thanh bình phiêu dạt bấy lâu nay cũng lại từng bước tụ về. Và khi Cường lên năm thì mẹ Hương Lan dắt con về sống với ông ngoại trên mảnh vườn xưa. Anh Đoàn trưởng cải cách của huyện không làm ở huyện nữa mà chuyển lên Trung ương, thỉnh thoảng mới chớp nhoáng đảo nhoàng ghé qua nhà một buổi. Thời gian này là những tháng ngày hạnh phúc nhất của ông Lang. Bố con, ông cháu quây quần bên nhau, cháo cơm thì đạm bạc nhưng tiếng cười thì không lúc nào ngớt trong mảnh vườn thanh bình đó. Đã từ lâu lắm rồi, hình như từ hồi cải cách, nghề lang y tư nhân cũng như mọi ngành nghề thủ công gia đình khác đều cấm không được hoạt động. Hai bố con ông Lang làm việc trong hợp tác xã, bố làm ruộng, con ươm tơ dệt vải, công sá chẳng được bao nhiêu nhưng cũng đủ rau cháo qua ngày. Được vài năm sống trong hạnh phúc êm đềm cùng con cháu thì ông Lang qua đời.
Cường lớn lên bên mẹ, mau ăn chóng lớn, cao to như một lực điền, nhưng cũng lêu lổng ngang tàng nổi tiếng. Bọn trẻ cùng trang lứa trong làng sợ một phép, phần vì sức khỏe và sự liều lĩnh của Cường, phần vì cái thanh thế ông bố là cán bộ miền Nam, có quyền có chức lại được ưu tiên ưu đãi đủ thứ trên đời, chẳng ai dại gì mà dây vào cho mệt.
Cuộc đời của Cường chắc rồi cứ thế mà phát triển theo lối hoang dã như cây cỏ bờ bụi bãi sông, nếu không có cuộc gặp định mệnh đêm củ mật trong chái bếp ngôi trường Song Yên hồi giáp Tết. Cho dù là một gã trai hư hỏng, nhưng may mắn thay, với bản chất nhân hậu cộng với trí thông minh sáng dạ thừa truyền từ người mẹ, mà Cường đã mở lòng phục thiện rất nhanh, khi nhận ra những đức tính cao đẹp ẩn chứa trong thân phận và địa vị thấp kém của một người tù trở về như ông Hoàng Hữu Nguyên, để từ đó mà bắt đầu một cuộc đổi đời thầm lặng.
*
Nếu có ai tinh ý một chút thì sẽ nhận ra một điều, mặc dù đã sống ở làng Sòi được gần hai năm nhưng chưa khi nào ông Nguyên lại đến thăm bất cứ một ai trong làng, kể cả ngày dưng lẫn ngày Tết, kể cả những người ông coi là ân nhân như cô giáo Thà. Duy chỉ có nhà ông Hổ ngoài phố chợ là ông Nguyên có thỉnh thoảng ghé qua biếu mớ rau hay cân cà mỗi khi gánh rau ra chợ bán. Rồi việc người đến thăm cũng thế, ông không muốn, hay nói đúng ra là cũng không dám, bởi Trưởng công an Phí Văn Thệ đã một lần nhắc nhở việc ông mở cổng ngoài giờ cho thằng Cường con nhà miền Nam vào trường không biết để làm gì? Ông phải nói thác ra là từ trước đến nay nó vẫn cứ tự động trèo tường lấy củi, cấm cũng không được nên mới đành mở cổng cho nó ra vào, nhưng giao hẹn củi lấy được phải chia đôi mỗi người một nửa. Nghe chuyện Thệ không nói gì, ông Nguyên hiểu như thế cũng có nghĩa là đồng ý, bởi vậy từ đấy Cường mặc nhiên được ra vào lui tới trường gặp ông Nguyên. Trường hợp thứ hai ông Nguyên được đón khách và tiếp đón tại chỗ, ấy là dịp hai người em họ con ông chú ruột sống bên Nam Bình, sau nhiều lần làm đơn xin phép thì ba anh em đã được gặp gỡ, ăn uống với nhau một bữa cơm tại trường vào một ngày chủ nhật.
Chính vì những sự ngặt nghèo phiền phức như thế, nên ngay cả với Cường ông cũng bảo khi nào hết hạn quản thúc 5 năm, có quyền công dân đầy đủ, được đi bầu cử như mọi người, đến lúc ấy ông mới có thể đến thăm mẹ con Cường được.
Nhưng rồi đã xẩy ra một chuyện không cần phải đợi đến ngày có quyền công dân đầy đủ, mà chỉ mới đây thôi, ông Nguyên đã phải vội vã đến nhà Cường mà không có một chút phân vân ngại ngần nào cả.
Sáng sớm chủ nhật hôm ấy ông Nguyên đang lúi húi trong vườn cắt bắp cải định để tí nữa gánh ra chợ bán thì bỗng nghe thấy tiếng hú ám hiệu quen thuộc. Ông hấp tấp chạy ra cổng thì Cường đã nói vọng từ xa:
- Bố mặc quần áo rồi ra đây con đèo sang nhà có chút việc gấp.
Trong bụng ông Nguyên thầm đoán chắc mẹ Cường bị ốm đau chi đây, nên chỉ một loáng ông đã mở cổng bước ra rồi leo lên xe máy của Cường. Đến lúc này ông mới hỏi:
- Chắc là mẹ Lan con ốm nặng đúng không?
- Vâng đúng thế, mẹ con bị sốt mấy hôm nay, sáng sớm con cho uống viên thuốc cảm chẳng hiểu sao mẹ bỗng lạnh toát rồi người cứ thỉu ra, bất động. Bố sang giúp con để cùng đưa mẹ đi cấp cứu trên bệnh viện huyện.
Vào nhà Cường trình bầy với ông Nguyên cách thức chuyên chở bệnh nhân, một là buộc càng xe cải tiến vào đuôi Honda, bố ngồi ôm mẹ trên thùng xe để Cường lái, hai là Cường lái xe ngồi trước, mẹ trùm chăn ngồi giữa, bố ngồi sau cùng vòng tay ôm mẹ rồi bám chặt vào người Cường. Ông Nguyên quyết định chọn cách hai, hơi khó ngồi một tí nhưng đi nhanh, không bị xóc, đường rộng hẹp thế nào cũng đi được. Theo cách ấy chỉ nửa tiếng sau bà Lan đã được đưa vào phòng cấp cứu bệnh viện đa khoa của huyện. Ngay lập tức bệnh nhân được đo huyết áp, nghe tim mạch, cặp nhiệt độ. Ông bác sĩ lật áo rồi kéo quần bệnh nhân lên xem, từng mảng da ở đùi, ở cánh tay, ở lưng chuyển sang màu tím như đổ chàm, ông lắc đầu thở dài:
- Bị sốt xuất huyết nặng quá, ở nhà ông cho bà ấy uống thuốc cảm phải không?
Cường đứng cạnh nhanh nhảu đỡ lời:
- Vâng cả ngày qua mẹ cháu sốt cao cháu cho uống ba viên thấy đỡ, sáng nay lại uống viên nữa, uống xong một lúc thấy mẹ cháu toát mồ hôi rồi lạnh toát khắp người và không biết gì nữa.
Ông bác sĩ gọi một cô y tá ra lệnh tiếp nước ngay cho bệnh nhân, đoạn quay sang nói với hai bố con Cường:
- Cũng may cho hai bố con ông, chứ chậm nửa tiếng nữa thì có mà Hải Thượng Lãn Ông sống lại cũng phải bó tay.
Đêm hôm ấy Cường đưa ông Nguyên về trường rồi mình quay lại bệnh viện trông nom săn sóc mẹ. Đêm hôm sau cũng thế. Hai ngày hai đêm thức trắng hầu mẹ, khỏe như Cường mà cũng thấy gầy rộc, hốc hác bơ phờ, ngồi đâu ngủ gật đấy. Thấy vậy ông Nguyên mới phân công sắp xếp thế này: Ban ngày Cường ở bệnh viện chăm mẹ, ông làm việc ở trường. Ban tối thì mỗi người trực một hôm.
Bà Lan nằm trên giường bệnh mê man bất tỉnh, phục hồi rất chậm. Những lần ở lại trực, ông Nguyên bao giờ cũng thức trắng cả đêm. Trong những giấc ngủ thiêm thiếp miên man, bất cứ một động tĩnh nào từ phía bà cũng được ông kịp thời săn sóc, theo dõi tiếp nước, bón cháo, uống nước chanh, bóp trán, đi tiểu… thậm chí có những lúc ông phải ngồi lên giường ôm lưng cho bà dựa vào người mình hàng tiếng đồng hồ cho dễ thở. Cả bệnh viện từ bác sĩ, y tá cho đến bệnh nhân ai cũng khen bệnh nhân Lan tốt phúc vì được chồng và con trai hầu hạ nâng giấc có một trên đời!
Nửa tháng sau bà Lan mới tỉnh lại. Cũng may lúc bà tỉnh thì cũng là lúc đầu giờ sáng sớm Cường vào viện để đón ông Nguyên về trường làm việc, nên khi thấy một người đàn ông lạ đang thay áo cho mình, còn con trai đứng cạnh đang thu dọn sắp xếp chăn màn, phản xạ đầu tiên của bà là hốt hoảng kéo chăn lên tận cổ che kín người, thấy vậy Cường hiểu ý vội ghé tai mẹ nói nhỏ:
- Mẹ ơi đây là bố Nguyên của con, người đã giúp đỡ cho con rất nhiều thứ cả vật chất lẫn tinh thần mà con đã có lần kể với mẹ nhưng còn giấu tên. Hai bố con con đã nhận nhau là bố con từ lâu nhưng chưa tiện cho mẹ biết nên hôm nay mới để mẹ phải khó xử, đấy là lỗi của con, con xin lỗi mẹ.
Bà Lan vẫn chưa hết bối rối và ngượng nghịu, bà vẫn giữ chặt mép chăn che người chỉ lắp bắp được mấy câu:
- Vâng… cảm ơn… ông!
Cường nhanh nhẹn thay ông Nguyên mặc áo cho mẹ rồi âu yếm nói tiếp:
- Mẹ có biết không, mẹ bị hôn mê mất nửa tháng, trong suốt thời gian ấy ban ngày thì con ở đây trông mẹ, nhưng ban đêm thì hai bố con con thay nhau mỗi người một đêm. Bố con săn sóc mẹ tỉ mỉ chu đáo còn hơn cả con trai mẹ. Xin mẹ đừng để ai trong bệnh viện biết chuyện này, cứ coi đây như bố đẻ con mẹ nhé!
Bà Lan nghẹn ngào không nói được câu nào, bà nắm tay ông Nguyên từ từ nhắm mắt lại, rồi cứ thế để cho nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt mình.
15. Lấy chồng cho mẹ
Trước khi sang nhà bà Lan ăn giỗ cụ Lang Chương, ông Nguyên vẫn cứ nghĩ mẹ Cường cũng chỉ là một người phụ nữ nông thôn chất phác hiền lành, yêu chồng thương con, rồi khi gặp phải hoàn cảnh éo le bị chồng phụ bạc thì lại âm thầm chịu đựng, dồn tất cả tình cảm và hy vọng vào đứa con trai duy nhất, giống như bao người đàn bà nông thôn khác. Ông nhớ lại trong những câu chuyện trước đây đôi khi Cường có nói về mẹ mình, nhưng chưa khi nào kể về gia cảnh, tuổi tác, hình thức, học vấn của bà. Rồi trong những buổi đêm hôm trông nom săn sóc bà ở bệnh viện, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn điện vàng như đom đóm, hình ảnh của bà chỉ phảng phất bất động như một chiếc bóng nhỏ bé lẫn vào đống chăn gối. Đôi khi ông phải bế ẵm, ôm ấp bà, những đụng chạm thân thể giữa hai người chưa khi nào gợi lên trong ông một chút rung cảm của sự khác giới. Tận đáy lòng mình ông chỉ nghĩ đây là mẹ của Cường, một người con trai mà ông yêu thương bởi Cường yêu thương ông, tin cậy ở ông và cả hai mong nhận được ở nhau sự chia sẻ và bù đắp của tình phụ tử.
Ông Nguyên mặc một bộ đồ Âu, quần phăng vải Sơviôt, áo sơ mi màu cà phê nhạt mà Cường lấy số đo rồi cắt may tận trong Sài Gòn. Đắn đo có đến nửa tiếng đồng hồ giữa việc đi đôi dép lốp mang từ trại giam về, hay xỏ đôi dép da mới không quai hậu mà Cường mua từ Sài Gòn ra, cuối cùng ông đành phải chọn đôi dép da vì sợ làm ngược lại Cường sẽ không vui. Đôi dép lốp ấy ông nhớ đã mấy lần Cường định vứt bỏ nhưng ông không chịu vì cho rằng nó vẫn còn tốt, khi ấy Cường đã trêu chọc bảo rằng tốt thì tất nhiên là tốt rồi, bố có đi đến hết đời thì nó cũng chưa hỏng được cơ mà, nhưng thời buổi dép da dép nhựa này ai lại thế hả bố? Nó là thế đấy, hay bây giờ tụi trẻ chúng đều vậy cả, chịu không hiểu nổi!
Mấy chục năm rồi hôm nay ông mới lại ăn mặc thế này. Từ một cậu ấm công tử đất kinh kỳ, rồi sẩy chân rơi vào đội ngũ những kẻ quần manh áo xọc, nay đóng bộ thời trang quá mức tân kỳ, ông bỗng thấy vướng víu ngượng nghịu quá. Bước chân ra khỏi cổng mà cứ lo gặp phải người làng.
Vừa thấy bóng ông Nguyên Cường đã vội chạy ra đón, nó dừng lại giây lát ngắm nghía rồi làm điệu bộ diễn trò:
- Chào anh, anh hỏi ai đấy ạ?
Ông Nguyên mặt đỏ tía tai không biết nói gì trước trò tinh nghịch của Cường, vừa hay bà Lan từ trong nhà bước ra chào hỏi và mời ông vào nhà. Cường bước theo hai người, khi tất cả đã ngồi vào bàn uống trà cậu cả mới trịnh trọng thưa chuyện:
- Hôm nay là ngày giỗ ông ngoại con, lại cũng là lần đầu bố đến thăm nhà, con xin được giới thiệu đây là mẹ Nguyễn Thị Hương Lan người đã sinh ra và nuôi dưỡng con khôn lớn - rồi Cường giơ tay về phía ông Nguyên - còn đây xin giới thiệu với mẹ là bố Hoàng Hữu Nguyên, người không sinh ra con nhưng đã dạy bảo cho con nên người, biết đường biết nẻo tránh xa những thói hư tật xấu để trở thành người sống có ích với gia đình và tử tế với xóm làng. Hôm nay mẹ con con mời bố sang thăm nhà, trước là để bố thắp cho ông ngoại con nén hương, sau là để cho con được xin phép mẹ và kính báo lên ông bà tổ tiên chứng giám là con Huỳnh Minh Cường từ nay đã có một người bố trong gia đình này.
Ông Nguyên nhìn bà Lan như có ý xin phép được tiếp lời Cường:
- Thưa với bà cùng con trai, cũng là hoàn cảnh đưa đẩy mà hai bố con tôi gặp được nhau để rồi tình cảm yêu thương gắn bó như là ruột thịt. Cũng lại là vị cây dây cuốn, hôm nay được đến nhà thắp nén hương thơm nhân ngày húy kỵ ông cháu, một chút lòng thành không dám nói sai, quan hệ phụ tử tình thâm hệ trọng nhường ấy mà không thưa trước để bà cho phép, như thế là một sai sót rất lớn mong được bà tha thứ.
Bà Lan rưng rưng cảm động hết nhìn ông Nguyên lại nhìn sang con trai, rồi từ từ cúi xuống nói nhỏ:
- Thưa với ông, thằng cháu Cường nhà em số phận mới thật hẩm hiu, có bố mà lại như đã mồ côi. Không được người kèm cặp bảo ban nên cháu có lớn mà không có khôn, một dạo đã từng gây ra không ít điều tiếng với làng với nước. Nhưng rồi phúc đức nhà em vẫn còn chưa cạn. Kể từ khi trời Phật dun dủi cho cháu được gặp ông, cháu đã dần dần thay tâm đổi tính, biết ăn biết ở, biết kẻ trước người sau, dân làng cũng bớt đi nhiều phần trách móc, mà bản thân em dứt ruột đẻ ra cũng thấy mát lòng mát dạ tưởng như sống lại mười phần. Em thật vô cùng biết ơn ông đã coi cháu như con, hết lòng thương yêu dạy dỗ bảo ban nên người. Công ơn này đối với em thật còn hơn núi cao sông dài, không biết lấy gì để báo đáp. Sự thể đã là như vậy nên xin ông đừng nghĩ đến chuyện lời nói đến trước hay sau. Tình thương yêu ông dành cho cháu dù không một câu một chữ nói ra, nhưng tự nó đã nặng hơn tất cả mọi điều lễ nghi. Hôm nay được ông quá bộ ghé thăm nhà, thế đã là một niềm vinh hạnh lớn cho mẹ con em lắm rồi.
Một nửa đời người sống trong môi trường nghiệt ngã chỉ toàn những lời ra lệnh khắc bạc hay những câu chửi bới tục tằn, nay được nghe những lời nói ngọt ngào ấm áp tri ân từ miệng một thiếu phụ nhan sắc hơn người, tâm hồn chai đá nguyên thủy ông Nguyên như được một bàn tay mềm mại mát rượi vuốt ve để cho cái cảm giác êm đềm thư thái được dần sống lại. Chẳng những thế, với cách nói năng diễn đạt tuy giản dị mộc mạc, nhưng cũng không thể giấu được sự sâu sắc và ý nhị của người có học, được dạy dỗ bảo ban theo một khuôn phép gia phong, điều đó càng khiến cho ông cảm thấy nể trọng trong lòng. Ông từ từ đứng lên, hai tay đưa bà chai rượu và một túi hoa quả nói rằng, đây là một chút lòng thành mong được dâng lên những bậc tiền nhân. Bà Lan giơ hai tay đón nhận rồi chuyển cho Cường bảo sắp xếp lên ban thờ, sau đấy bà lùi lại nhường bước mời ông Nguyên ra gian giữa thắp hương.
Mới chỉ chưa đầy một tháng kể từ hôm ở bệnh viện trở về mà bà Lan đã như trở thành một người khác hẳn. Gương mặt trái xoan sáng hồng đã trả lại cho bà cái thần thái trẻ trung thời xuân sắc. Cặp mắt bồ câu phảng phất buồn đã thấy ánh lên những nét vui rạng rỡ, và mái tóc dài đen mướt hôm nay đã được búi lại gọn ghẽ thành một búi lớn như trái bưởi sau chiếc cổ cao đầy đặn. Bà Lan mặc một chiếc quần lụa đen may theo lối mới kiểu ống xéo và một chiếc áo bà ba cùng màu cùng loại vải với chiếc áo ông Nguyên đang mặc. Ngay từ giây phút đầu tiên ông Nguyên đã cảm thấy sửng sốt trước một nhan sắc bất ngờ, giống như cô Tấm vừa bước ra từ vỏ thị thần kỳ ngày xưa. Rồi sự trùng hợp của hai chiếc áo cùng màu đã khiến cho cả hai thêm phần lúng túng mất tự nhiên, khi họ đều ngầm hiểu đây lại là một trò tinh quái do Cường bầy đặt.
Khi hương đã tàn, Cường bê mâm cỗ từ trên ban thờ đặt xuống bàn, mời hai ông bà ngồi vào mâm rồi rót rượu ra ba chiếc chén nhỏ đưa cho từng người, trang nghiêm nói:
- Thưa mẹ, con đã xin phép mẹ và ông bà tổ tiên là từ nay trong nhà mình con lại có một ông bố, để cũng là từ nay con lại có đầy đủ cả bố và mẹ để gọi. Thưa bố mẹ, lòng con luôn ước ao như vậy và nay thì niềm ước ao đó cũng đã thành sự thật. Còn về phía bố mẹ, hai người nghĩ về nhau thế nào, gọi nhau là gì thì bố mẹ tự đặt giúp cho con…
Cường nâng chén rượu lên đưa về phía hai người:
- Con mời bố, con mời mẹ, xin bố mẹ cạn chén!
Ông Nguyên và bà Lan như cùng một lúc bị dẫn dắt vào một trò chơi đánh đố, câu đố này đưa ra chưa kịp giải xong thì lại một câu khác kế tiếp. Cả hai đều bất ngờ và bị động cuốn vào trò chơi do Cường sắp đặt, đến lúc này cũng lại chỉ biết im lặng tự động nâng chén rượu lên theo Cường, cùng nhau chạm chén và uống cạn.
Sau chén rượu đầu tiên, không khí trong nhà lúc này bỗng như ngưng đọng lại, không ai nói được câu nào, mỗi người mang nặng trong lòng một ý nghĩ riêng và đều canh cánh lo ngại không biết người kia nghĩ có giống mình không. Chẳng ai ăn uống gì cả, Cường cố gắng bằng mọi cách để xóa đi sự im lặng xuất hiện từ những bước sắp đặt có chủ ý của mình, bằng cách gắp thức ăn vào bát cho từng người. Nhưng tình hình cũng chẳng khá hơn được bao nhiêu. Không thể để cho cái không khí này kéo dài hơn nữa, cuối cùng ông Nguyên đành đặt đũa xuống mâm trang trọng nói với hai người:
- Lại xin được thưa với bà và con trai một lần nữa. Tôi vẫn cứ trộm nghĩ, với một người đàn ông thân phận thấp hèn tứ cố vô thân như tôi mà có được một cuộc sống như ngày hôm nay, có nơi ăn chốn ở tá túc, có việc làm ổn định, lại được một người con trai tài hoa giỏi giang thương yêu gắn bó gọi mình là bố, được tất cả thế ấy những tưởng đã là quá nhiều ân huệ, chẳng bao giờ dám nghĩ, dám mong gì hơn. Nhưng mà trời Phật hình như vẫn còn đoái thương nên mới cho tôi gặp được người con trai chẳng những đã tài giỏi mà lại còn tâm đức…
Giọng ông Nguyên run run rồi tắt hẳn, ông không nói thêm được câu nào, nhưng Cường đã nhìn vào mắt ông kịp thời khích lệ:
- Vâng, con hiểu ý bố, xin bố cứ nói.
Ông Nguyên nói tiếp:
- Vâng thưa bà, nay tôi hiểu ra cái ý của con trai nó là như vậy, nếu đúng ý con thì cũng xin được mạnh dạn bầy tỏ tấm lòng thương mến quý trọng của mình. Nếu bà không chê thân phận của kẻ thấp mọn này thì mong có được sự chiếu cố cho tấm lòng trung thực ấy, để tôi được sớm tối đi lại mong có thêm dịp hầu hạ giúp đỡ bà và con được nhiều hơn…
Từng lời từng câu nói của ông Nguyên cứ như từng giọt nước trong lành thánh thót rơi xuống và ngấm dần vào tâm hồn khô cằn cô quạnh của mình, bà Lan muốn nói ra những lời đón nhận ân tình nhưng không thể nào cất nổi thành lời. Bà nghẹn ngào thổn thức rồi nước mắt cứ thế trào ra. Bà vội vàng đứng dậy chạy ra sân với chiếc khăn trên dây thép lau mặt. Ở trong này Cường vội nói nhỏ với ông Nguyên:
- Bố ra an ủi mẹ con câu gì đi chứ!
Ông Nguyên hấp tấp chạy ra sân. Từ trong nhà nhìn ra Cường chỉ thấy ông đứng sát bên người mẹ rồi cầm lấy chiếc khăn và lau mặt cho bà. Không biết ông nói những gì nữa, chỉ thấy bà gật nhẹ đầu rồi lại thấy ông lau mặt cho bà lần nữa. Hồi lâu hai người quay lại, lúc này đã thấy bố Nguyên cầm tay dắt mẹ từ từ đi vào nhà.
Như thế là bước vào tuổi sáu mươi ông Nguyên mới có vợ. Mặc dù cuộc hôn nhân với bà Lan, sau đấy rất lâu vẫn cứ còn trong tình trạng giấu giếm. Cả hai đều hiểu rằng có muốn đăng ký kết hôn cũng không được phép, bởi ông Nguyên trên danh nghĩa vẫn chưa có đủ quyền công dân, phải đợi đến một ngày nào đó mãn hạn quản thúc. Không được sự chấp thuận của chính quyền, không có sự chứng kiến của làng xóm, chỉ có việc hai ông bà cùng với người con trai thắp hương trước ban thờ cầu khấn sự chứng giám của tổ tiên, rồi sau đó ai lại về nhà nấy. Thỉnh thoảng lắm vào những đêm tối trời cuối mỗi tuần trăng ông Nguyên mới dám lẻn sang ở với bà một đêm, để rồi sáng sớm hôm sau khi gà mới gáy canh ba là ông đã phải vội vã trở về trường. May mắn là trong những lần đêm hôm vụng trộm đi về ông chưa một lần bị ai phát hiện.
Nhưng tất cả những điều trắc trở đó chỉ càng khiến cho ông cảm thấy hạnh phúc và khát khao hơn bao giờ hết cuộc sống gia đình với một người phụ nữ mà càng ngày ông càng hiểu rằng, đó mới đúng là một báu vật mà ông trời đã để dành cho mình. Đấy không phải chỉ là một người phụ nữ trẻ đẹp, kém ông tới hơn hai chục tuổi, mà còn là một người hiểu biết, được thừa hưởng một nền giáo dục nề nếp đậm chất nhân văn, lời ăn tiếng nói dịu dàng, tính nết lại khoan hoà vị tha. Những khi được nghe vợ trao đổi về y lý, y thuật cũng như các câu chuyện vui buồn trong nghề làm thuốc, ông mới hiểu thêm rằng vợ mình còn là một con người có học vấn sâu và rộng. Nhưng kỳ diệu thay, tất cả những vẻ đẹp lấp lánh ấy lại đều được ẩn giấu kín đáo dưới lớp vỏ hình hài của một phụ nữ nông thôn chân phác hiền hoà. Điều đó thật chẳng khác nào một bức vách vô hình số phận đã dựng nên để tránh cho nàng những nhòm ngó phiền nhiễu thế gian, và phải chăng đấy cũng là cái cách mà số phận đã có ý ưu ái để dành bù đắp cho ông trong phần hậu vận?
Những giờ phút ngắn ngủi được sống bên Hương Lan, ông Nguyên mới thấm thía nhận ra vì sao mà cụ Lang Chương ngày trước đã đặt cho con gái mình một cái tên nhẹ nhàng thanh khiết, như hướng tới mỹ cảm của một niềm mong ước đẹp đẽ thanh nhàn đến thế. Trong những phút giây hạnh phúc ngập tràn bên người vợ hiền thục và duyên dáng, có lần ông Nguyên bỗng chạnh nghĩ tới Tư Xuyên, để rồi lòng lại tự nhủ lòng, hóa ra sống trong cuộc đời ngắn ngủi này, con người ta lại chẳng mấy ai giống ai trong cách quan niệm về hạnh phúc. Và xem ra cuộc đời càng ngắn ngủi bao nhiêu thì họ lại càng hấp tấp bấy nhiêu trước sự lựa chọn kiếm tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đến đây ông bỗng nhớ về một câu chuyện ngụ ngôn in trong tập Tân Quốc Văn, loại sách giáo khoa khi ông còn học ở hệ sơ học đồng ấu.
Chuyện kể về một con chó trong khi lang thang kiếm mồi bỗng thấy một nhà kia đang ồn ào đám giỗ. Chó ta mới mò đến lảng vảng quanh chỗ làm thịt lợn. Thừa cơ mọi người sơ suất nó mới lẻn vào đánh cắp một khúc xương to rồi chạy bán sống bán chết ra hướng ngoài đồng. Khi đã không nghe rõ tiếng hò hét của đám người đuổi theo biết là đã được an toàn, nó mới dừng lại trên một cái cầu bắc ngang dòng nước để bắt đầu đánh chén khúc xương thơm phức bám đầy thịt, một thứ chiến lợi phẩm mà nó suýt bị mất mạng mới giành được. Chưa khi nào lại được thưởng thức một thứ thức ăn hảo hạng đến như thế, nó say sưa lim dim đôi mắt nhấm nháp từng miếng một để được tận hưởng cái cảm giác sung sướng trên cõi đời này. Có một lúc nó bỗng trông thấy trong làn nước chẩy dưới chân cầu có một con chó khác cũng đang gặm một khúc xương. Xem ra khúc xương ấy còn to hơn khúc xương của nó trên này. Chó ta nghĩ khúc xương kia mới to làm sao và ngon làm sao, tại sao ta không giành lấy cơ chứ? Nghĩ sao làm vậy, nó đâu có hiểu rằng đó chỉ là cái bóng của chính mình, nên đã vội lao xuống dòng nước. Thế rồi cả khúc xương và cả bản thân nó đều bị dòng nước cuốn trôi!
*
Từ ngày lấy chồng cho mẹ, rồi càng ngày càng nhận ra là mẹ mình đã tìm được hạnh phúc thật sự bên người đàn ông ý hợp tâm đầu, thì niềm vui trọn vẹn cũng đã đến với Cường. Tận đáy lòng mình tình cảm giữa nó với ông Nguyên dường như không còn chút khoảng cách nào. Đã quen dần với cảm giác thân thương mỗi khi ông Nguyên sang ở bên này với mẹ. Trái tim đàn ông rộng mở như luôn nhắc nhở Cường, tất cả những gì làm cho mẹ được vui vẻ và hạnh phúc thì điều đó đều là việc làm đúng. Trong suy nghĩ của Cường lúc này chỉ còn một điều vướng vất ấy là làm thế nào để bố mẹ có thể được đăng ký kết hôn sớm nhất, từ đó mà được công khai sống bên nhau. Nhưng tất cả những người thông hiểu luật pháp ở tận Hà Nội, tận Sài Gòn mà Cường nhờ vả tư vấn thì họ đều giải thích và khuyên nhủ, chỉ còn cách chờ đợi ngày ông Nguyên hết hạn quản thúc mà thôi. Như thế có nghĩa ít nhất cũng phải hai năm nữa. Hai năm chờ đợi là cả một vấn đề không nhỏ đối với người già!
Cũng từ ngày mẹ có chồng, những chuyến đánh hàng trong Nam ngoài Bắc của Cường cũng vì thế mà được yên tâm kéo dài ngày hơn. Kéo dài không phải vì Cường la cà chơi bời đây đó, mà chỉ vì có thời gian thì sẽ có nhiều điều kiện để tìm kiếm lựa chọn hàng hóa và khách hàng sao cho phù hợp, mục đích cuối cùng cũng chỉ là đem lại hiệu quả lớn nhất mà thôi. Cuộc sống lăn lộn thương trường tuy có vất vả nhưng dấn vốn của Cường ngày một sinh sôi nẩy nở, cuộc sống vật chất của hai bên bố mẹ cứ được cải thiện dần lên, sự từng trải và hiểu biết của Cường cũng vì thế mà mau chóng được mở rộng và nâng cao. Những câu chuyện sau mỗi chuyến đi xa luôn đem về nhiều điều mới mẻ và hấp dẫn cho người ở nhà.
Vào một ngày, sau chuyến đánh hàng điện tử thắng lợi trở về, trong lúc ngồi trò chuyện với bố Nguyên, Cường đã kể:
- Chuyến đi vừa rồi sở dĩ con thắng lớn mà kết thúc lại nhanh gọn là bởi con có thằng bạn người thổ dân dẫn dắt mò xuống mua hàng tận vùng biên giới Tây Ninh, nơi đang có chiến sự giữa quân ta với quân Pôn Pốt Khơme Đỏ…
Về những thông tin nhậy cảm kiểu này, báo chí và đài phát thanh của ta gần như không đề cập tới mấy khi, nhưng ông Nguyên vẫn nắm được ít nhiều nhờ vào chiếc máy catxet ông Hổ cho ngày nào, mà hàng đêm ông vẫn trùm chăn nghe trộm các đài phát thanh nước ngoài phát bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Nhưng thông tin từ những đài này nói về Việt Nam nhiều khi cũng chỉ điểm qua mấy câu hết sức ngắn ngủi, điều đó càng làm cho ông muốn được nghe nhiều hơn và kỹ hơn. Nay Cường cho biết chuyện biên giới Tây Ninh, ông Nguyên hào hứng bắt chuyện tức thì:
- Đã xẩy ra chuyện to thế rồi cơ ư, thử kể lại bố nghe xem nào?
Cường bắt đầu say sưa kể:
- Thằng bạn cùng buôn bán với con trên Sài Gòn quê gốc Tây Ninh cho biết, các loại máy điện tử cao cấp như TV cửa lùa, TV bán dẫn, ghi âm băng cối AKAI, TEAC… mà ngoài Hà Nội bao nhiêu cũng tiêu thụ hết, những của ấy trên Tây Ninh tuy không nhiều, không dễ mua như dưới Sài Gòn, nhưng nếu có người bán thì giá thường chỉ bằng ba phần tư Sài Gòn. Thời gian này thỉnh thoảng quân Khơme Đỏ lại giở trò cắn trộm đem quân đánh qua biên giới Việt Nam giết hại nhiều người dân vùng biên, khiến bộ đội ta được điều về vùng đó ngày một đông. Nhiều gia đình vùng biên đã phải bỏ quê sơ tán sâu vào nội địa. Con đã đi qua các thị trấn Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng, thậm chí cả thị xã Tây Ninh hay Thủ Dầu Một… đến đâu cũng thấy không ít gia đình người dân vùng biên kéo về đây sống tá túc nơi gậm cầu, bến xe, vườn hoa. Nghe họ kể thì bọn Pôn Pốt là bọn cực kỳ hèn mạt và khát máu, chúng toàn rình vào lúc nửa đêm bí mật tràn sang các xóm làng biên giới, bao vây bốn mặt rồi xông vào tàn sát. Người già, phụ nữ, trẻ con đều không tha, bắt được ai là dùng dao phát bờ chặt đầu, chặt ngang thân, dùng búa đập vỡ đầu không sót một ai. Một không khí chiến tranh sắp nổ ra như đang bao trùm lên cả một vùng biên giới. Trong tình hình ấy, không ít gia đình đang sống yên ổn ở các thị trấn và thị xã đó lại có ý định chủ động chạy trước về các vùng sâu hơn như Tân An, Biên Hoà cho chắc ăn, và thế là họ có ý định bán hết những đồ đạc quý giá giắt tiền vào người cho gọn gàng khi chạy loạn.
Ông Nguyên thở dài cắt ngang:
- Bố không nghĩ sự thể lại diễn ra bất ngờ và khó hiểu đến thế!
- Vâng, ngay như bạn con người vùng này nó cũng không thể tin được là có thể xẩy ra chuyện như thế. Là thổ công thổ địa vùng này nên nó dẫn con về đây. Chúng con tìm vào các nhà có nhu cầu bán máy. Máy móc ở đây zin hơn Sài Gòn nhiều mà giá cả thì lại hợp lý. Con dặn thằng bạn trong hoàn cảnh này việc mua bán là phải thuận mua vừa bán, không được lợi dụng lúc họ khó khăn cần tiền mà ép giá, miễn sao mua được máy tốt giá rẻ hơn Sài Gòn là quý lắm rồi. Có đi chuyến này con mới hiểu dân vùng biên họ cũng giầu có lắm chứ không như mình hiểu lâu nay. Bao nhiêu vốn liếng con dồn hết ra và mua được bốn con máy các loại, đóng thùng về Sài Gòn đưa lên tầu Thống Nhất, thuê cánh cán bộ đi công tác mỗi người bê giúp một con, bồi dưỡng cho ít tiền để nhận là hàng của mình tránh bị cánh thuế vụ bắt giữ, an toàn xuống đến ga Hàng Cỏ. Chỉ một ngày con đổ xong hết hàng, tiền thu về gọn ve ve. Bố có thể tưởng tượng được không, tính ra chuyến này vừa đi vừa về, vừa mua vừa bán, thời gian vừa tròn mười ngày mà con lãi được nửa cây vàng, hiệu quả quá lớn cho một chuyến đi. Con định xin phép bố mẹ một hai ngày nữa lại quay vào làm chuyến nữa. Chúng con hiểu rằng chỉ cần nửa tháng nữa thôi là thị trường bể mánh, cánh thợ buôn Sài Gòn đánh hơi thấy mà nhẩy vào thì bọn con chỉ có nước bật bãi. Nghề buôn bọn con là thế đấy bố ạ!
- Công việc buôn bán như con hóa ra cũng là công việc vất vả chứ chẳng nhàn hạ đơn giản gì…
- Vất vả nhưng mà vui bố ạ!
Ông Nguyên tỏ ra thông cảm và muốn động viên khuyến khích con nhiều hơn nữa:
- Bố cũng hiểu như thế, không những vui vẻ mà còn làm cho con người ta năng động tháo vát lên nữa cơ đấy.
Cường tỏ vẻ khoái chí cắt ngang:
- Bố nói đúng quá, con cứ suy từ con, giá cứ ở nhà an phận cày cuốc thì không biết bây giờ con sẽ ra sao, và cả nhà mình rồi cũng sẽ ra sao bố nhỉ?
Ông Nguyên cũng như được lây niềm vui từ Cường:
- Con nói thật là chí lý, không có sự vất vả lăn lộn thương trường của con thì cái nghèo cái khổ còn đeo bám nhà mình không biết đến bao giờ. Các cụ ta ngày xưa cũng đã từng quan niệm là Phi Thương Bất Hoạt đấy con ạ.
- Nghĩa là gì hả bố?
- Cụ Lê Quý Đôn khi xưa đã sắp xếp trong bốn cái nghề căn bản cổ xưa nhất của xã hội loài người, thì Phi Công Bất Phú, Phi Trí Bất Hưng, Phi Nông Bất Ổn, và Phi Thương Bất Hoạt. Mỗi nghề đều có một vai trò vị trí khác nhau nhưng đều rất quan trọng và không thể thiếu được cho xã hội. Nếu như công nghiệp là ngành mang lại sự giầu có cho xã hội, thì trí tuệ học vấn lại đem đến sự hưng thịnh cho đất nước, nông nghiệp lại là ngành mang đến sự no đủ ổn định bền vững cho dân tộc, còn anh thương nghiệp sẽ đem đến sự năng động cho cả xã hội. Nếu chỉ xét riêng về nghề thương nghiệp, không có nó thì sản phẩm hàng hóa công nghiệp, nông nghiệp làm ra lấy ai mua để mà tiếp tục sản xuất vòng hai vòng ba, rõ ràng là phải có anh đi buôn đảm nhiệm việc đó. Thương nghiệp góp phần quan trọng làm cho nền kinh tế năng động, linh hoạt phát triển không ngừng, tạo ra cái thế làm giầu cho đất nước, cho từng gia đình và cho mỗi con người. Bởi thế mà ở nhiều nước châu Âu thời kỳ đầu phát triển Tư bản Chủ nghĩa người ta chủ trương học thuyết Trọng Thương, tức là coi trọng đặc biệt sự phát triển của nền thương nghiệp nước nhà, nên nhiều nước trong số đó đã trở thành những quốc gia giầu có vào loại nhất nhì trên thế giới.
Cường tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Cụ Lê Quý Đôn dạy bảo phải coi trọng thương nghiệp từ mấy trăm năm trước, dân mình không chịu học hay sao mà nước mình vẫn nghèo thế bố?
Ông Nguyên có một thoáng lúng túng trước câu hỏi tự nhiên của người con trai, mới tìm lời giải thích:
- Nước ta thì có đặc biệt hơn một chút bởi chiến tranh xẩy ra liên miên và kéo dài quá, với lại cũng phải nói thật là có lúc người mình cũng không được thuộc bài cho lắm. Ấy là bố muốn nói đến các bài dạy như của cụ Lê Quý Đôn chẳng hạn, nên có nhiều khi tỏ ra rất coi thường công tác thương nghiệp, hễ cứ thấy thương nhân đâu là nghĩ ngay đến gian thương, đến con phe và chỉ tìm cách bắt bớ cải tạo.
- Bố chỉ ngồi ở nhà sao nói đúng thế! Hàng ngày đi tầu con thấy hết những cảnh đó. Thuế vụ thì ra sức ngăn cấm bắt hàng nhưng dân buôn thì vẫn cứ đánh hàng kìn kìn vào Nam ra Bắc, có cấm có bắt cũng chẳng được. Có giỏi thì cấm như bọn Pôn Pốt ấy! Bố có biết không, trong Sài Gòn dân người ta đồn rằng bên Campuchia hiện nay bọn Pôn Pốt chúng nó đã xóa hết chợ búa, hủy bỏ tiền tệ, xóa bỏ thương nghiệp… Chúng làm thế là nghĩa ra sao và để làm gì hả bố?
- Không phải thế đâu con ạ, bọn Khơme Đỏ là một bọn người đi theo đường lối chính trị cực đoan, không còn phân biệt được phải trái trước sau mọi việc trên đời nên mới làm những việc vô đạo, trong đó có cả chuyện xóa bỏ tiền tệ và thương nghiệp. Còn bên ta thì khác, mọi thứ Nhà nước đều chủ trương phát triển toàn diện nhưng phải theo đường lối và có kế hoạch, cái gì không được như thế thì phải cải tạo, quản lý cho có kế hoạch, thế thôi!
Chuyện trao đổi giữa hai bố con hôm đó đã đưa ông Nguyên trở về với một mối trăn trở lâu nay, ấy là cứ mỗi khi nghe đài, đọc báo của ta thì ông luôn cảm thấy một niềm vui phơi phới và một sự vững tâm cao độ về nền độc lập và hoà bình của quê hương xứ sở. Một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng kiên cường gan góc đánh thắng đủ các loại đế quốc sừng sỏ nhất thời đại, thử hỏi, còn có một loại kẻ thù nào dám ngo ngoe quấy rối sự bình yên của mảnh đất anh hùng này? Thế nhưng qua nguồn tin của các đài phương Tây thì ông lại biết một sự thật khác. Không phải đợi đến ngày hôm nay, mà ngay sau khi đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, hoàn thành sự nghiệp đánh Mỹ, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thì sau đó chỉ có mươi ngày, quân Khơme Đỏ đã đưa quân chiếm đảo Thổ Chu thuộc tỉnh Kiên Giang của ta mà không tốn một viên đạn, đồng thời bắt khoảng 500 dân thường trên đảo đem về Campuchia thảm sát. Mặc dù sau đó không lâu hải quân ta đã tấn công tiêu diệt lực lượng địch và tái chiếm đảo, nhưng từ đấy đến nay, dọc biên giới chúng vẫn không ngừng gây ra những vụ khiêu khích lấn chiếm đất đai và giết hại dân ta, gây nên những bất ổn về an ninh và an toàn cho Việt Nam.
Sự khác biệt giữa hai nguồn tin từ hai hệ thống phát thanh khiến cho ông Nguyên có phần phân vân suy nghĩ về mức độ tin cậy của tin tức mỗi bên. Nhưng câu chuyên đi buôn của Cường từ những vùng chiến sự trở về lần này đã khiến ông Nguyên tin rằng đang có những điều gì đó rất nghiêm trọng, thậm chí rất khó hiểu đang âm thầm, chậm chạp và lén lút đe dọa sự bình yên thanh bình mới được vãn hồi trên mảnh đất đau thương hình chữ S này. Chắc hẳn sẽ phải là như thế, nếu không thì làm sao một thế lực lục lâm thảo khấu như một lũ giặc cỏ Pôn Pốt kia lại có thể dám làm những chuyện tầy đình, tấn công khiêu khích, chiếm đoạt đất đai, xâm phạm lãnh thổ, tàn sát dân thường… đối với một quốc gia vừa đánh gục những đế quốc hùng mạnh nhất thời đại, một quốc gia đang đứng trên đỉnh cao chiến thắng được cả thế giới đánh giá có tiềm lực quân sự đứng hàng thứ tư thế giới đương đại với đủ lực lượng thủy lục không quân hiện đại?
Và rồi thì những thắc mắc lâu nay mà ông Nguyên không thể tự giải thích nổi, bỗng nhiên đã trở nên sáng tỏ và dễ hiểu hơn bao giờ hết sau những sự kiện liên tiếp xẩy ra, khi vào cuối tháng 12 năm 1978 đại quân ta đã phản công đánh trả lực lượng Khơme Đỏ xâm lược, thừa thắng tiến công tiêu diệt bọn chúng tận sào huyệt Phnom Pênh vào ngày 7-1-1979, giúp nhân dân Campuchia nổi dậy lật đổ chế độ diệt chủng xây dựng chế độ dân chủ mới; rồi sau đó không lâu, vào ngày 17-2-1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã tự đánh rơi chiếc mặt nạ phù thủy, khi đưa đại quân đánh phá tất cả 6 tỉnh thành biên giới phía Bắc nước ta, rửa hận cho những thất bại nhục nhã khi dùng mưu ma chước quỷ để cho bè lũ Pôn Pôt - Iêng xari đội lốt âm binh làm điều tà đạo.
Thế là đất nước lại bắt đầu một cuộc lên đường mới, khi một phong trào tòng quân nhập ngũ lại hừng hực nổ ra trên mọi miền đất nước. Và cái làng Sòi nhỏ bé xa xôi khuất nẻo này cũng háo hức vào cuộc.
Những ngày này ông Nguyên chợt nhớ lại câu nói mà ông mượn lời trích dẫn trong buổi nói chuyện cuối cùng với đồng chí Trần Hồng trước khi ông bị kết án đi tù gần hai chục năm trước: “Không có kẻ thù vĩnh viễn, cũng không có bạn bè vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn mà thôi!”. Những diễn biến bất ngờ ở Việt Nam những tháng cuối năm 1978, đầu năm 1979 này, lại một lần nữa chứng thực cho tính thực tiễn của một ý thức hệ còn rất xa lạ với ý thức hệ đương thời của chúng ta.
*
Sáng chủ nhật hôm ấy, trong lúc ông Nguyên đang tưới rau sau vườn thì lại nghe thấy tiếng hú quen thuộc, ông bắc loa tay hú trả lời rồi chạy ra cổng. Cường bảo bố vào thay bộ quần áo cho xịn một tí rồi sang nhà có việc hệ trọng. Ông hỏi việc gì thì Cường bảo bố cứ sang khắc biết.
Sang nhà thấy không có khách lạ, nhà cửa vẫn gọn gàng sạch sẽ như mọi khi, mà bà Lan thì cũng bình thản vào ra như không có chuyện gì. Cường mời bố mẹ vào nhà uống nước để thưa câu chuyện. Cường rót nước mời rồi từ từ rút trong cặp ra một tờ giấy in sẵn đưa ra trước mặt hai người:
- Thưa bố mẹ, đây là tờ khai xin đăng ký kết hôn in sẵn con xin ở trên xã. Người ta đã điền đủ tên tuổi người vợ người chồng và người làm chứng, bây giờ chỉ cần ký vào rồi mai lên nộp xã đợi lấy giấy kết hôn chính thức. Bố mẹ xem rồi ký vào cho con!
Ông Nguyên cầm tờ giấy lên xem thấy đúng là tờ giấy in sẵn có chia thành hai bên, bên vợ bên chồng, còn người làm chứng thì ở hàng ngang dưới cùng. Tất cả các yêu cầu để trống đều đã được Cường kê khai đầy đủ. Không thiếu mục nào, tên chồng Hoàng Hữu Nguyên, tên vợ Nguyễn Thị Hương Lan, ngày sinh tháng đẻ, quê quán. Tên người làm chứng Huỳnh Minh Cường… Xem lướt qua ông Nguyên chuyển cho bà Lan rồi quay sang hỏi Cường:
- Như thế này là thế nào hả con?
Đợi mẹ xem xong Cường mới giải thích:
- Chuyện đơn giản thôi bố mẹ ạ! Con đã đi hỏi nhiều người thông thạo về pháp luật, trường hợp như của bố thì phải đợi cho đến khi có đầy đủ quyền công dân, tức là mãn hạn 5 năm quản thúc mới được đăng ký kết hôn. Thấy bố mẹ cứ phải vụng trộm đêm Nam ngày Bắc thế này con thấy không đành. Mà đợi chờ hợp pháp thì phải hơn hai năm nữa, vô lý không chịu được! Trong quá trình buôn bán con bắt mối quen thân với con trai ông Chủ tịch huyện, con nhờ nó nói chuyện với bố nó. Ông Chủ tịch huyện gọi điện cho ông Nuôi xã mình, thế là xong. Bố mẹ ký vào đây, con ký vào chỗ người làm chứng, sáng mai con mang ra đưa cho ông Nuôi ký tên đóng dấu, xong ông ấy cho người mang lên huyện, ở huyện người ta vào sổ cái rồi điền tất cả những điều đã khai vào bản kết hôn chính thức, huyện ký tên đóng dấu lần nữa, thế là xong.
Nghe chương trình kế hoạch của con trai, bà Lan nửa mừng nửa lo bảo con:
- Bố mẹ thấy nếu đơn giản như thế thì đăng ký cũng tốt, bằng không mà lằng nhằng phiền lụy đến nhiều người nhiều chỗ thì chẳng phải vội làm gì, bố mẹ tạm sống thế này cũng ổn mà con.
Ông Nguyên tiếp lời vợ:
- Mẹ con nói đúng đấy! Nếu vì bố mẹ mà con phải phiền lụy đến ai thì bố mẹ không tán thành đâu. Bố hỏi thật là sự việc có đúng như thế không, hay con lại phải quà cáp biếu xén người này người kia mất rồi?
- Làm gì có chuyện như thế hả bố mẹ. Các ông bà cán bộ lãnh đạo nhà ta không bao giờ dám nhận quà đút lót của một thằng như con đâu. Sự việc này đơn giản chỉ như con vừa nói thôi mà, chẳng qua là quen biết thì họ giải quyết cho thôi, các cụ cẩn thận quá đấy. Nào để con ký vào chỗ làm chứng trước rồi hai cụ bắt chước ký theo nhé!
Cường mồm nói tay làm, nó cầm bút ký đánh xoẹt một cái vào chỗ của mình rồi chuyển tờ giấy cho ông Nguyên:
- Bố là đàn ông gương mẫu ký trước con xem nào!
Ông Nguyên ký xong, Cường chuyển tờ giấy cho mẹ:
- Mẹ là đàn bà, thuyền theo lái gái theo chồng, bố ký rồi mẹ không phải lăn tăn gì nữa, ký vào đây cho con một chữ!
Thế là xong, đủ ba chữ ký vợ chồng và con trai. Cường cất tờ giấy vào cặp rồi vui vẻ nói với bố mẹ:
- Chỉ vài hôm nữa là có giấy kết hôn chính thức, con muốn hôm nay gia đình mình bàn xem ta sẽ tổ chức đám cưới kiểu gì, việc này con xin nhường bố mẹ quyết định để khi có giấy ta tiến hành ngay cho gọn, bố mẹ có tán thành thế không ạ?
Đến lúc này bà Lan mới cảm thấy yên tâm về cái công việc bất ngờ của con trai, bà quay sang nói với chồng:
- Mình thấy thế nào chứ riêng em thì việc này không phải bàn gì nữa, đợi khi nào có giấy chính thức ta chỉ làm cơi trầu với cân chè ngon mang sang kính báo với lân bang hàng xóm thân thuộc, họ hàng nội tộc nhà em với gia đình nhà mình bên Nam Bình, thế là đủ. Vợ chồng già rồi cưới xin thiên hạ đàm tiếu, kính chẳng bõ phiền. Đấy là thiển ý của em, mình cân nhắc quyết định thế nào thì em thực hiện thế ấy.
Ông Nguyên tiếp lời vợ nhưng lại có ý nói với Cường:
- Mẹ con nói thế là hợp tình hợp lý lắm, bố thấy không có gì phải bàn nữa, cứ thế mà thực hiện thôi. Chỉ có điều đến lúc ấy ta làm mâm cơm thắp hương xin ông bà tổ tiên chứng giám, hai mẹ con thấy thế nào, có nên thế không?
Cường nhanh nhảu cắt ngang như có ý kết luận:
- Con thấy mọi việc như thế là đã rõ và không phải bàn bạc gì nữa, sẽ báo hỷ trầu cau và trà ngon với hàng xóm, còn nội bộ gia đình thì làm cỗ thắp hương. Nhà mình thế mà hay đáo để, việc lớn việc nhỏ đều cứ là khớp khờm khợp với nhau. Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn, nay thuận cả con trai nữa thì còn tát biển nào nữa đây? - Cũng như nhiều lần, Cường chuyển giọng khôi hài kết thúc câu chuyện - Thôi! Hội nghị đến đây là kết thúc, tôi xin thay mặt cho chính quyền làng Sòi tuyên bố, từ giờ phút này anh Hoàng Hữu Nguyên và chị Nguyễn Thị Hương Lan chính thức là vợ chồng của nhau, xin chúc anh chị ăn ở với nhau hạnh phúc cho tới khi đầu bạc răng long!
*
Nhưng sự việc lại không giống như Cường đã nói với ông bà Nguyên, bởi trên thực tế nó cũng chẳng quen con ông Chủ tịch nào để mà nhờ vả. Tất cả đều do mình nó nghĩ ra và mình nó thực hiện.
Đầu đuôi cũng bắt đầu từ đợt tuyển quân vào thời điểm cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc với quân Trung Quốc mới nổ ra được khoảng nửa tháng. Xã Song Yên chỉ tiêu là 30 chiến sĩ, nhưng giấy báo nhập ngũ chuyển đến các gia đình, sau một tuần nắm lại Ủy ban xã mới chắc chắn được có 29 người, một số đối tượng chuồn khỏi làng với lý do đi thăm họ hàng trong Nam không kịp báo. Thiếu một người cũng không được. Làng Sòi có truyền thống thi đua yêu nước “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” từ hàng chục năm nay, chẳng lẽ lần này lại thua? Không thể như thế được! Đảng ủy, Ủy ban bàn nát nước cũng không ra, cuối cùng Trưởng công an Thệ mới hiến kế, thử gọi thằng Cường con nhà miền Nam lên xem sao? Ông Nuôi Chủ tịch xã gạt đi cho rằng, mặc dù Cường mới 25, còn trong độ tuổi nghĩa vụ nhưng là con độc nhất trong gia đình nên thuộc diện được miễn, đừng có dại mà sờ vào, ai chứ thằng ấy lôi thôi là nó dám kiện lại chứ chẳng phải vừa, mó vào dái ngựa làm gì cho mệt lính!
Trời xui đất khiến thế nào mà tan cuộc họp ông Nuôi vừa dắt xe đạp ra cổng trụ sở thì Cường phóng xe máy qua, thấy Chủ tịch xã, nó mới giảm ga gật đầu chào. Ông Nuôi gật đầu cười nói với:
- Đi đâu mà oách thế Cường, đỗ lại bác hỏi chuyện này cái đã!
Cường dừng xe, ông Nuôi hỏi tiếp:
- Có rỗi vào đây bác cháu nói chuyện?
Cường dắt xe theo ông Nuôi đi vào sân rồi hai người cùng bước vào phòng. Ông Nuôi rót nước đưa cho Cường hỏi thăm:
- Mẹ dạo này có được khỏe không cháu?
Cường tỏ ý cảnh giác:
- Mẹ cháu thì có bao giờ khỏe được đâu, không ốm là may rồi!
Chủ tịch xã làm ra vẻ thân tình:
- Thế công việc chợ búa của mày dạo này có khá không?
- Cũng nhì nhằng đủ ăn thôi bác ạ.
Ông Nuôi tỏ ra cảm thông và có phần ái ngại:
- Cháu năm nay đã hai nhăm, chẳng lẽ cứ loăng quăng chạy chợ không nghề không nghiệp suốt đời, rồi cũng phải kiếm một nghề gì đó cho ổn định để còn vợ con cho mẹ mày vui tuổi già nữa chứ!
Cường đã lờ mờ đoán ra được đôi phần mới làm bộ chán nản:
- Buôn bán chạy chợ dạo này khó lắm, thế với lâu dài cũng phải bỏ vì nó có phải là nghề nghiệp gì đâu. Nhưng cháu đang chẳng biết kiếm việc gì cho thích hợp bác ạ!
Ông Nuôi như mở cờ trong bụng:
- Hay thử đi một chuyến bộ đội xem sao?
- Đi bộ đội!
- Chứ sao nữa? Cường ạ, bác coi mày như con, bác khuyên nên đi một chuyến nghĩa vụ, thấy hợp thì ở lại theo ngạch quân nhân chuyên nghiệp, không hợp ba năm trở về, hoàn thành nghĩa vụ, tha hồ mà danh giá. Lúc ấy xã có tiêu chuẩn ưu tiên học nghề học nghiếc gì đấy, chẳng phải chúng mày thì còn ai mà dám chen vào được nữa.
- Nhưng mà cháu thuộc diện con độc nhất cơ mà bác?
Chủ tịch xã hiểu là không nhằn được của này mới đánh trống lảng:
- Ấy là bác nói thế cho mày có cơ hội lựa chọn chứ có ai bảo mày đi đâu mà lo. Mà tao nói cho cháu biết, xã giờ chỉ còn độc nhất một suất nhưng có tới ba thằng đang tranh nhau đấy. Sáng ngày kia thứ hai công bố rồi, có muốn cũng chẳng được!
Trong bụng Cường biết tỏng là ông Nuôi nói ngược, nhưng nó bỗng nghĩ ngay ra một ý lạ liền giả vờ xuýt xoa:
- Suất ấy mà rơi vào cháu thì hay bác nhỉ?
Một chút hy vọng lại lóe lên trong đầu ông Nuôi:
- Cái ấy là do mày cả!
- Nghe bác nói tự nhiên cháu thấy muốn đi rồi đấy! Choảng nhau với ai chứ với bọn Tầu Khựa này là cháu cũng máu lắm. Chỉ ngặt một nỗi…
Niềm hy vọng vẫn tiếp tục lớn lên, nhưng ông Nuôi không tỏ ra quá vồ vập:
- Không được đi đợt này thì phải nói là hơi tiếc. Choảng nhau với một thằng giả nhân giả nghĩa, phản bội anh em đồng chí có chết cũng sướng một đời. Nói thật chứ tao còn trẻ thì cứ gọi là xung phong đầu nước, bát gạo cũng nướng! Thế còn mày có khó khăn gì nói ra xem bác có giúp được không?
- Việc này không thể gọi là khó khăn vì cháu nghĩ nó nằm trong tầm tay bác.
- Nhưng là việc gì mới được cơ chứ?
- Nói thật với bác, điều cháu áy náy hơn cả nếu cháu đi bộ đội thì ai ở nhà trông nom mẹ cháu?
Ông Nuôi xì ra một tiếng như có ý chế nhạo:
- Mày cứ làm như mẹ mày lên chín lên mười không bằng!
- Bác biết rồi đấy, cháu tiêu chuẩn học sinh miền Nam, tập trung học hành tử tế rồi đi học nước ngoài dễ như trở bàn tay, mà chỉ vì mẹ ở một mình cháu còn dám bỏ tất cả để về với mẹ…
Ông Nuôi biết là bị mắc lỡm bèn nói lời bỏ cuộc:
- Nói như mày thì cứ ở nhà mà trông mẹ cho đến lúc bà ấy hai năm mươi, dở hơi dở hám nó vừa vừa thôi!
- Cháu đã nói hết đâu mà bác đã lại thế rồi. Ý cháu là khi đi bộ đội thì ở nhà cần có người giúp đỡ mẹ, nhưng người ấy cần phải đăng ký cưới xin đàng hoàng tử tế với mẹ.
- Có nghĩa là mẹ mày định lấy chồng á?
Cường tỏ vẻ khó chịu:
- Bác ngạc nhiên lắm à? Mẹ cháu năm nay mới bốn chục, trẻ như gái ba mươi, vẫn đẹp nổi tiếng cả vùng và không thiếu người nhòm ngó, ba mẹ cháu lại đã ly dị từ lâu. Người như thế lấy chồng không được chắc?
- Ai bảo mày là không được, tao hỏi thế là muốn xem mày nói thật hay bỡn.
Cường nhăn mũi khẳng định:
- Bác bảo cháu dám đem chuyện mẹ ra làm trò cười chắc?
Ông Nuôi liền dịu giọng:
- Thế thì có cái gì mà ngặt với chả nghèo, mày cứ làm tờ khai đăng ký kết hôn đưa tao, nửa đêm tao cũng ký! À mà tao hỏi thêm, thế bà ấy định đăng ký với ai?
Cường có ý thận trọng:
- Bác có biết ông Nguyên gác trường?
- Trường nào?
- Thế xã này có mấy trường mà bác còn hỏi trường nào, Trường cấp 2 Song Yên của cô Thà chứ trường nào nữa!
Chủ tịch xã buột miệng:
- Sao lại là lão ấy?
Cường xẵng giọng:
- Lão ấy thì đã làm sao, hủi chắc?
Ông Nuôi lại đấu dịu:
- Thì tao đã nói gì đâu mà mày cứ như hổ vồ thế Cường, mày đúng là bản sao của lão Tư Xuyên, nóng nẩy cứ như ăn phải ớt không bằng. Ý tao là mọi việc đều thuận, chỉ ngặt lão ấy chưa hết hạn quản thúc.
- Có thế cháu mới phải nhờ bác. Nếu khó quá thì thôi vậy, cháu lại đành ở nhà nuôi mẹ!
Vẫn một giọng làm lành:
- Nếu mày quyết tâm đi bộ đội chuyến này thì bác cũng vì mày để giải quyết bản đăng ký kết hôn. Nhưng có đúng là mẹ mày định lấy ông ấy không, quen nhau từ bao giờ mà kín như bưng thế? Nếu đúng, chiều nay bảo cả hai lên gặp tao trước đã.
- Bác nói thế chẳng hóa ra cháu là trẻ ranh hay sao. Chuyện trăm năm mẹ cháu chả lẽ cháu không lo bằng thiên hạ chắc? Bác không giải quyết được việc này thì cháu cũng xin bái bai bác vậy!
Vừa nói Cường vừa đứng lên định bước ra cửa thì ông Nuôi vội ấn vai nó xuống:
- Chuyện ấy là chuyện vặt với bác, nhưng mày phải viết đơn tình nguyện đi bộ đội thì bác sẽ giải quyết ngay cho. Bác chỉ giao hẹn, giải quyết xong rồi mà không đi để đến nước nhỡ chỉ tiêu của xã thì mày đừng có trách tao đấy!
Cường cũng chẳng vừa:
- Cháu không phải là thằng hèn, bác giải quyết đăng ký xong, có chết cháu cũng vui vẻ lên đường. Nhưng bác cũng phải đảm bảo sau khi cháu viết đơn tình nguyện, xã đưa quyết định nhập ngũ mà việc của mẹ cháu không gọn gàng thuận lợi là cháu cũng không chịu đâu nhé!
Chắc nịch như đinh đóng cột, ông Nuôi chốt hạ:
- Làm gì có chuyện đó. Việc chính quyền đâu có phải chuyện trẻ con!
Rồi ông đưa cho Cường một tờ giấy trắng khổ đúp bảo ngồi viết đơn tình nguyện đi bộ đội. Cường viết xong ông đọc lại, thấy được bảo ký vào. Ký xong, ông Nuôi mới lấy một bản in sẵn tờ khai xin đăng ký kết hôn dặn đem về đọc kỹ, kê khai cho đủ các ô trống, bảo hai ông bà ký vào, chỗ người làm chứng thì Cường ký cũng được. Xong xuôi sáng sớm thứ hai mang lên đây đưa cho ông.
Công việc ấy cũng chẳng phải là chuyện vặt như ông Nuôi trót nói, mà thực tế sau đấy ông đã phải thuyết phục mọi người trong cấp ủy, mãi mới thống nhất được ý kiến, đành vì thành tích của xã mà phải phá rào ký xác nhận vào đơn xin đăng ký kết hôn cho bà Lan với ông Nguyên.
Bốn ngày sau Cường đem bản kết hôn chính thức đưa cho bố mẹ.
Ngày hôm sau nữa, Cường đưa tiếp cho bố mẹ tờ quyết định gọi nhập ngũ của mình trước sự ngạc nhiên lo lắng của bố Nguyên và nỗi hoang mang đau khổ của mẹ Lan. Nhưng Cường lại tỏ ra bình tĩnh vững vàng giải thích rằng đây là tự tay mình tình nguyện viết đơn, muốn một lần trong đời làm một việc có ý nghĩa với đất nước, ấy là được đánh nhau với bọn Khựa bành trướng. Cường bảo rất yên tâm lên đường vì đã có bố ở nhà giữ gôn!
Năm hôm sau cả làng Sòi xôn xao vì cái đám cưới có thể nói là đơn giản nhất từ trước đến nay, ấy là đám cưới của ông Nguyên với bà Lan. Gọi là đám nhưng chỉ có những gia đình trong xóm là nhận được trầu cau báo hỷ. Người thì khen, kẻ thì chê, nhưng tựu chung ai cũng phải thừa nhận rằng, bà Lan đúng là hồng nhan bạc phận, mới lớn đã bị ép lấy cái thằng bất nghì bất ngãi tưởng là hết đời, nay xem ra cái lão gác trường này thế mà còn bằng vạn!
Sang đầu tuần sau Cường lên đường nhập ngũ. Trước lúc lên xe, trong bộ quân phục còn thơm mùi hồ, Cường ôm chặt mẹ trong cánh tay hộ pháp của mình an ủi:
- Mẹ đừng khóc nữa nào, lúc này con đang vui lắm vì đây là lần đầu đi xa mà ở nhà lại có người khác thay con săn sóc mẹ, mà người ấy lại là một người đàn ông con tin cậy nhất trên đời.
Bà Lan lấy tay quệt nước mắt gật gật đầu cười mếu máo không nói được câu nào. Ông Nguyên ghé tai hai người thì thầm:
- Trước lúc ra đây bố còn mở đài Hoa Kỳ thì nhận được tin, Bắc Kinh đã có lệnh rút quân trên toàn tuyến biên giới Việt Nam sau một chiến dịch chớp nhoáng, mà theo như đánh giá của nhiều nước thì nó đã thất bại nhục nhã. Bố tin rằng nguồn tin là rất đáng tin cậy. Nếu thế thì con đi đợt này chỉ mang tính nghĩa vụ, huấn luyện và học tập là chính, như thế mới thật là phúc đức cho nhà mình cũng như cho mọi nhà. Con đi cứ yên tâm rèn luyện phấn đấu, mọi việc ở nhà lớn bé đều đã có bố. Bố thật hạnh phúc vì được săn sóc mẹ mà cũng vì con đã rất tin cậy ở bố.
Trước cái tin vui bất ngờ ngoài mong ước, đến lúc này bà Lan mới nói được thành lời:
- Thế là trời Phật đã phù hộ cho con trai mẹ rồi. Con đi cố gắng gìn giữ, ăn bớt bát, nói bớt lời, nhường nhịn khiêm nhường đừng có gây gổ với người, được như thế mẹ mới bớt lo. Còn ở nhà đừng phải nghĩ suy gì cho mẹ, có bố đây rồi mẹ thấy hạnh phúc và vững tâm lắm, mẹ không mong ước gì hơn nữa cả. Thỉnh thoảng rảnh rỗi viết thư cho bố mẹ, nhớ nhé con!
16. Đòn thù đòn bạn
Trong những ngày này, diễn biến của tình hình thời sự chính trị thế giới có liên quan đến Việt Nam, dù cho đêm nào ông Nguyên cũng trùm chăn nghe trộm các đài phát thanh, thì ông cũng không thể lường hết được.
Quân Trung Quốc rút hết khỏi biên giới phía Bắc không có nghĩa là tình trạng chiến tranh ở Việt Nam đã kết thúc, mà trên thực tế một lực lượng không nhỏ quân đội Việt Nam lúc này vẫn còn phải đồn trú trên đất Campuchia. Đây là tình thế phát triển mới của cuộc chiến khi một bộ phận quan trọng quân khơme Đỏ đã bị tiêu diệt tại Phnom Pênh và khu vực xung quanh, nhưng tàn quân của chúng đã tập hợp lại ở vùng rừng núi phía Bắc để tổ chức kháng chiến lâu dài. Lực lượng này nhanh chóng hồi phục do được Trung Quốc, Mỹ, các nước phương Tây, một số nước Đông Nam Á trong đó đặc biệt là Thái Lan, tìm cách liên minh lại với nhau viện trợ hà hơi tiếp sức. Chính quyền Cộng hoà Nhân dân Campuchia mới thành lập chưa đủ sức đương đầu chống lại lực lượng Khơme Đỏ, đã đề nghị quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục ở lại giúp đỡ nhân dân Campuchia. Trong tình hình này, ở lại giúp bạn cũng có nghĩa là giúp mình.
Cường được biên chế vào một đơn vị huấn luyện bộ binh, sau ba tháng luyện tập kỹ chiến thuật chiến đấu, đơn vị anh được điều động thẳng vào Tây Ninh. Ở đây, sau hai tháng vừa tiếp tục huấn luyện vừa bồi dưỡng nghỉ ngơi và sắp xếp lại tổ chức theo yêu cầu mới, đơn vị được đưa sang Campuchia.
Sang đất Campuchia đúng vào thời điểm đang giữa mùa mưa, đơn vị của Cường được bổ sung vào binh đoàn bộ binh chiến đấu có nhiệm vụ đóng quân chốt giữ trận địa bảo vệ vòng ngoài Thủ đô Phnom Pênh. Mấy tháng đầu chỉ thỉnh thoảng mới xẩy ra những đụng độ nho nhỏ, lẹt đẹt dăm ba phát AK điểm xạ. Cánh lính mới bồn chồn chân tay chỉ muốn có một trận cho ra trò với lũ diệt chủng. Trong khi đó lính cựu binh lại nhắc, đây mới là bước chạy đà khởi động, các chú cứ yên tâm đợi đấy rồi sẽ biết!
Khi những trận mưa cuối mùa đã tạnh, bầu trời cao trong xanh, mặt đất trở nên khô ráo, và những làn gió mát xào xạc thổi qua những cánh rừng thốt nốt như muốn báo hiệu đây đang là khoảnh khắc giao mùa, thì cũng là lúc lực lượng chiến đấu của cả hai bên đều bắt đầu rục rịch triển khai cho một mùa chiến dịch mới.
Đơn vị của Cường được điều lên mặt trận Tây Bắc, có nhiệm vụ đánh chiếm các khu vực lực lượng Khơme Đỏ đóng quân, mở thông hành lang tiến về vùng núi Carđamom và Đăngrêk biên giới Thái Lan, nơi tổng hành dinh và lực lượng chủ lực địch đang co cụm ở Pailin và Along Vêng.
Trận đầu thử lửa với quân Khơme Đỏ Cường hiểu ngay rằng đây không phải là một lũ giặc cỏ ô hợp như anh và bạn bè trong đơn vị thường nghĩ khi còn ở nhà, mà thực tế chúng là một đội quân được tổ chức và trang bị tốt, vũ khí cá nhân gọn nhẹ hiện đại, có đại bác và súng cối yểm trợ bộ binh, đặc biệt quanh nơi đóng quân, các trận địa mìn bố trí dầy đặc. Tinh thần chiến đấu của chúng cũng không thể không kiềng nể, khi chính mắt Cường đã chứng kiến cảnh một tốp lính Khơme Đỏ sau khi bắn hết đạn bị bao vây, đã kiên quyết không chịu đầu hàng mà còn nhất tề giương thẳng lưỡi lê xông lên đánh giáp lá cà trước khi bị quân ta hạ gục. Phải mất tới ba ngày tiểu đoàn của Cường mới nhổ được cao điểm tiền tiêu do một đại đội địch chốt giữ. Trong số những chiến sĩ của ta hy sinh, có một người bạn thân của Cường tên là Tập, người cùng xã và lên đường nhập ngũ cùng ngày. Cái chết của Tập, người bạn đồng hương gần gũi nhất đơn vị làm cho Cường đau xót và hụt hẫng nhiều ngày sau đó. Nhưng cũng từ đấy, một ý thức mong được cầm súng xông lên giết giặc trả thù cho Tập đã bắt đầu hình thành một cách cụ thể và rõ nét trong tâm thức cũng như tình cảm của anh.
Rồi trong những trận đánh tiếp theo, những người bạn gần xa cùng tiểu đội, cùng trung đội, cùng đại đội… mà Cường biết tên biết tuổi, biết quê hương bản quán, thậm chí còn biết cả hoàn cảnh riêng tư, họ đã lần lượt hy sinh, để rồi được chôn cất vội vã bên những gốc cây thốt nốt, cây cao su ở một bìa rừng xa lạ nào đấy. Lòng thương nhớ đồng đội nặng lên bao nhiêu thì chí căm thù giặc trong lòng Cường cũng lại cao lên bấy nhiêu. Càng ngày Cường càng thấu hiểu một điều giản dị rằng, những trạng thái tình cảm của con người như lòng căm thù hay tình yêu thương, có lẽ không chỉ nói mà thành, nó phải được vun đắp nên từ những hoàn cảnh và sự việc cụ thể cháy gan cháy ruột mới trở thành sâu sắc được!
Trong khoảng thời gian nửa cuối năm 79 và cả năm 1980, Cường đã tham gia đánh trên chục trận lớn nhỏ, chiến đấu dũng cảm, thông minh sáng tạo và có nhiều hiệu quả trong chiến đấu. Với những thành tích nổi bật, đến đầu năm 1981 anh đã được đề bạt giữ chức Trung đội trưởng và được tặng thưởng một Huân chương Chiến công. Cũng năm đó anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thỉnh thoảng Cường vẫn viết thư về thăm bố mẹ ở quê nhà, nơi mà trong nhiều giấc ngủ chập chờn giữa hai trận đánh anh thường mơ tưởng tới. Trong thư nào anh cũng chỉ nói là đơn vị đóng quân bảo vệ Phnom Pênh, sức khỏe tốt, béo trắng như con gái, mong đi đánh nhau mà không được!
Những bức thư bố mẹ gửi sang Cường thấy cứ như những báu vật ở đời. Đọc thư nhà, Cường cứ mường tượng ra tất cả đều như đang thấp thoáng ẩn hiện quanh đây. Nhà không có trẻ con nên những đồ vật quen thuộc như con dao, cái chổi, đôi dép nhựa, chiếc nón… tất cả đều luôn nằm đúng chỗ trong ngôi nhà thân thương của mình; mảnh vườn trước nhà lúc nào cũng xanh tươi cây quả, ngạt ngào hương lan và rì rào tiếng trúc. Cường cũng thấy rõ cảnh vật ngôi trường làng nơi ăn ở làm việc của người đàn ông nhân từ có tấm lòng vàng, nhưng số phận lại chỉ dành cho những đắng cay thua thiệt, mà nay Cường đã thương xót gắn bó như người cha đích thực. Nhưng rõ ràng nhất, sáng trong nhất, tươi đẹp nhất vẫn là hình ảnh của mẹ. Mẹ lúc nào cũng hiện lên rực rỡ và hiền từ như một bà tiên. Chao ôi! Lúc này mẹ đang làm gì, mẹ đang quay tơ ở hợp tác hay đang tưới rau trong vườn. Con đi xa những việc nặng nhọc mẹ để bố làm, con biết bố yêu và thương mẹ nhiều lắm. Có bố bên mẹ con yên tâm biết bao, xin mẹ đừng buồn, con đi vài năm, kết thúc chiến tranh con lại về với mẹ. Con sẽ lấy vợ để mẹ có cháu bế, con ước mong đến ngày ấy, ngày cả nhà ta lại được quây quần bên nhau…
Các cuộc hành quân càng phát triển lên vùng núi biên giới Tây Bắc càng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của địch. Khi tháo chạy khỏi Phnom Pênh, các loại vũ khí hạng nặng như máy bay, xe tăng, đại bác, xe cộ, đạn dược và các phương tiện chiến tranh khác của Khơme Đỏ đã bị quân ta tịch thu phần lớn, sức chiến đấu của chúng giảm sút nhanh chóng, tưởng như đã bị rơi vào tình trạng tan rã. Nhiều mũi tiến công của quân ta có ngày tiến lên cả trăm cây số mà chỉ gặp phải những kháng cự yếu ớt của địch. Nhưng khi tàn quân chúng đã co cụm được về vùng núi biên giới, lập tức chúng được những liên minh ma quỷ chống Việt Nam ủng hộ về mọi mặt. Về mặt tinh thần, liên minh này ra sức vận động số đông các nước bỏ phiếu ủng hộ giữ ghế đại diện Khơ me Đỏ tại Liên Hiệp Quốc, đồng thời vận động ngoại giao lên án cuộc chiến đấu tự vệ của Việt Nam là chiến tranh xâm lược, để dần từng bước cô lập tiến tới bao vây cấm vận nước ta. Về mặt vật chất, chúng đổ không biết bao nhiêu tiền bạc, vũ khí hiện đại đủ loại để trang bị lại cho lực lượng Khơme Đỏ. Sau này khi cuộc chiến kết thúc, một nguyên thủ quốc gia trong liên minh ủng hộ Khơ me Đỏ thời đó đã tiết lộ, số viện trợ này đã lên tới 1,3 tỷ đôla Mỹ!
Trong một trận đánh lớn, đơn vị của Cường bị tổn thất khá nhiều mới chiếm được một cao điểm của địch, nhưng khi chưa củng cố xong trận địa thì địch đã lại phản công tái chiếm. Sau khi được pháo binh bắn dọn đường, 6 chiếc xe tăng địch dàn hàng ngang tiến vào trận địa của ta. Xe tăng tiến trước bắn như vãi đạn, bộ binh địch núp sau hò hét xông lên. 4 chiếc tăng địch lần lượt bị quân ta bắn cháy, 2 chiếc còn lại quay đầu bỏ chạy. Tất cả đám bộ binh địch không còn vật che đỡ dù đã tiến sát chiến hào bên ta, nhưng trước hỏa lực mạnh từ chiến hào bắn ra chúng đồng loạt quay đầu tháo chạy. Ngay lập tức các chiến sĩ ta từ bên trong công sự đồng loạt xông lên truy sát. Khi còn khoảng cách quân ta dùng AK quạt chéo cánh sẻ vào đội hình địch, nhưng khi đã đuổi kịp, mọi người nhất loạt giương lê xông vào đánh giáp lá cà. Trung đội của Cường tiến lên tả xung hữu đột như tiến vào chỗ không người. Trong lúc hàng trăm chiến binh hai bên đang quần nhau ở lưng chừng đồi thì bỗng nhiên pháo binh địch đã lại đồng loạt giội lửa xuống trận địa. Ngay lập tức pháo binh ta khai hỏa bắn khóa họng pháo binh địch. Nhưng chỉ cần khoảng năm phút bắn vào sườn đồi tranh chấp, pháo binh địch đã sát thương một số lớn binh sĩ của cả hai bên.
Ngay từ những quả pháo đầu tiên giội xuống trận địa, Cường đã thấy hàng loạt chiến binh cả ta và Khơ me Đỏ ngã gục quanh mình, anh thoáng phán đoán đây là do bọn chỉ huy khát máu Khơme Đỏ đang có dã tâm thí mạng lính mình để diệt gọn lực lượng bộ đội ta. Anh hét mọi người nằm xuống và bò nhanh về phía con hào gần đó. Bản thân anh cũng hạ thấp trọng tâm rồi rướn người lấy đà bay về phía trước. Khi Cường vừa nằm gọn dọc theo lòng chiến hào thì một tiếng nổ vàng rực bao trùm phía trên đầu. Anh không còn biết gì nữa!
… Khi Cường tỉnh lại thì đã thấy mình đang nằm trên giường. Anh cảm thấy như đầu mình đang bị bao bọc bởi một vật gì đó mềm mại nhưng kín như bưng, và có lẽ chỉ còn để hở khuôn mặt. Từ phần cổ trở xuống có vẻ như cũng bị bao bọc kín như thế, nhưng lại bằng một thứ chất liệu cứng hơn thì phải. Cường mở to mắt nhìn ra xung quanh. Trên những chiếc giường quanh phòng đều có người nằm, hầu như ai cũng được băng bó trắng toát quanh người, và trên đầu giường nào cũng lủng lẳng những chai lọ và ống dẫn cao su. Trí nhớ đưa Cường trở về với khoảnh khắc cuối cùng của trận đánh, và anh hiểu rằng mình và các đồng đội đã bị thương rồi được đưa vào đây điều trị. Cường thấy mình đã tỉnh táo, trí nhớ có vẻ ổn ổn, cảm nhận đầu tiên là có thể mình bị thương vào đầu nhưng chỉ bị phần ngoài chứ não chắc không có vấn đề gì. Nghĩ vậy nên anh thấy yên tâm, một niềm vui thầm kín lan tỏa rất nhanh như kịp đánh thức sự hoạt động trở lại của toàn cơ thể. Kiểm tra tiếp theo là xem chân tay thế nào? Cường ngọ ngoạy từng ngón tay, rồi bàn tay, rồi lần lượt nắm vào thả ra, cảm nhận thấy trơn tru nhuần nhuyễn, thế là ngon rồi! Đến lượt chân, xoay nhẹ từng cổ chân, khẽ nhấc lên, hạ xuống, bình thường, không thấy đau, không có cảm giác bị co rút nơi này nơi kia. Niềm hạnh phúc ngập tràn khi nghĩ rằng mình đã được sống trở lại với nguyên vẹn thân hình cứ miên man bay bổng và lớn dần trong tâm trí, khiến anh bất giác nghĩ xa hơn, đưa hai bàn tay cùng lúc đặt nhẹ lên háng mình, nó vẫn còn đây, phúc đức quá…
Một nữ nhân viên y tế mặc áo choàng màu rêu đi nhanh về phía Cường khi nhận ra anh đã tỉnh trở lại sau một tuần hôn mê bất động. Sự xuất hiện của cô gái trẻ khiến khuôn mặt anh đỏ bừng như cảm thấy cô đã đọc được ý nghĩ của mình, và hai bàn tay Cường đã lại nhẹ nhàng rút ra khỏi vị trí. Cô gái dịu dàng trong giọng nói Nam bộ:
- Anh đã tỉnh lại rồi, bây giờ thấy trong người sao
rồi anh?
Cường tỏ vẻ biết ơn trả lời:
- Cảm ơn cô tôi thấy ổn cả. Có thể cho biết anh em nằm đây có phải cùng đơn vị tôi được không cô?
- Em không biết các anh có cùng đơn vị không, chỉ biết phần lớn được chuyển về đây cùng ngày.
- Thế đây là đâu cô?
- Dạ thưa đây là Bệnh viện dã chiến Xiêm Riệp.
*
Nhưng tình trạng sức khỏe của Cường cũng không được ổn lắm như anh tưởng. Khi viên đạn đại bác nổ trên bờ chiến hào, tuy Cường trong tư thế nằm sấp lọt dưới lòng hào nhưng đã có nhiều mảnh nổ găm vào người, trong đó một mảnh xuyên thủng mũ sắt cắm vào hộp sọ phía sau, một mảnh văng vào vai trái cắt đôi xương quai xanh, mấy mảnh bắn vào vùng hạ sườn trái làm gẫy mấy chiếc xương sườn… Tuy não bộ và các phần phủ tạng hệ trọng không bị tổn thương, các vết thương đều đã được ngoại khoa xử lý mổ xẻ, khâu vá, bó bột ổn thỏa, nhưng sức khỏe của Cường lại bị giảm sút nhiều do bị sức ép đạn nổ, đất cát vùi lấp, mất nhiều máu và bị nhiễm trùng khá nặng. Sau nửa tháng cấp cứu trong Bệnh viện dã chiến Xiêm Riệp, anh được chuyển về Quân y viện Phnom Pênh tiếp tục điều trị. Sau ba tháng điều trị ở Phnom Pênh, mùa hè năm 1982 Cường được chuyền về điều dưỡng phục hồi chức năng tại Quân khu 9 Hậu Giang.
Về đây được một tháng thì mẹ vào thăm anh.
Mẹ khỏe mạnh, rắn rỏi nhưng già đi nhiều. Mái tóc mẹ đã điểm những sợi bạc, cặp mắt quầng sâu và có nhiều vết nhăn chân chim ở đuôi. Xót thương mẹ quá!
Thấy con trai gầy guộc xanh xao, đầu cạo trọc lốc, xốc xếch trong bộ đồng phục bệnh viện rộng chiều ngang lại ngắn quá cỡ, mẹ nghẹn ngào gọi tên rồi ôm chặt lấy anh chẳng khác nào khi anh còn bé mà khóc nức nở. Mẹ bảo từ nay mẹ sẽ không rời xa anh nữa, anh điều dưỡng ở đây mẹ ở đây, anh về đơn vị mẹ theo về đơn vị, anh đi đánh nhau mẹ cũng đi đánh nhau, mẹ không cho ai bắt anh đi xa khỏi mẹ nửa bước! Cường ngượng nghịu gỡ tay mẹ bảo rằng anh có còn trẻ con nữa đâu mà mẹ làm thế? Mẹ dụi khuôn mặt đầm đìa nước mắt của mình lên vai áo con trai hít hà bảo rằng cả đời này, cả kiếp này lúc nào mẹ cũng thấy anh bé nhỏ và càng ngày càng thấy bé nhỏ hơn…
Và mẹ đã làm như những gì mẹ nói.
Mẹ ra thuê nhà trong xóm bên ngoài trung tâm điều dưỡng, mua nồi niêu nấu nướng. Ngoài hai buổi sáng chiều khám xét thuốc thang Cường bắt buộc phải có mặt trong Trung tâm, thì mẹ xin phép đơn vị cho con trai được ra ở với mẹ. Trưa tối ngủ nhà, ngày ba bữa cơm nhà. Mẹ hứa với thủ trưởng đơn vị giờ giấc chế độ sinh hoạt xin giữ như nội quy đã định. Được sống trong không gian ngập tràn tình yêu thương của mẹ, lại được nuôi dưỡng theo một chế độ đặc biệt, đặc biệt không phải vì sơn hào hải vị gì mà chỉ là những món ăn mẹ nấu lúc nào Cường cũng thấy ngon, thấy hợp khẩu vị. Canh riêu cua ăn với rau chuối thái mỏng cùng các loại rau thơm, cá rô kho tương gừng, lươn om củ chuối, thịt lợn rang cháy cạnh, rau muống luộc nước vắt chanh… chỉ già một tháng Cường đã thấy có da có thịt, da dẻ đỏ đắn săn chắc hẳn lên. Các vết mổ nay đã tháo chỉ, tất cả đều đã lên da non, chỉ còn chỗ xương vai bị gẫy là vẫn phải đóng chốt và nẹp cố định bên trong. Vết thương trên đầu đã ổn nên được phép để tóc trở lại. Cứ mỗi ngày mỗi tí, sự phục hồi từ bên trong cộng với sự chăm chút từ bên ngoài mà phong độ khôi ngô tuấn tú vốn có đã dần trở lại với Cường.
Từ hôm mẹ vào tới nay mới hơn một tháng mà ngoài bức thư mẹ cầm tay, bố còn gửi hai bức nữa cho Cường theo đường bưu điện. Trong lá thư nào bố cũng tự trách chỉ vì chuyện đăng ký kết hôn của bố mẹ mà Cường phải đánh đổi bằng việc xung phong đi bộ đội, chẳng may nếu có chuyện gì thì bố sẽ ân hận suốt đời. Trong thư trả lời, Cường giải thích rằng nhờ có chuyện đó mà cuộc đời anh mới có một bước thay đổi mang nhiều ý nghĩa, bởi nếu không có bố ở nhà chăm nom săn sóc mẹ thì anh làm sao có thể dám lên đường đi xa, làm sao có cơ hội để thoát khỏi những suy nghĩ và nếp sống chật hẹp cá nhân, để ngày nay mới có được sự suy nghĩ và hiểu biết đầy đủ hơn về nhân dân và đất nước, cũng nhờ có vậy mà anh luôn mang trong lòng sự biết ơn sâu nặng với ông. Cường an ủi động viên bố cứ yên tâm ở nhà “trông nom nhà cửa vườn tược thay mẹ một thời gian, hoàn thành trách nhiệm công dân, như thế là công lao đã lớn lắm rồi!”. Còn về phần mình Cường bảo anh không dễ chết được đâu, chết sống có số cả rồi!
Trong một chuyến đến thăm và tặng quà cho các sĩ quan và chiến sĩ của đơn vị đang điều dưỡng ở Trung tâm, Trung tá Lương Đức Giáp có gặp riêng Cường. Ông thông báo cho biết, căn cứ vào thành tích chiến đấu và tư cách quân nhân, đơn vị quyết định phong quân hàm Thiếu úy cho Cường, đồng thời rút anh ra Bắc để theo học Học viện Quân sự, đào tạo sĩ quan chuyên nghiệp. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của anh, điều dưỡng ở đây hết một đợt ba tháng, nếu sức khỏe tốt thì nhận quyết định đi học, ngược lại sức khỏe không đảm bảo thì đơn vị sẽ làm thủ tục cho Cường ra quân.
Trong lòng Cường rộn rã một niềm vui mới mẻ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời mình, anh bỗng nghĩ về một tương lai và có ý tưởng về sự sắp đặt cho cái tương lai ấy. Anh sẽ trở thành học viên của học viện, 4 năm nhanh chóng qua đi, tốt nghiệp anh sẽ lấy một cô vợ làng, anh sẽ có con, vợ con anh sẽ ở nhà với ông bà, anh sẽ bay nhẩy theo con đường binh nghiệp như biết bao sĩ quan tài ba dũng cảm có những cuộc đời đẹp đẽ và anh hùng mà anh từng biết và luôn hết lòng ngưỡng mộ. Nhưng rồi lại có một chút lo buồn xen vào cái viễn cảnh đẹp đẽ kia khi Cường nhớ lại câu nói của Trung tá Lương Đức Giáp, tất cả còn tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của anh. Đúng thế! Nếu ta không đủ sức khỏe thì sao? Ra quân! Ra quân để lại trở về làng Sòi với cái hình dáng của cái thằng Cường ngày xưa, lại làm dân anh chị với lũ thanh niên lông bông không nghề nghiệp, không hoài bão và ước mơ? Hay là chưa đến ba mươi mà đã trở thành cựu chiến binh, một năm vài lần lễ lạt khoác bộ quân phục lủng lẳng huân chương ngồi đình ăn trầu uống nước, giống như mấy anh Sinh, Tuấn, Đô, Mạnh… cùng xóm. Cường thấy se se buồn vì cái viễn cảnh không lấy gì làm sáng sủa đang thấp thoáng phía trước.
Tối hôm đó anh đem câu chuyện ra kể với mẹ. Mẹ mừng mừng tủi tủi nói với con trai như thế là trời Phật đã thấu hiểu lời cầu khấn bấy nay của mẹ, thấu hiểu hoàn cảnh nhà mình mà phù hộ độ trì cho tai qua nạn khỏi. Mẹ bấm đốt ngón tay nhẩm tính như thế cũng chỉ còn chưa đầy nửa tháng nữa là hết đợt ba tháng điều dưỡng, và mẹ bảo mẹ lại mong từng giờ từng phút cho đến cái ngày ấy. Mẹ thắp hương khấn vái lầm rầm hồi lâu trước chiếc ban thờ đơn sơ mới lập từ ngày mẹ vào đây. Mẹ mong gì cái ngày ấy? Mong gì ư? Hai mẹ con sẽ dắt tay nhau trở về cái làng Sòi trăm nhớ nghìn thương, rồi cả ba người bố mẹ cùng con trai lại được sống quây quần bên nhau trong cái ngôi nhà thân yêu ấy, rồi làng xóm sẽ sang thăm hỏi chúc mừng, rồi cuộc sống cứ thế thanh bình trôi đi… Nhưng khi Cường phác họa cho mẹ thấy hai bức viễn cảnh đang đợi anh phía trước thì mẹ không cần đắn đo suy nghĩ mà trả lời luôn là mẹ chỉ mong anh được ra quân sớm! Đi học tiếp mà làm gì, học xong vẫn cứ là bộ đội, vẫn cứ phải đi đánh nhau, đánh nhau đâu có phải là một nghề. Mà không có đánh nhau thì bộ đội vẫn cứ phải đi, phải nay đây mai đó, mẹ chả thích con trai mẹ lại thành người như thế. Ra quân, ở nhà làm gì chả sống nổi, vợ chồng con cái sớm tối có nhau, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo, như thế mà lại chẳng sung sướng hạnh phúc hay sao?
Rồi cái ngày hai mẹ con từng phút từng giây mong đợi, nhưng mỗi người mong đợi theo một kiểu, cũng đã đến.
Cường dù có trình bầy nguyện vọng riêng với từng bác sĩ, đề nghị xem xét lại các chỉ tiêu xét nghiệm đối với các mẫu bệnh phẩm, xem lại các kết quả chiếu chụp X quang… thì bản kết luận cuối cùng là Huỳnh Minh Cường vẫn không đủ sức khỏe để tiếp tục phục vụ trong quân ngũ. Tập hồ sơ sức khỏe được chuyển tiếp về bộ phận quân lực của Mặt trận thường trú tại Quân khu 9, để giải quyết chế độ và thủ tục ra quân cho anh.
17. Thời hậu chiến
Trở về làng, những ngày tràn đầy cảm xúc được gặp lại bố, gặp bà con làng xóm, bạn bè, cán bộ chính quyền… với những lời hoan hỷ chúc tụng, những câu hào phóng ngợi khen rồi cũng qua đi nhanh chóng. Niềm vui lớn nhất đọng lại trong tâm hồn Cường những ngày này là cuộc sống của hai bố mẹ. Ông Nguyên đã mãn hạn quản thúc, chính thức trở thành công dân của xã, có hộ khẩu, có chứng minh thư nhân dân, năm ngoái đã được đi bầu cử Hội đồng nhân dân. Ông vẫn làm bảo vệ và lao công ở Trường cấp II, nhưng đêm thì được về ngủ nhà. Mẹ vẫn làm ở tổ tơ tằm hợp tác, những lúc rảnh rỗi ở nhà mẹ còn tranh thủ làm thuốc chữa bệnh. Thời gian này việc quản lý nghề phụ xem ra cũng được nới lỏng đôi phần, tuy không nói ra nhưng chính quyền không riết róng kiểm tra bắt bớ như trước. Cảm nhận về một cuộc sống hạnh phúc giản dị đằm thắm của bố mẹ, Cường thấy mãn nguyện vô cùng.
Trở về với cuộc sống thường nhật, cuộc sống mà biết bao đêm ôm súng trực chiến trên chốt hoặc những phút ngơi nghỉ giữa hai trận đánh, Cường hằng khắc khoải mong ước được sống trở lại, được hoà mình, được tan chẩy vào cái nhịp sống êm đềm thôn dã ấy, thì nay chính cái cuộc sống ấy lại đang gây cho anh những suy nghĩ và băn khoăn không dứt.
Sẽ làm gì trong cuộc sống này, ở cái làng quê nghèo khổ đất chật người đông này khi mình đã sắp qua tuổi 28. Nhiều đêm trằn trọc trên giường đếm tiếng đồng hồ tí tách vang vọng cả năm gian nhà mà không sao chợp mắt. Chao ôi, đêm không ngủ mới thấy dài làm sao! Dăm bẩy lần trở dậy đi tiểu mà đêm chưa hết. Bao nhiêu ý nghĩ lộn xộn ban ngày, thì về đêm chúng lại được sắp xếp một cách mạch lạc gọn ghẽ, để rồi những nghĩ suy về nghề nghiệp, về tương lai luôn là những điều tự nó được nhắc tới nhiều nhất. Hay là trở lại với công việc cày bừa xới xáo của hợp tác xã để vài bốn tháng một vụ qua đi ngóng trông lấy một đôi tạ thóc. Hay là xin chân thư ký cho văn phòng Ủy ban xã để ngày hai bữa toòng teng túi dết sổ sách đóng vai cán bộ. Hay cùng lắm thì quay lại cuộc đời đi buôn Bắc Nam như những tháng năm mới bước vào đời…? Tất cả những công việc thoáng qua ấy đều trở thành bất ổn, đều trở nên đắng ngắt mỗi khi Cường chạnh lòng nghĩ đến cái Học viện Quốc phòng mà anh chưa hề hình dung nó vuông tròn ra sao, nhưng cứ luôn thầm tự hào cho rằng mình đã bước được một chân vào cánh cổng nhà trường. Cứ mường tượng đến cái cánh cổng cao lớn đang hé mở, nhưng không phải để cho anh bước vào mà đang từ đấy bước ra, mà ruột gan Cường cứ quặn thắt như một sự mất mát lớn lao trong cuộc đời này. Và những lúc như thế anh lại âm thầm rầu rĩ tự nhủ, sự nghiệp của ta rồi sẽ ra sao đây?
Cường không muốn sẻ chia tâm tư của mình với ai lúc này. Nhưng bà Lan thì hiểu được nỗi lòng con trai mình, và ông Nguyên cũng cảm thông sâu sắc nỗi buồn của anh. Ông trăn trở nghĩ suy để tìm một công việc phù hợp cho anh. Cứ mỗi lần nghĩ ra được một công việc nào có vẻ hợp lý ông đều trao đổi trước với vợ. Hay là mình xin nhận khoán cái chuôm Bò Nằm cho hai bố con tôi thả cá, thứ nhất thả cá thứ nhì gá bạc. Thằng Cường nhà mình mà trông nom hồ cá thì phải biết, nó là con rái cá của cả vùng này thì còn đứa nào dám mò vào bắt trộm! Hay là mình dạy con nghề thuốc, vừa là giữ lấy nghề tổ tiên tâm đức cứu nhân độ thế, mà cuộc sống sau này cũng khả dĩ lại hợp với sức khỏe của con… Nghe chồng nói mà bà cứ thấy như nở từng khúc ruột. Có ai được như ông ấy, xót xa con vợ cứ như con mình đẻ ra, chẳng thế mà với ông, con nó cũng tay đứt ruột xót cứ như máu mủ. Bà mừng vì thân phận mình đa đoan dang dở, nhưng trời Phật thương xót cho hưởng hậu vận, được mụn con trai mà lại là quý tử. Con trai thương yêu hiếu đễ với mẹ xưa nay không hiếm, nhưng thương yêu hiếu đễ đến mức tìm chọn rồi lấy chồng cho mẹ như con trai bà, thì trên đời này dễ thường có một. Mà khéo khen thay, tưởng là lêu têu hóa ra con mắt tinh đời, người đàn ông con chọn cho mẹ lại là một người đàn ông giỏi giang hiểu nhiều biết rộng, một con người có tấm lòng vàng ẩn dưới lớp vỏ mộc mạc chân quê, thương yêu mẹ con bà hết mực. Cuộc đời bà từ đây, hai bên là hai người đàn ông như thế, bà chẳng còn mong ước gì hơn nữa.
Bà Lan tâm sự với con trai nhiều lần, nhưng những việc ông bà lựa chọn đều không đem đến cho con chút hào hứng nào. Bà xót xa hiểu rằng khi mà mong ước về cái học viện đào tạo sĩ quan vẫn còn chưa nguôi trong lòng thì tất cả đều trở thành vô nghĩa với nó. Trước nỗi buồn cố giấu mà không giấu nổi của con, bà mới động viên hay cứ lấy vợ đi đã rồi mọi việc sẽ tính sau. Kinh tế nhà mình bây giờ cũng không đến nỗi nào, thêm người chỉ như thêm bát thêm đũa. Lấy vợ có con rồi sẽ đâu vào đấy cả thôi. Bà gợi ý cái Lý con nhà Ly ở xóm Chùa năm nay 18, trượt đại học, xinh xắn ngoan ngoãn, bố cũng sĩ quan quân đội, nó cũng có vẻ thích con, nếu thấy ưng ý mẹ nhờ người mai mối.
Cường thương mẹ quá mới an ủi mẹ cứ yên tâm, cho con suy nghĩ thêm thời gian nữa rồi sẽ quyết định việc làm, ổn định công ăn việc làm đâu vào đấy rồi mới tính chuyện vợ con!
Nói mạnh thế thôi chứ thực ra trong suy nghĩ của Cường thì cả hai việc này, chọn nghề và lấy vợ, đều khó như nhau. Lấy vợ mà không nghề nghiệp phải ăn bám bố mẹ thì chẳng bõ để vợ nó khinh cho. Ngược lại phải lựa chọn lấy một việc làm trong những công việc mà chưa làm đã thấy chán, thì có khác nào cái cảnh phải quyết định chọn lấy một cô vợ trong số những cô nàng được mai mối, mà mình thì lại chưa hình dung ra các cô là người thế nào!
Trong lúc Cường đang ngổn ngang trăm mối thì ông Nguyên thông báo, chủ nhật này mọi người tạm nghỉ việc nhà một hôm để sang Nam Bình ăn giỗ ông Tịnh. Mẹ chuẩn bị đồ lễ, bố chọn những cây cải và quả cà chua ngon nhất làm quà, Cường kiểm tra cân chỉnh lại chiếc xe máy có tên cúng cơm là Hẩu Tơ nổi tiếng khắp vùng. Mẹ bảo ba người cùng ngồi xe có chịu nổi không? Cường cười mà rằng lần đưa mẹ đi cấp cứu bệnh viện huyện cũng ngồi kẹp ba mà có sao đâu, chẳng những thế, nhờ có kiểu ngồi này mà bố mẹ mới có cơ hội biết nhau là gì! Nghe Cường nhắc lại chuyện cũ cả hai bố mẹ đều đưa mắt mỉm cười nhìn nhau.
*
Đây là lần thứ hai mẹ sang Nam Bình. Lần đầu khi bố Nguyên vừa hết hạn quản thúc và được tự do đi lại, bố đã đưa mẹ về thăm nhà nội, thắp hương trước ban thờ kính báo tổ tiên cùng hương hồn ông bà Trương Ký, xin phép để cho người con dâu Nguyễn Thị Hương Lan ra mắt họ hàng gia tộc, rồi cùng mọi người ra nghĩa trang viếng mộ bà Trương sau hơn hai chục năm bố Nguyên xa nhà.
Còn đối với Cường thì đây là lần đầu anh được tiếp xúc với những người họ hàng ruột thịt của bố. Đó cũng là dịp để anh làm quen dần với những con người và khoảng không gian làm nên một ý niệm tình cảm mới trong anh, ý niệm về bên nội, nhà nội, quê nội.
Ông Tịnh là chú ruột của bố, ông mất cách đây hai năm khi bố chưa hết hạn quản thúc tại làng. Bởi vậy trong suốt thời gian đi tù 15 năm trước đấy cho đến khi ông Tịnh mất, hai chú cháu không được gặp mặt nhau lần nào. Ông Tịnh có hai người con trai, một người tên Liêm là sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu, một người tên là Chính, cán bộ của Bộ Nội Thương về hưu cũng được vài tháng nay. Con gái lớn của ông Chính có người chồng tên là Luân năm nay 45 tuổi, nhưng xét về vai vế họ hàng thì Luân phải gọi Cường là anh, anh em con chú con bác, bố Nguyên bảo thế. Luân hiện là Giám đốc Công ty Bách hóa - Điện máy của tỉnh.
Qua câu chuyện Cường được biết là toàn bộ cơ ngơi đồ sộ của cái công ty do Luân làm giám đốc này, bao gồm trung tâm bán lẻ bách hóa tổng hợp rộng hàng nghìn mét vuông, rồi hàng vạn mét vuông kho tàng, nhà xưởng, văn phòng làm việc và nơi giao dịch tiếp khách… trước đây đều thuộc tài sản riêng của hãng buôn Trương Ký do bố đẻ của hai ông Nguyên Tịnh làm chủ. Năm 1954 ông Trương Ký và gia đình di cư vào Nam, nên tất cả cơ ngơi ấy đều bị Nhà nước quản lý 100% dưới dạng Nhà vắng chủ, mặc dù lúc ấy ông Tịnh là em ruột có giấy ủy quyền của anh mình xin đứng ra quản lý cũng không được; và ngay con trai cả của ông Trương Ký là Hoàng Hữu Nguyên, lúc ấy còn đang công tác trên Hà Nội cũng không đủ quyền đại diện quản lý. Ông Trương Ký vào Nam đến năm 1975 lại cùng con cháu di tản sang Mỹ. Ông Trương đã mất năm 1980, con cháu hiện vẫn sinh sống bên Mỹ nhưng chưa có cơ hội về thăm quê.
Cũng lại từ những câu chuyện tản mạn của các ông Liêm, ông Chính cùng anh em con cháu họ tộc, Cường còn biết thêm nhiều điều bí ẩn về bố Nguyên của mình. Thì ra ông không phải là một cán bộ xuất thân từ một gia đình dân nghèo thành thị để đi theo cách mạng như ông vẫn nói với Cường lâu nay. Trên thực tế ông là một người học cao hiểu rộng, sinh trưởng trong một gia đình giầu có, vì lý tưởng độc lập và giải phóng dân tộc mà đi theo cách mạng. Nhưng vì nhận thức và quan điểm có giai đoạn không phù hợp với đường lối chung mà phải chịu cảnh đọa đầy tù tội. Còn câu chuyện nhận thức và quan điểm ra sao mà dẫn đến cái án nặng đến thế thì mãi sau này ông Nguyên mới có dịp nói cho Cường biết. Theo như nhận thức và quan điểm của ông thì đất nước nào cũng vậy, muốn phát triển trở thành mạnh giầu thì Nhà nước cần phải biết cách khơi dậy được nguồn lực toàn dân, tạo mọi điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, cả quốc doanh và tư nhân cùng được bình đẳng phát triển, chứ không phải tìm cách xóa bỏ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chỉ để cho quốc doanh độc quyền như lâu nay ta vẫn làm. Về vấn đề này đối với Cường khi đó, nghe đấy nhưng cũng chỉ như vịt nghe sấm. Tuy không hiểu gì về nội dung bản chất vấn đề, nhưng chỉ với hậu quả tù đầy mấy chục năm bố phải gánh chịu, anh hiểu là sự khác biệt như thế hẳn phải là rất nghiêm trọng, và chỉ những người có bản lĩnh và trung nghĩa lắm mới dám thể hiện ra. Điều đó khiến anh càng cảm phục, thương xót bố hơn. Có thể nói là đến đây thì anh đã bị người đàn ông anh gọi là bố chinh phục hoàn toàn.
Nhớ lại cuộc gặp gỡ định mệnh đầu tiên trong cái đêm trước Tết năm nào, chính cái cách hành xử đầy chất hảo hán trượng phu của ông Nguyên mà Cường đã bị chinh phục ngay từ những giây phút đầu tiên. Nhưng cuộc chinh phục lần thứ nhất ấy, tạm gọi là như thế, lại mới chỉ bắt nguồn từ lòng ngưỡng mộ tuyệt đối qua con mắt của kẻ võ sinh trước bậc hảo hán võ lâm cao thủ trên chốn giang hồ mà thôi.
Rồi khi mối quan hệ tình cảm bố con giữa hai người được hình thành, thì những phẩm chất tốt đẹp của một con người tài đức ẩn chứa dưới cái vẻ bề ngoài bình dị đã ngày càng bộc lộ, đã từng bước đánh thức những thiên tính tốt đẹp ẩn chứa trong tâm hồn Cường, và cũng nhờ vậy mà cái khoảng trống khát khao tình cảm trong tâm hồn người con trai có cảnh ngộ éo le bị mất người cha ruột như Cường, đã dần dần được bù đắp. Khi trái tim chân thành được đánh thức bởi những tình cảm tốt đẹp, điều đó cũng có nghĩa anh đã lại bị chinh phục lần nữa, nhưng ở một cấp độ sâu sắc hơn.
Và hôm nay khi Cường có cơ hội hiểu sâu hơn nữa về bố, một con người có một số phận thăng trầm. Một tấm lòng thành đi theo lý tưởng mà sẵn sàng xa rời bố mẹ và gia đình, sẵn sàng từ bỏ cuộc đời nhung lụa và địa vị xã hội cao sang, để rồi cuối cùng lại phải mang cái trọng tội là đi ngược lại đường lối cách mạng và bị loại khỏi đội ngũ như một kẻ phản bội. Một con người công lao và xả thân đến thế mà cuối cùng lại mất tất cả, mất đến trắng tay, mà sao vẫn có thể lạc quan tin tưởng cuộc đời, không vướng víu hận thù, vẫn một lòng tin tưởng vào con đường đi lên và phát triển của đất nước, của dân tộc?
Hình ảnh con người ấy trong lòng Cường, từ đây không phải chỉ là một bậc trượng phu hảo hán, không phải chỉ là một người cha lý tưởng của anh, một người chồng hoàn hảo của mẹ, mà hình ảnh ông đã bừng sáng lên trong tâm thức anh như là hiện thân của Đức Phật từ bi.
Được sống bên ông, được gọi ông là bố, càng ngày anh càng thấu hiểu hơn rằng, chính ông mới là người đem lại sự hồi sinh cho mẹ con anh, cho ngôi nhà lạnh lẽo thê lương của mình.
Chuyến về thăm nhà nội lần này còn đem đến cho Cường một điều bất ngờ, giống như một điểm gấp khúc con đường đưa anh sang một hướng đi mới mẻ.
Chẳng là trong lúc ngồi uống rượu, Luân có hỏi thăm tình hình công việc làm ăn của Cường lúc này ra sao, khi biết Cường hiện vẫn thất nghiệp ở nhà, Luân mới trao đổi rằng, căn cứ vào những điều tra khảo sát có cơ sở thì nhu cầu mua bán và sửa chữa tân trang các loại hàng điện máy kỹ thuật ngày một tăng lên trên thị trường khu vực, công ty anh đang có ý định thành lập một trung tâm kinh doanh nhằm đáp ứng và khai thác nhu cầu ấy, với mục đích tăng thêm doanh thu và lợi nhuận, đồng thời góp phần giải quyết số lao động dôi dư hiện đang ngày một nhiều. Mô hình kinh doanh sẽ áp dụng theo kiểu các trung tâm mua bán đồ cũ Chợ Giời trên Hà Nội. Nhưng đây là một công việc rất mới mẻ, công ty chưa có chút kinh nghiệm nào, nên cần có một người phụ trách tin cậy, nhanh nhẹn tháo vát lại phải am hiểu về kỹ thuật các loại xe máy, hàng điện tử, các đồ dùng máy móc. Ngặt một nỗi là chưa tìm được người hội đủ những yêu cầu đó. Đa phần chỉ được một mặt, thật thà tin cậy thì lại chậm chạp nhút nhát, mà nhanh nhẹn tháo vát một tí thì lại cứ như đười ươi giữ ống không thể quản nổi. Luân bảo được người như bác Cường về phụ trách trung tâm đó thì em có thể yên tâm kê cao gối ngủ. Đúng là chuyện thật như đùa, rập gẫy có hai lần cạn chén chuyện tới chuyện lui thế là xong việc. Giám đốc Luân phán ngay giữa bàn tiệc, bác Cường về nhà một tuần nghỉ ngơi chuẩn bị, sáng thứ hai tuần sau nữa đến công ty nhận chức trạm trưởng bắt đầu điều hành công việc!
Nghe con rể phán thế, ông Chính bố vợ phán tiếp, Cường sang đây làm việc sẽ ăn ở ngay nhà cô chú, nhà rộng anh sẽ ở một phòng riêng trên gác hai đi khóa về mở, đi làm gần nhà, ngày ba bữa sáng trưa chiều tối ăn với cô chú. Chủ nhật ngày nghỉ thích về nhà thì về không thì nghỉ lại cho khỏe!
Niềm vui quá lớn, quá bất ngờ, Cường hỏi ý kiến bố mẹ. Cả hai ông bà đều bảo miễn là con thấy vui là bố mẹ thấy vui.
Thế là xong một việc lớn!
*
Lần đầu tiên ra sống ở thành phố nên cũng là lần đầu Cường hiểu thế nào là cuộc sống bao cấp. Khác hẳn với nông thôn cuộc sống chủ yếu là tự cung tự cấp, tự bới đất nhặt cỏ, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, mà không làm thì không hưởng. Ở thành phố mọi người từ công nhân viên chức trong biên chế nhà nước cho đến dân thường, ai ai cũng được Nhà nước bao cấp cho một mức sống cơ bản. Sự bao cấp đó thể hiện qua tiêu chuẩn tem phiếu của từng người, từng hộ gia đình. Ví dụ cán bộ nhân viên văn phòng và dân thường ai cũng như ai đều 13,5 cân gạo mỗi tháng, nhưng công nhân cơ khí thì 17,5 cân, công nhân làm cầu hoặc hầm lò thì 21 cân. Tiêu chuẩn đường, thịt cá cũng thế, cao thấp tùy loại. Nhưng vải mặc thì như nhau, cán bộ cao cấp Bộ, Thứ trưởng đến nhân viên mới biên chế cũng đều 5 mét mỗi người một năm, dân thường và trẻ con thì đều 4 mét…
Cường tiếng là nhân viên công ty quốc doanh của tỉnh nhưng chưa được tuyển vào biên chế chính thức nên anh cũng chưa có một tiêu chuẩn tem phiếu nào. Có nghĩa thực chất anh vẫn là một anh nông dân, mặc dù là nông dân ra tỉnh, nhưng vẫn là nửa tỉnh nửa quê, vẫn cứ phải sống kiểu gạo chợ nước sông. Tự hiểu hoàn cảnh như thế nên anh đã chủ động thưa chuyện với cô Nhàn vợ chú Chính để được nộp tiền ăn hàng tháng cao gấp đôi mức bình thường. Nhưng cô Nhàn bảo cô coi Cường như thằng Nhân con Tâm, chúng đều đóng góp tiền ăn cho mẹ 18 đồng mỗi tháng, nên anh cũng chỉ cần đưa cho cô ngần ấy thôi. Cô còn giải thích thêm để Cường yên tâm là tem phiếu tiếng là như thế, nhưng dạo này mậu dịch cũng chẳng có gì mà bán, thịt cá nhiều tháng bán thay bằng đậu phụ, bằng lạc, bằng vừng, có khi đậu lạc vừng cũng chẳng có, thế là tiêu chuẩn tem phiếu cả nhà cả tháng có khi lại phèo!
Gạo đong sổ là thứ quan trọng bậc nhất của thời bao cấp, quan trọng tới mức nó đã đi vào ca dao tục ngữ của dân mình. Ví như khi định tả một người nào đấy bị rơi vào hoàn cảnh bĩ cực phân vân chưa tìm được đường ra thì người ta chỉ cần bảo: “Làm sao mà mặt cứ đần ra như mất sổ gạo thế kia?”. Quan trọng đến thế mà dạo này các cửa hàng gạo mậu dịch lúc nào cũng thấy đóng cửa im ỉm với một cái bảng gỗ treo bên ngoài có dòng chữ thông báo lạnh ngắt: Gạo chưa về. Thế rồi mấy hôm sau khi cánh cửa mở ra thì gạo cũng không có mà chỉ có mì sợi bán thay. Nhưng rồi mì sợi cũng hết mà chỉ có ngô xay. Ngô xay nhiều hôm cũng hết chỉ có sắn hoặc khoai lang thay thế. Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ. Đến nước này, ngô khoai sắn mà có thì cũng còn là phúc!
Ngay mấy cửa hàng bán lẻ thuộc công ty nơi Cường làm việc cũng thế. Cửa hàng trên gác dưới nhà rộng mênh mông, dài hun hút, nhưng trong các quầy tủ kính bầy biện các loại hàng hóa như vải vóc, quần áo may sẵn, nồi xoong nhôm Hải Phòng, bát đĩa sứ Hải Dương, quạt máy Điện Cơ Thống Nhất, giầy vải Thượng Đình, dép nhựa Tiền Phong, ruột phích Rạng Đông… trên mỗi mẫu hàng đều có một cái bảng nho nhỏ đề chữ Hàng mẫu không bán. Những mặt hàng có thể bán tự do chỉ lèo tèo mấy hộp phấn trắng viết bảng, mấy viên bi đất sơn xanh đỏ cho trẻ con chơi, mấy bức tượng thạch cao lấm lem bụi phủ, hoặc mấy tấm ni lông đi mưa bằng nhựa tái sinh màu cứt ngựa hay nâu đất dầy như mo nang… Mỗi quầy hàng dài hàng chục mét chỉ một cô mậu dịch viên đứng trông hàng, mặt buồn rượi, ruồi đậu chẳng buồn xua. Số đông các nàng kiều nữ oai phong kiêu hãnh một thời nay cho nghỉ việc hoặc phải chuyển sang lao động các khâu khác.
Không ai có thể hiểu nổi vì sao sự thể lại diễn ra như thế, vì sao cuộc sống ở thành phố lại bỗng nhiên trở nên khó khăn, càng ngày càng khó khăn, và chưa bao giờ khó khăn như giai đoạn này? Mà không hiểu nổi là phải. Đất nước và dân tộc vừa bước ra từ vầng hào quang chiến thắng rực sáng nhân loại, lẫy lừng thế kỷ. Vừa đánh thắng liên tiếp hai thằng đế quốc to nhất thế giới, một thằng đế quốc kiểu cũ là Pháp, một thằng đế quốc kiểu mới là Mỹ. Giang sơn thống nhất thu về một mối. Những miền đất nông nghiệp rộng mênh mông thẳng cánh cò bay và trù phú bậc nhất thế giới đã thuộc về ta. Hàng nghìn hàng vạn những cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng có sẵn trang thiết bị hiện đại và đội ngũ công nhân tài giỏi lành nghề đã thuộc về ta. Hàng núi tài sản chiến lợi phẩm thời hậu chiến, hàng dẫy kho tàng ăm ắp của nả địch chạy không kịp mang theo… Một cuộc sống no ấm với mục tiêu cơm ngon áo đẹp, với TV tủ lạnh cho mọi nhà đã là nhãn tiền, đã trong tầm tay. Thế mà nay bỗng dưng không biết vì sao mà biến đi đâu hết? Người đứng tuổi hơn thì bảo khó khăn như thời bao cấp, hơn thời bao cấp. Bọn trẻ sành điệu thì bảo như thế là lại về “mo” mất rồi. Bọn con cái nhà khá giả được hưởng nhiều lộc lá thời bao cấp, không kìm lòng được thì bảo, còn hơn thế nữa, thực chất là đã về số âm!...
Hồi Cường còn ở nhà thì cứ gọi là nhất mẹ nhì con, ra đến ngõ thì mình là bố tướng, lũ trai làng đứa nào đứa ấy đều nể một phép. Nay ra thành phố làm việc, được tiếp xúc với người thành thị, lại làm việc trong một môi trường buôn bán, mà lại buôn bán dặt một thứ đồ kỹ thuật đã qua sử dụng mà người ta quen gọi là đồ Si cơn hen, có thể nói, mọi thứ đến với anh đều khá là mới mẻ, phức tạp so với những gì có trong con người anh. Nhưng cũng may nhờ có thời buôn bán Bắc Nam mà Cường đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm và kiến thức trong việc buôn bán ngạch hàng đặc biệt này. Ví như việc đánh giá chất lượng hàng hóa cả nội dung và hình thức, nắm bắt thị hiếu thị trường, xác định giá cả mua vào bán ra, dự đoán những diễn biến của thị trường… thì chỉ vài lần dạo quanh phố là Cường đã có thể nắm khá chắc thông tin để có những quyết định kinh doanh cần thiết. Điều đó giúp cho anh có được sự tự tin rất nhiều khi quyết định nhận nhiệm vụ trước Giám đốc Luân.
Hàng ngày lo công ăn việc làm cho mấy chục con người, phải lo hoàn thành kế hoạch, phải lo nộp đủ tiền công ty khoán. Muốn thế phải hiểu tính nết, khả năng từng nhân viên mà bố trí công việc sao cho thích hợp, sao cho ai cũng phải làm việc, ai cũng làm ra tiền. Trước hôm khai trương Cường cứ lo khách hàng sẽ vắng như các cửa hàng mậu dịch khác. Nhưng cũng thật là phúc đức, cái trung tâm mua bán, dịch vụ sửa chữa hàng điện máy của Cường, ngay từ hôm khai trương, lúc nào cũng đông vui người ra kẻ vào. Suốt một tháng liền Cường không dám nghỉ ngày nào, chủ nhật cũng có mặt, lăn lộn ở cửa hàng từ sáng đến tối. Chỉ đạo việc mua việc bán, việc sửa chữa tân trang sản phẩm sao cho bóng bẩy đẹp đẽ, từ đồ điện tử đến xe máy, từ tủ lạnh đến quạt trần, thôi thì trăm thứ bà giằn. Nhập vào thì cứ như hàng đồng nát, nhưng qua một vòng sửa chữa tân trang của các bộ phận, sản phẩm lại trở nên long lanh hấp dẫn. Uy tín của cửa hàng được khẳng định ngay từ vòng đầu. Những khách hàng có nhu cầu mua bán, dịch vụ sửa chữa hàng hóa trước đây đều phải đưa lên Hà Nội hoặc sang Hải Phòng, nay thì họ bảo nhau gửi hết vào cửa hàng Nam Bình. Công việc nhiều, thu nhập nhân viên cao, tiếng nói trưởng đơn vị có trọng lượng, mọi việc trong cửa hàng chạy cứ ro ro.
Kết thúc quý kinh doanh đầu tiên, Luân mời Cường lên văn phòng trao đổi công việc. Cho Cường xem báo cáo kế toán về kết quả kinh doanh của trạm sau 3 tháng hoạt động, Luân hớn hở khoe mọi chỉ tiêu đều có thể nói là hoàn hảo: “Bác đúng là cứu tinh của em, không có cái trạm của bác thì không biết công ty lấy gì mà tính doanh số, lấy gì mà có lợi nhuận, lấy gì mà chi tiêu. Tiện đây cũng thông báo với bác là em vừa ký công văn gửi cấp trên đề nghị xin duyệt chỉ tiêu biên chế cho bác, nếu thuận lợi thì vào dịp cuối năm bác sẽ trở thành cán bộ nhà nước, kịp đưa tên vào danh sách kê khai xin cấp tem phiếu của toàn thể công ty”. Nghe ông em rể họ xa bắn ba phát ca nông mới tới nói như thế, ruột gan Cường cứ thấy mát rười rượi.
Khi nhịp điệu kinh doanh của trạm đã đi vào ổn định Cường mới dần dần dứt khỏi công việc để khoảng vài tuần một ngày chủ nhật tranh thủ phóng xe máy về quê thăm bố mẹ. Mỗi lần về anh thường đem các câu chuyện thành phố kể bố mẹ nghe, dĩ nhiên chuyện đời sống lam lũ của dân cư luôn là chủ đề chính. Nghe chuyện con kể, bà Lan cũng có dịp góp thêm. Ở quê dạo này cũng thế, trong các quầy hàng của hợp tác không một thứ nào được bầy ra. Ngay đến phiên chợ làng cũng chỉ lèo tèo mấy gánh khoai lang củ dài như đám rễ cây. Mấy con lợn giống cũng cứ dài ngoẳng như mấy con chuột. Gạo ngô cám bã thì đắt như vàng. Phân đạm thuốc trừ sâu không đào đâu ra mà sâu bọ thì nhiều vô kể. Những người nhanh nhẹn khỏe mạnh tìm cách chạy chợ khi vài yến gạo, lúc mấy bao phân đạm, nhưng chỗ nào cũng cấm chợ ngăn sông, quản lý thị trường bắt được thì chỉ có mất trắng. Điện đóm lại cắt triền miên, máy bơm chết khát, vụ lúa nào cũng gặp đại hạn nên cây lúa ngẳng ngheo như cây cỏ may. Chưa bao giờ công sá hợp tác lại thấp như bây giờ. Nhiều nhà đã bị đứt bữa. Nạn đói đã thấy nhấp nhổm chỗ này chỗ kia, không ít người bỏ làng lên Hà Nội ăn xin. Mấy mảnh vườn ở nhà và ở trường bố mẹ đã chuyển hết sang trồng khoai và ngô chống đói…
Ông Nguyên thì ngược lại, không cần vẽ thêm nét nào vào cái bức tranh đời sống và kinh tế vốn đã xám xịt thế kia, ông muốn bằng sự hiểu biết thông qua những thông tin tổng hợp và phân tích được từ các đài phát thanh trong và ngoài nước, ông sẽ cắt nghĩa để vợ con hiểu thêm mà có ý thức chuẩn bị và bình tĩnh trước mọi biến động. Theo ông, sở dĩ tình hình đất nước ngày một xấu đi như hiện nay là do hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, những khoản tiền rất lớn mà nước ta vay các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em nay đã tới kỳ đáo hạn phải trả. Trong khi các nước cho vay đó cũng đang khó khăn bởi khủng hoảng kinh tế và xã hội, họ không cho ta hoãn nợ được nữa. Phải trả nợ hàng loạt nước cùng một lúc nên nước ta bắt buộc phải thắt lưng buộc bụng để lo trả nợ, làm ra đồng nào trả nợ đồng ấy. Nhà nước không lấy ngoại tệ đâu ra để nhập lương thực, nguyên liệu vật tư cung ứng cho đời sống và sản xuất trong nước. Dự trữ quốc gia cạn kiệt, thị trường trở nên tiêu điều xơ xác là thực tế không tránh khỏi.
Nguyên nhân thứ hai là các liên minh chống Việt Nam do Mỹ đứng đầu, vin vào cớ Việt Nam tiến đánh Khơme Đỏ, đã tiến hành một cuộc bao vây cấm vận kinh tế một cách triệt để chống nước ta. Ta sản xuất được gì bán ra không nước nào dám mua, ngược lại ta muốn mua gì cũng không nước nào dám bán. Âm mưu cực kỳ thâm độc và tàn bạo của liên minh này là không thắng nổi Việt Nam bằng quân sự thì sẽ bắt Việt Nam phải tự suy sụp bằng sự kiệt quệ về kinh tế.
Những diễn biến ngày một khó khăn của thực tế đời sống kinh tế, và kéo theo là những phức tạp xã hội đều bắt nguồn trực tiếp từ hai nguyên nhân, giống như hai gọng kìm bằng thép này, đang siết chặt nền kinh tế nước ta. Rồi đây tình hình còn có thể diễn biến xấu hơn nữa nếu như Nhà nước không tìm được phương thức gì để khai thác được tất cả tiềm năng ẩn chứa trong dân, trong đất, trong nước, nhằm thoát khỏi thế bị bao vây trả thù của cái liên minh chính trị ma quỷ hiện nay.
Đời sống người dân ở Nam Bình cũng như ở dưới quê cứ ngày một tỏ ra khó khăn hơn, chiều hướng diễn biến thật giống với những gì ông Nguyên nhận định. Cứ suy từ Công ty Bách hóa - Điện máy cũng đã thấy, số cán bộ công nhân viên phải thay nhau nghỉ việc hưởng 50% lương đã lên đến quá nửa. Ngay đến như Trạm kinh doanh dịch vụ của Cường, một hai năm qua hoành tráng là thế, phát đạt là thế, mà nay khách hàng cũng thấy thưa thớt đi nhiều. Anh em nhân viên trong trạm tự giải thích cho nhau nghe, người dân ăn đã không có thì lấy đâu mà chơi, lấy đâu mà nghe nhạc, phóng xe… để rồi lấy đâu mà thường xuyên lui tới cửa hàng Si cơn hen này nữa!
Nền kinh tế bao cấp của Việt Nam là nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa, phát triển có kế hoạch, mọi thứ đều rất chỉn chu, rất có lề thói. Ngay đến những từ ngữ liên quan đến việc mô phỏng cả hình thức lẫn nội dung của nền kinh tế ấy cũng được chọn lựa thật kỹ càng. Không bao giờ có những khái niệm thất nghiệp, bãi công, đình công, lạm phát… trong thiết chế kinh tế này. Những ngày tháng khốn khó những năm 84-85, khi mà phần lớn số lao động trong công ty không kiếm đâu ra việc làm thì người ta cũng chỉ được phép gọi đó là số lao động dôi dư, hoặc số lao động chưa bố trí được việc làm. Không ai bảo ai nhưng tuyệt nhiên không ai dám bảo đó là những người thất nghiệp. Gọi thất nghiệp là phạm húy, là quan điểm lập trường có vấn đề ngay lập tức.
Một cái công ty cỏn con ba trăm người như Công ty Bách hóa - Điện máy mà đã không dưới trăm rưỡi người dôi dư, chưa bố trí được việc làm. Suy rộng ra hàng nghìn, hàng chục nghìn doanh nghiệp cả nước thì số người dôi dư nó sẽ nhiều biết chừng nào. Thử nhẩm tính sơ sơ, con số ước đoán cũng đã thấy nghẹt thở. Đấy là chưa nói đến số lao động nông nghiệp của một đất nước 80% dân sống bằng nghề nông như nước ta.
Ngày xửa ngày xưa các cụ ta mỗi khi gặp hoàn cảnh bấn bách, công việc khó khăn, làm ăn thất bát, vẫn thường an ủi nhau: “Cái khó bó cái khôn!”. Thế là xong, thế là đại xá cho nhau. Nhưng cuối thời bao cấp những năm 80 thế kỷ 20, con cháu các cụ lại không thế, con cháu các cụ biết động viên nhau, khích lệ nhau vượt lên mọi khó khăn bằng câu ngạn ngữ kiểu mới: “Cái khó ló cái khôn!”. Mà quả là đúng như thế thật! Cứ suy ra từ cái đội quân lao động dôi dư vài triệu người của những năm ấy, tưởng nguy tới nơi, thế mà chỉ đùng một cái, Nhà nước đã ló ra một giải pháp hơn cả cái khôn, có thể gọi là rất thần tình, ấy là ký kết hợp đồng lao động với các nước Xã hội chủ nghĩa anh em đang còn là chủ nợ của ta, mau chóng đưa những lao động dôi dư chưa bố trí được việc làm trong nước sang lao động tại các nước chủ nợ ấy. Những hợp đồng như thế được gọi là hợp đồng hợp tác lao động, và do đó những người sang lao động theo những hợp đồng như thế được gọi là đi lao động hợp tác, hay đi hợp tác lao động thì cũng thế. Mãi sau này khi mà những khái niệm của thời bao cấp bớt thiêng đi đôi chút thì người ta mới gọi những cuộc đi như thế là đi lao động xuất khẩu, nghe có vẻ phạm húy một chút nhưng có lẽ như thế lại đúng với nội dung và bản chất vấn đề hơn, nên sau này trong các văn bản người ta vẫn quen gọi như thế mà cũng không sao, không ai bắt bẻ nữa.
Được đi lao động xuất khẩu hồi ấy là cả một vinh dự lớn, vinh dự cho cá nhân, vinh dự cho cả nhà có khi là cả họ, là niềm mơ ước của biết bao chàng trai cô gái trẻ tuổi. Quý và hiếm như thế nên chỉ tiêu lao động xuất khẩu được cấp trên phân bổ nhỏ giọt như rắc mì chính cánh, trước hết cho các xí nghiệp công trường quốc doanh. Công ty Bách hóa - Điện máy của Luân đợt đầu được hai suất đi Đức, đợt sau được 4 suất đi Liên Xô. Những người được chọn đa phần là bộ đội phục viên, có thành tích chiến đấu và hiện là những lao động tiên tiến lại có hoàn cảnh khó khăn.
Một buổi tối, trong lúc Cường đang loay hoay ngồi chữa chiếc TV cũ mua rẻ của người quen định xong sẽ đem về quê cho bố mẹ dùng thì Luân gõ cửa bước vào. Sau một hồi thăm hỏi chiếu lệ, Luân đi thẳng vào vấn đề:
- Em biết công việc làm ăn của trạm bác thời gian qua sa sút nhiều không phải vì bác và anh chị em không cố gắng, trên thực tế hoàn toàn là do khách quan cả thôi. Máy móc trên thị trường chỉ có ngần ấy, dùng mãi phải cũ, chữa mãi cũng phải nát thì lấy đâu ra khách mà phục vụ mãi. Nhưng tình hình không phải chỉ dừng ở đấy thôi đâu, tới đây công ty mình còn phải nhận thêm hơn trăm lao động dôi dư ở mấy đơn vị cùng Sở Thương nghiệp kinh doanh thua lỗ giải thể, tình hình đã khó sẽ lại còn khó khăn hơn rất nhiều. Em dự định là khi đó trạm của bác sẽ phải nhận thêm ít nhất ba chục lao động nữa, với số hiện có, trước sau bác có trên sáu chục. Thủ trưởng một đơn vị như thế là lớn chứ không đơn giản đâu. Anh em trong nhà phải nói thật là em lo cho công việc của bác khi đó lắm, không biết bới đất nhặt cỏ kiểu gì mà nuôi nổi ngần ấy con người, đấy là chưa kể những khoản nộp khoán công ty sẽ phải lớn hơn hiện nay nhiều. Bởi vậy hôm nay đến thăm bác nhưng cũng muốn báo cáo trước như thế để bác biết mà không bị bất ngờ.
Về tình hình tổ chức công ty, phong thanh dư luận Cường cũng nghe tin ấy từ lâu, nhưng anh cứ đinh ninh nếu sát nhập mấy đơn vị kia vào thì công ty mình sẽ lớn lên, sẽ có thêm mạng lưới, có thêm nhà xưởng, thêm ô tô và tài sản, sẽ khỏe lên như rết thêm chân, rồng thêm vẩy. Định bụng đợi cho đến lúc ấy, khi tình hình sáng sủa lên một chút thì anh sẽ báo cáo Luân xin thôi giữ chức Trạm trưởng để xuống làm công nhân kỹ thuật thuần túy.
Sở dĩ có ý định ấy bởi từ khi công việc làm ăn của trạm khó khăn, việc ít, thu nhập thấp lại thất thường, những nhân viên có ý thức thì họ hiểu và vẫn giữ cung cách cư xử trên dưới đúng mức trong công việc, nhưng có một số thấy khó khăn bắt đầu tỏ thái độ làm việc biếng nhác cẩu thả, giở giọng cạnh khóe xa xôi. Ngay đối với bác Ngừng Trạm phó trực tiếp điều hành công việc sản xuất, tuổi tác vào hàng cha chú chúng cũng không nể. Đối với loại này nếu chỉ tay bo với nhau thì Cường sẽ cho chúng biết luật, nhưng đây là công ty nhà nước không thể cư xử theo lối chợ búa. Vả lại còn phải nghĩ đến Luân, phải giữ uy tín cho Luân, nên Cường cứ phải lúc cương lúc nhu với từng đứa, từng việc, nuốt giận vào trong mà cố nhịn.
Cũng còn một lý do khác khiến Cường muốn xin thôi chức ấy là sức khỏe. Làm việc căng thẳng, lo toan tính toán quá mức nên sức khỏe bị ảnh hưởng rõ rệt, có nhiều lúc vết thương cũ trên đầu đau nhói làm anh hoa mày chóng mặt phải tìm chỗ kín ngồi thở hồi lâu. Nếu cứ kéo dài mãi tình trạng thế này chắc cũng không chịu nổi. Ý định xin thôi giữ chức cứ ngày một nung nấu trong lòng, chỉ định lúc nào thuận tiện thì sẽ nói với Luân. Nay theo phân tích của Luân tình hình lại còn khó khăn hơn, và hơn lúc nào hết Luân đang trông chờ vào sự chia sẻ gánh vác của mình nhiều hơn thì mình lại muốn thoái thác nhiệm vụ. Như thế có khác nào một kiểu chạy làng, một kiểu bỏ của chạy lấy người. Nghĩ vậy nên Cường không biết nói gì, cứ ngồi thừ ra như mất sổ gạo, đầu óc đau nhói, mồ hôi đổ ra như tắm.
Thấy vẻ khác thường ở Cường, Luân gặng hỏi:
- Bác làm sao thế?
Im lặng hồi lâu Cường mới rụt rè:
- Tôi thật khó nói quá anh Luân ạ.
- Anh em trong nhà sao bác còn khách sáo thế không biết, có gì ta trao đổi thẳng với nhau xem nào!
Được lời như cởi bỏ những vướng mắc trong lòng Cường mới trình bầy ngọn ngành mọi điều trăn trở của mình cho Luân nghe, cuối cùng anh kết luận:
- Được anh nâng đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi trong công tác tôi thật biết ơn vô cùng mà chưa biết đền ơn đáp nghĩa thế nào cho phải. Nay công ty gặp lúc khó khăn mà tôi lại tính chuyện chân giò lảng ra như thế thật không phải với anh chút nào, nhưng ngặt vì sức khỏe bết bát quá sợ rằng không gánh nổi việc lớn sẽ còn ảnh hưởng đến uy tín của anh sau này, mong được anh thông cảm mà chấp thuận đề nghị của tôi.
Nghe Cường trình bầy Luân phản ứng tức thì:
- Không được như thế đâu bác Cường ơi. Đang là trưởng đơn vị, không khuyết điểm, không kỷ luật tự dưng xuống làm công nhân, có đến người dưng nước lã em cũng chẳng dám làm thế nữa là anh em trong nhà. Em cũng rất thông cảm với hoàn cảnh của bác lúc này, sức khỏe thì giảm mà sức ép công việc lại tăng. Hay là em bố trí để bác đi học lớp chính trị trung cấp một năm, học chính trị cũng chẳng khác nào đi an dưỡng. Một năm về vừa khỏe mạnh vừa có bằng chính trị, lúc ấy bác về phụ trách phòng hành chính tổ chức công ty giúp em có khi lại hay đấy!
Cường giẫy nẩy như sờ phải than hồng:
- Đừng có làm như thế, tôi biết sức tôi lắm, văn hóa mới hết trung học phổ thông, nghề ngỗng bằng cấp không có gì, làm cái chức trạm trưởng mắm môi mắm lợi với lính tráng, xàng xê dê ngỗng với khách hàng may ra còn được, nay chú cho đi học chính trị để tính chuyện đề bạt tôi thật biết ơn, nhưng sức tôi làm sao kham nổi, mà có làm được thì rồi thiên hạ họ dị nghị, khổ tôi rồi khổ cả chú. Xin chú đừng có dại mà nghĩ thế!
Luân tỏ thái độ dứt khoát:
- Thôi được! Cái đó thì tùy bác, nhưng để bác xuống làm nhân viên của trạm hay bất cứ bộ phận nào trong phạm vi công ty này là em không chịu đâu. Việc này đâu chỉ có em với bác, còn bố mẹ vợ em, rồi còn ông bà trưởng trong quê. Làm thế các cụ chửi chết!
Câu chuyện diễn biến như tình thế đưa đẩy khiến Cường bật ra câu hỏi:
- Làm nhân viên công ty không được nhưng ngoài công ty thì anh ủng hộ chứ?
Luân giật mình hỏi lại:
- Bác nói thế là sao?
- Là tôi muốn hỏi nếu tôi xin việc bên ngoài công ty thì anh có cho đi không?
- Cái đó thì còn tùy, công việc có tương lai phát triển, có thu nhập khá nhưng cũng phải giữ được tư thế thì em mới chịu. Thế bác định chấm công ty nào rồi chắc?
- Không công ty nào ở đây cả. Tôi chợt nghĩ giá mà công ty ta có chỉ tiêu lao động xuất khẩu thì tôi xin chú, không biết như thế là tôi có quá đòi hỏi, có quá tham lam không?
Luân thở phào nhẹ nhõm:
- Quả thật em không dám nghĩ đến việc này. Nhưng trong tình thế khó khăn như hiện nay thì nghĩ như bác cũng là một giải pháp hợp lý. Bác cứ suy nghĩ cho kỹ, rồi xin ý kiến ông bà trưởng trong quê. Chỉ tiêu thì hiện công ty chưa có, nhưng em biết các chỉ tiêu xuất khẩu lao động đợt này đã về đến Sở Lao động, tay Giám đốc Sở cũng là chiến hữu thân thiết, hôm rồi có bật mí cho em biết, đợt này có mấy suất ngon lành đặc biệt tuyển người sang làm công nhân lắp ráp hàng điện tử bên Liên Xô. Tuy nhiên tiêu chuẩn đòi hỏi rất cao, học lực hết lớp 12, chính trị phải là đảng viên, ngoài ra là bộ đội phục viên thì được ưu tiên thêm điểm. Nếu đúng như thế thì bác Cường là đầu bảng rồi còn gì!
Chủ nhật ấy Cường về nhà hỏi ý kiến bố mẹ. Mẹ thì khóc, bố thì đăm chiêu buồn, cả hai cùng chung một ý là đi như thế thì cũng vinh dự, cũng sung sướng và nhàn hạ, nhưng giá lấy vợ có con xong mới đi thì có phải hơn không. Cường phân tích là hợp đồng mỗi chuyến có 5 năm, vèo cái là xong. Đi thế vừa có nghề, lương lại cao, hàng tháng có tiền để dành mua gom hàng gửi về nhà giống như anh em đi trước họ vẫn làm, phấn đấu làm sao cả nhà mình vượt qua cái giai đoạn đói kém, gạo châu củi quế hiện nay là coi như thành công rồi, 5 năm trở về lấy vợ cũng chưa muộn!
Thế là Luân phải bí mật sang Sở Lao Động xin riêng chỉ tiêu đi Liên Xô cho Cường. Công ty tiến hành thủ tục lập hồ sơ, khám sức khỏe, ra quyết định… Cho đến giữa năm 1986 thì Cường lên đường.
18. Lão thành cách mạng
Đ ang ngồi trong phòng trường trực ông Nguyên bỗng thấy một chiếc ô tô commăngca đỗ xịch bên ngoài cổng trường. Nhìn chiếc xe bụi đường phủ vàng mui bạt ông giật mình nhớ tới chiếc xe được viên trung úy công an áp giải ông từ trại giam về đây năm nào. Giống y hệt nhau, giống từ màu sơn tới tấm bạt phủ, giống cả cái cảnh khói bốc lên nghi ngút và tiếng nước sôi òng ọc trong bụng khi xe đã đỗ hồi lâu. Hay là xe công an về tìm mình có chuyện gì chăng? Một nỗi lo lắng mơ hồ bao phủ quanh ông. Có tiếng đóng cửa xe đánh rầm, một người đàn ông trạc năm chục tuổi mặt mũi hiền lành đeo kính cận, tay xách một chiếc cặp da tiến sát đến cổng sắt, ông ta nhìn vào sân trường rồi nhìn về phía phòng thường trực, thấy bóng người ngồi trong mới vội nói vọng vào:
- Bác làm ơn cho tôi hỏi một câu được không ạ?
Thấy người có vẻ tử tế lại nói năng lịch sự khiêm nhường, ông Nguyên yên tâm đôi phần chậm chạp bước ra phía cổng:
- Tôi giúp được việc gì cho ông đây ạ?
Người lạ mặt chăm chú nhìn ông hồi lâu rồi tự giới thiệu:
- Thưa bác tôi là người nhà của ông Hoàng Hữu Nguyên, trên Ủy ban người ta bảo ông ấy làm việc ở trường đây, bác có thể cho tôi gặp ông ấy được không?
Ông Nguyên thoáng nhìn người lạ mặt để cố nhớ xem ông ta là ai mà lại nhận là người nhà. Hay là chú Tuyên nhà mình? Nhớ lại cái đêm mùa đông năm 1946 ông trở về Nam Bình gặp bố mẹ cùng hai em Tuyên và Nguyệt lần cuối trước hôm Toàn quốc kháng chiến, lúc ấy Tuyên mới hơn mười tuổi, tròn bốn chục năm xa nhau, làm sao mà nhớ nổi mặt, nếu em còn sống thì cũng tuổi này. Hay là nó đây, đúng nó rồi, khuôn mặt ấy, cặp mắt ấy… Ông Nguyên run run hỏi:
- Tuyên, có phải chú Tuyên đấy không?
Giọng người kia nghẹn ngào xúc động:
- Bác Nguyên, có phải bác Nguyên đấy không?
Nước mắt ông trào ra, giọng nói ông méo hẳn đi:
- Anh đây Tuyên ơi…!
Giọng nói người kia bỗng nghẹn lại:
- Anh ơi, em không phải là Tuyên, em là Lộc, Vĩnh Lộc đây.
Khuôn mặt đầm đìa nước mắt ông Nguyên sững lại như hóa đá:
- Lộc, Vĩnh Lộc nào thưa ông?
- Anh ơi, em Lộc con trai bố mẹ Vĩnh Phát, em trai chị Kiều Oanh đây!
Giọng ông Nguyên nửa như mừng rỡ nửa như thất vọng:
- Vĩnh Lộc, Vĩnh Lộc… tôi nhớ ra rồi, trông ông khác quá không nhận ra được.
- Vâng, hai nhăm năm, phần tư thế kỷ rồi còn gì, làm sao mà không khác hở anh. Nhưng anh thì đến bây giờ em nhận ra rồi, trông anh giống y hệt bức ảnh thờ của bác Trương Ký bên Nam Bình. Mà anh đừng gọi như thế, em lúc nào cũng là em trai của anh.
- Vâng, xin đa tạ tấm lòng của ông… chú. Mà làm sao lại về được tận đây tìm tôi thế này?
- Em qua Nam Bình anh chị Chính cho địa chỉ và hướng dẫn đường đi. Cũng dễ tìm thôi mà anh.
- Thật là quý hóa! Cho tôi hỏi thăm ông bà thế nào rồi, có được khỏe mạnh không?
- Cảm ơn anh hỏi thăm, cậu mợ em mất cả rồi, ông mất năm 76, bà mất sau một năm… Ơ, mà anh mở cổng cho em vào với chứ.
- Vâng, vâng, xin lỗi chú đợi cho một chút.
Ông Nguyên quay lại đi lên phòng hiệu trưởng xin phép mở cổng cho người nhà từ trên Hà Nội về thăm. Được cô Thà đồng ý ông quay ra mở cổng mời Vĩnh Lộc vào nhà.
Hai người ngồi trong phòng trò chuyện hỏi han nhau về gia đình vợ con, về sức khỏe nghề nghiệp… được một lúc ông Nguyên lại phải xin phép dừng chuyện chạy đi đánh trống cho học sinh ra chơi, rồi đảo qua phòng hiệu trưởng, phòng hội đồng xem xét nước nôi, lau dọn cốc chén bàn ghế, hết giờ giải lao lại ra đánh trống cho học sinh vào lớp. Sân trường yên tĩnh trở lại, lúc ấy ông mới quay về phòng mình tiếp tục câu chuyện dở dang với Vĩnh Lộc.
Vĩnh Lộc lấy trong cặp một chiếc phong bì thư đưa cho ông Nguyên bảo ông đọc. Chiếc phong bì được dán kỹ càng, bên ngoài không có một chữ. Ông soi lên phía ánh sáng rồi lấy kéo cẩn thận cắt mép phong bì lấy tờ giấy bên trong ra xem. Hàng chữ run run nhưng rất quen thuộc ngày nào lại hiện ra trên trang giấy trắng:
“Anh vô cùng thương yêu kính trọng của em…”.
Ông Nguyên không khóc nhưng mắt ông bỗng mờ đi. Nỗi chua chát ướp ủ cả nửa đời người nay bỗng nhiên dâng trào trong tâm khảm. Trái tim ông nghẹn lại và thân thể như chùng hẳn xuống. Thể trạng này ông biết, nếu chỉ có một mình chắc ông dễ buông xuôi để phải nằm gục hàng ngày. Nhưng lúc này đang là lúc không cho phép ông được yếu đuối. Ông vẫn cầm bức thư như đang đọc, nhưng thực ra là đang cố gắng tĩnh tâm như trong trạng thái ngồi thiền, nhẹ nhàng hít thở thật sâu cho tới khi bình tâm trở lại.
“… Em đã hai lần về Nam Bình nhưng đều không được gặp anh. Lần đầu giữa năm 76, chú Tịnh cho biết anh mới được đưa về quê, gặp gỡ khó lắm, ngay bản thân chú cũng chưa được gặp. Lần ấy em ra mộ thay mặt anh thắp hương cho mẹ. Nhớ tất cả và xót xa vô cùng! Lần thứ hai em về năm 81, chú Tịnh đã mất, được tin anh mới lập gia đình, em vui và hạnh phúc. Em xin một đời cầu nguyện anh chị hạnh phúc mãi mãi cùng nhau. Anh trai thương yêu và kính trọng! Ngày em lấy chồng, số quà cưới anh cho lớn quá em không biết tiêu vào việc gì nên còn giữ nguyên cả, em giao cho Vĩnh Lộc tìm gặp và trao tặng lại anh. Anh đừng bao giờ bận tâm nghĩ về những món vật chất đó, bởi vì với chúng ta, vàng bạc châu báu trên đời này chẳng bao giờ sánh nổi với những gì chúng ta từng có. Có một nhà văn đã nói, người hạnh phúc là người có một góc ký ức giấu kín trong tim. Xét như thế thì em là một người phụ nữ hạnh phúc trên đời này...”.
Ông Nguyên không thể đọc tiếp được nữa, ông sợ mình sẽ không kìm lòng nổi. Trong khi đó Vĩnh Lộc vẫn tiếp tục quan sát kỹ nơi ăn chốn ở của người đàn ông, một người đã từng có thời nổi danh công tử giầu sang phú quý đất Hà thành, và cũng lại là thần tượng của mình. Nghe tiếng Vĩnh Lộc thở dài ông Nguyên quay sang tiếp tục câu chuyện:
- Em và chị Kiều Oanh vẫn sống ở Hà Nội hay chuyển đi đâu rồi?
- Tất cả đều ở Hà Nội và vẫn ở trong ngôi nhà ngày xưa anh đã đến.
- Ngôi biệt thự vẫn giữ được, như thế là hồi cải tạo nhà mình không bị thành phần tư sản đúng không?
- Vâng đúng thế, thành phần thì không dính tư sản nhưng nhà thì không giữ được!
Ông Nguyên ngạc nhiên hỏi vì sao thì Vĩnh Lộc giải thích:
- Không phải tư sản nên chỗ ở không thuộc diện quản lý, nhưng cán bộ hết tiểu khu lại đến khu, có khi cán bộ cấp thành phố vẫn thường xuyên đến vận động để bố trí cho những hộ khác đến ở nhờ. Thế là tất cả nhà ngang, ga ra ô tô, sân vườn đều có người vào ở, gia đình em chỉ còn giữ được toà nhà chính hai tầng. Đến khi cậu mợ em mất thì tầng trên gia đình chị Kiều Oanh ở, còn tầng dưới thì gia đình em. Hơn chục hộ ở nhờ từ năm 60 đến nay đều xây dựng cơi nới kín mít, ngôi biệt thự đẹp thế giờ thành khu tập thể, nhếch nhác luộm thuộm như cái trại chăn nuôi, đến là kinh hoàng!
Như đã hình dung ra tất cả, ông Nguyên thấp giọng an ủi:
- Trải qua biết bao thăng trầm dâu bể còn giữ được như thế là quý lắm rồi chú Vĩnh Lộc ạ. Thì chú cứ thử tưởng tượng, cách mạng nổi lên có khác nào nước lên. Nước lên ào ào, nước cuốn vỡ bờ, nước dâng lên có thể nâng bổng thuyền này nhưng lại lật chìm thuyền kia. Nước dâng lên cuốn theo rều rác, cây cối, nhà cửa, cảnh vật tan hoang, nhưng rồi sau đấy nước rút đi, bể lặng sóng yên, rác rưởi cuốn trôi, đất đai mượt mà, mùa mới tươi tốt… Cuộc chuyển động đi lên của xã hội loài người là thế, nó luôn giống như cuộc vượt cạn sinh nở của người đàn bà, đau đớn vô cùng nhưng không tránh nổi! - Im lặng một lúc ông bất ngờ hỏi tiếp - Chị Kiều Oanh thế nào rồi em?
- Chị em vẫn làm ở Bệnh viện Bạch Mai. Con gái lớn đang học ở Liên Xô, thằng bé thì mới sắp hết cấp ba…
Ông Nguyên cắt ngang câu chuyện:
- Chết chửa, mải chuyện đâm quên không mời chú lái xe vào uống nước. À mà hay thế này đi, giờ anh mời hai thầy trò nhà chú về nhà anh nghỉ ngơi cơm nước, nghỉ lại đây một đêm với anh chị, mai lúc nào về thì về!
Vĩnh Lộc tỏ ra tiếc rẻ khi phải chối từ:
- Anh thông cảm cho em, xe cơ quan ông bạn cho mượn sáng sớm mai phải trả cho ông ấy đi công tác. Gặp được anh thấy anh khỏe thế này là mừng lắm rồi. Để dịp khác có nhiều thời gian em về thăm anh chị lâu hơn. Còn bây giờ anh cho em thực hiện trọng trách chị Kiều Oanh giao phó - vừa nói Vĩnh Lộc vừa nhìn ra ngoài cửa như có ý canh chừng người lạ, rồi lấy trong cặp ra một cái túi vải bạt, từ từ mở túi lấy ra hai chiếc hộp sắt tây, ghé tai ông Nguyên nói nhỏ - Chị em bảo đưa trực tiếp cho anh, đây vẫn là số vàng ngày xưa cậu mợ em định đưa trả nhưng rồi anh không kịp nhận. Vẫn hai chiếc hộp ấy, một hộp là vốn góp 50 cây của bác Trương Ký, hộp nhỏ là số lãi 10 cây. Chị Kiều Oanh bảo số vàng này anh để lại cho chị như món quà cưới khi chị lấy chồng, nhưng trong suốt những tháng năm thiếu thốn nhất chị cũng không dám động tới. Chị đưa cho em giữ và tìm cách chuyển đến cho anh để anh chi dùng trong lúc tuổi già, chị sợ vì lý do nào đấy mà không có dịp gặp lại anh. Bây giờ xin anh nhận lại để mai em về còn có thành tích báo công với chị.
Không biết lúc này ông Nguyên đang nghĩ những gì, nhưng nhìn bề ngoài thì gương mặt ông chỉ thấy ánh lên những biểu cảm của sự trầm tĩnh và bình thản, ông từ từ giơ tay nhận lấy hai chiếc hộp rồi lại chuyển ngay chiếc hộp nhỏ sang tay Vĩnh Lộc:
- Ngày ấy anh muốn tặng tất cả cho chị em để làm quà cưới, nay chị em muốn tặng lại cũng như là một món quà cưới cho anh, chẳng lẽ anh không nhận, nhận rồi mà không sử dụng thì hóa ra cố chấp. Em về nói với chị là anh rất cảm ơn và luôn thương nhớ các em như những người ruột thịt xa vắng của mình. Anh xin cảm ơn vì trong ngần ấy tháng năm dâu bể mà các em còn giữ được trọn vẹn tấm lòng tình nghĩa thủy chung với những gì tốt đẹp vốn có. Còn bây giờ, trước lúc chia tay anh đề nghị thế này, anh tặng lại cái hộp nhỏ này không phải cho các em nữa, mà cho các con của em và Kiều Oanh. Cũng chẳng cần phải cho chúng biết là của ai, chỉ cần nói với các con, đây là những đồng tiền sạch sẽ của những người có tấm lòng nhân hậu, luôn mong mỏi để các con trở thành những con người nhân hậu, bước tiếp trên con đường lương thiện của cuộc đời còn đang có muôn vàn khổ hạnh và bất trắc này.
Vĩnh Lộc đẩy chiếc hộp lại phía ông Nguyên mếu máo nói:
- Anh đừng làm thế anh Nguyên. Cho dù có gấp hàng trăm hàng nghìn số vàng thế này cũng không bù đắp được những mất mát trong cuộc đời anh. Tấm lòng của anh và của chị em là là tấm lòng những người con của trời của Phật, không có một thứ của cải vật chất nào trên cõi đời sánh nổi. Nhưng thưa anh, đây là cuộc sống nhân gian với biết bao khổ hạnh mà chúng ta phải chung sống cho trọn kiếp người, bởi vậy mà những thứ vật chất đó vẫn phải cần được đồng hành với những điều cao quý kia. Em vô cùng cảm động và biết ơn anh đã nhớ đến và có quà cho các cháu, nhưng em không dám nhận bởi sự bù đắp này vẫn còn là không tương xứng với những mất mát thua thiệt của anh, vả lại, các cháu của bác cũng đã khôn lớn và may mắn có được một sự săn sóc và nuôi dưỡng cần thiết…
Ông Nguyên vội cắt ngang:
- Thôi được, cứ biết thế đã! Chú nói thế cũng không có sai, nhưng tôi đã nói đây là quà không phải tặng hai chị em, mà là cho các cháu. Không nói thêm gì nữa, cứ thế mà thực hiện. Chú không cầm hộ để tôi phải lên Hà Nội thì phiền lắm.
- Anh làm thế này chị Kiều Oanh mắng em chết mất!
- Mắng tôi chịu, bảo với chị ấy thế!
*
Trở về nhà chiều tối hôm đó, ông Nguyên đóng kín cổng cửa, thả chó ra ngay. Vào nhà, vặn ngọn đèn dầu nhỏ như hạt đỗ rồi bảo vợ ngồi sát bên mình, ông thì thầm chỉ đủ cho bà nghe:
- Mình bình tĩnh nghe tôi đây, trong cái hộp sắt gỉ này là 50 cây vàng do một nhà buôn chung vốn với thầy từ trước năm Thủ đô giải phóng. Sau đấy thầy đi Nam, tôi thì đi tù, mấy chục năm gián đoạn tưởng là thất lạc. Sáng nay bỗng con trai ông ấy tìm về gặp tôi và trao trả toàn bộ số vàng ngày xưa, lại còn kèm theo mười cây gọi là tiền lãi. Cảm động về việc làm nghĩa cử đẹp đẽ cao thượng, tôi đã gửi lại họ số lãi gọi là để mua quà cho các cháu. Năm chục cây tôi đưa lại hết để mình quản lý và sử dụng.
Bà Lan run run đón nhận chiếc hộp nặng trĩu trên tay, tai bà ù đi và không tin vào những điều nghe thấy. Bà ngồi bất động như một cái bóng mà không biết phải làm gì và nói gì lúc này. Ông Nguyên nhẹ nhàng nhắc vợ:
- Mình cứ mở hộp ra xem đã!
Nghe chồng nhắc, bà lúng túng làm theo nhưng hai tay lóng ngóng không sao mở nổi, ông Nguyên đỡ lấy cái hộp rồi dùng hai tay mở bật nắp ra. Một lớp nhung đỏ phủ kín trên mặt, dùng tay nhẹ nhàng nhấc lớp nhung lên thì bên dưới lộ ra những miếng vàng lá sắp xếp ngay ngắn hàng lối, hết lớp này đến lớp khác trong lòng hộp. Những miếng vàng ánh lên sắc vàng rực rỡ dưới quầng sáng lờ mờ của ngọn đèn dầu. Những ngón tay nhỏ nhắn gầy guộc của bà Lan khẽ chạm vào những miếng vàng, cái cảm giác lạnh ngắt kim loại truyền vào người khiến bà rụt tay lên rồi từ từ đóng nắp hộp lại. Đặt hộp vàng sang bên cạnh đột nhiên bà ôm choàng lấy chồng thổn thức không thành tiếng.
Ông Nguyên hai tay vuốt tóc an ủi vợ:
- Thương mình một đời lam lũ vất vả, lại rộng lòng quảng đại nhân từ, bước qua định kiến xã hội chấp nhận một kẻ tội đồ, một người đàn ông vô tích sự chẳng giúp được gì cho vợ con như tôi. Trong lòng tôi từ đấy lúc nào cũng chỉ một điều tâm nguyện làm sao đáp đền được phần nào tấm chân tình cao cả của mình, nhưng tài hèn sức mọn chẳng biết làm gì. Nay nhờ một chút phúc lộc cha ông gọi là thơm thảo tấm lòng, xin được bù đắp phần nào…
Tiếng nói bà Lan nhoà đi trong tiếng khóc chưa nguôi:
- Em xót xa cho số kiếp bản thân thì ít mà khóc thương cho thân phận mình thì nhiều. Cuộc đời của một con người trung nghĩa vì nước vì dân, lại xuất thân từ một gia cảnh phong lưu sang giầu, đáng ra mình phải được hiển vinh sung sướng thì cuối cùng lại chuốc lấy biết bao cay đắng tủi nhục…
- Thôi mà mình, nhắc lại chuyện ấy làm gì. Sự mất mát thua thiệt của tôi, rồi cả của mình nữa, đau xót lắm, nhưng chẳng thể sánh nổi với sự hy sinh, mất mát, thua thiệt của hàng nghìn hàng vạn những gia đình, những con người ở khắp mọi miền đất nước trong suốt những tháng năm qua. Nhưng rồi cứ nghĩ đến cảnh nước nhà đã được độc lập, giang sơn đã được thống nhất, Tổ quốc ngày nay đã có tên có tuổi trên bản đồ thế giới, cứ nghĩ rằng mình đã là người dân của một đất nước như thế là tôi lại thấy lòng dạ hồ hởi, lại thấy nguôi ngoai tất cả, lại thấy sự thua thiệt của mình thật chẳng đáng bao nhiêu so với cái đại nghĩa độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đánh đổi bằng xương máu hàng triệu người khác. Mình ạ, cuộc đời tôi tuy có thua thiệt, nhưng số phận tôi còn may mắn và hạnh phúc lắm. Tôi nay đã có một mái ấm gia đình, đã có mình, mình đã là cái phần tiếp nối cho cuộc đời tôi. Tôi đã có con trai, nó đã trở thành niềm hy vọng và sẽ tiếp tục thực hiện những mong ước dang dở của tôi. Mình và con đã bù đắp cho tôi tất cả những mất mát trước đó, tôi xin thành tâm nói với mình là tôi không còn mong ước gì hơn nữa đâu. Vàng bạc châu báu với tôi lúc này cũng chẳng sánh nổi với những gì mình đem đến cho tôi.
Bà Lan càng siết chặt vào người chồng trong tiếng thổn thức:
- Mình là Đức Phật từ bi, là một ông thánh trong lòng em. Được làm vợ của mình em mới thấy cuộc đời này mãn nguyện và có ý nghĩa làm sao. Cảm ơn số phận đã cho gặp mình để ngày nay em có được một hạnh phúc trọn vẹn mà xưa nay không bao giờ dám mơ tưởng.
Im lặng hồi lâu ông Nguyên nói tiếp:
- Giờ đây tôi cũng một tâm trạng như mình, nâu sồng đạm bạc đã quen, bỗng chốc có tiền có của lại đâm ra lúng túng. Giá như có con trai ở nhà lúc này thì có khi nó lại biết cách. Hay là ta cứ cất giấu để dành cho con. Hoàn cảnh nhà mình giờ cũng chưa đến nỗi nào, tuy chẳng dư dả gì nhưng cũng không đến mức đứt bữa như nhiều nhà trong xóm, không biết ý mình thế nào?
- Việc lớn việc bé ở nhà này giờ đều trông cậy vào mình tất cả, em chỉ xin được làm người thực hiện mọi điều chỉ bảo của mình.
*
Mỗi khi có dịp ông Nguyên vẫn thường tâm sự cùng vợ những cảm xúc lòng mình về cuộc sống hôm nay, cuộc sống của những người dân trên một đất nước độc lập tự chủ, không còn cảnh ngoại bang đô hộ, ngược đãi và khinh rẻ, một cuộc sống rất đáng tự hào, hãnh diện và rất đáng sống nếu ta hiểu rằng, đã có biết bao người con đất Việt phải ngã xuống vì chính cuộc sống này. Nhưng ông vẫn chưa thể chia sẻ, chưa thể nói hết những gì còn canh cánh trong lòng. Chưa nói hết không có nghĩa là ông giấu giếm. Chưa nói hết bởi cho đến tận bây giờ, ông vẫn chưa nhận thức nổi những gì đã và đang diễn ra trên thực tế cuộc sống trong giai đoạn sau của cuộc cách mạng, giai đoạn từ khi nước nhà đã độc lập, dân ta đã tự chủ và đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ xây dựng Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc, rồi sau đó là trên cả nước khi đã thống nhất như hiện nay.
Đất nước đã độc lập thống nhất, mà sao cuộc sống người dân vẫn cứ phải khổ sở, mà càng ngày càng khổ sở như thế? 95% ruộng đất hợp tác xã quản lý làm ăn kiểu gì mà chỉ trang trải nổi một phần nhu cầu lương thực cho nông dân, phần chủ yếu nuôi sống họ lại được bù đắp từ phần đất 5% để lại cho xã viên. Hợp tác xã mỗi ngày mỗi hoang tàn trong cảnh cha chung không ai khóc. Kiếm được đồng tiền bát gạo đã khổ, chi dùng đồng tiền cho cuộc sống lại còn khổ hơn. Cần bán vài yến gạo lấy tiền mua chiếc áo mới cho con mặc Tết cũng không được. Gạo là mặt hàng Nhà nước quản lý thống nhất cấm tư nhân buôn bán! Thịt lợn cũng thế, nông dân nhà nào cũng phải nuôi lợn nghĩa vụ. Đến lịch giao nộp, xe chở lợn của thương nghiệp quốc doanh đỗ ở gốc đa đầu làng, các hộ gia đình khênh lợn ra cân. Nhiều nhà dềnh dang chậm rãi vì còn cố cho lợn ăn nốt nồi cám đặc biệt quấy với đầu cá khô, mà trước nay lợn ta chưa từng được thưởng thức, mong sao tăng trọng được dăm bẩy cân hơi. Có nhà chiều hôm trước chủ nhiệm hợp tác xã còn đến tận chuồng ghi sổ đánh dấu từng đầu con để xếp lịch cân sáng hôm sau, thì đêm hôm đó chủ nhà đã bán chui cho thương lái với giá cao gấp rưỡi giá bán nghĩa vụ cho mậu dịch. Còn cái con lợn bị bệnh sốt rét ở chuồng bên, chân cao như chân hoẵng mà lông thì dựng đứng như lông lợn rừng, nó được đánh tráo vào đấy để mai cân cho thương nghiệp. Tiểu thương tuồn thịt lậu lên thành phố bằng cách giấu kín trong người khi đi qua các trạm kiểm soát thị trường. Bị khám thì mất, mà thoát được cân nào lên đến thành phố thì lãi gấp đôi gấp ba.
Chẳng phải đâu xa, chỉ cần dạo một vòng chợ Sòi đúng ngày phiên chợ cũng đã thấy tất cả. Ông Nguyên còn nhớ như in cái cảnh đông vui sầm uất trên trời dưới hàng chẳng khác một ngày hội của phiên chợ Sòi lần đầu ông chứng kiến hồi mới đi tù về. Thề mà dăm năm trở lại đây, cái chợ sầm uất nổi tiếng cả một vùng đã trở thành cảnh chợ chiều rã đám, tiêu điều hiu quạnh như những đám chợ cóc chợ nhái bạ đâu họp đấy ven đường. Vài bó rau lang, dăm ba mớ tép, mấy gánh khoai sọ, với dăm người bán, vài người mua. Thịt lợn bầy ra dù chỉ một cân, bắt! Gạo bầy ra dù chỉ một đấu, bắt!
Rồi nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác, các loại nguyên liệu vật tư cho sản xuất cũng thế, tất cả đều bị chặn lại bởi các trạm kiểm soát cấm chợ ngăn sông. Nơi thừa người dân không được đưa sang nơi thiếu. Xí nghiệp này thừa không được trao đổi với xí nghiệp kia… Việc đó đã có mậu dịch quốc doanh! Mậu dịch quốc doanh là cái đầu mối duy nhất lo toan, điều chỉnh, phân chia sự nghèo khổ thiếu thốn cho toàn xã hội. Nguyên liệu không có, sản xuất đình đốn, hàng tiêu dùng khan hiếm tới mức phải phân chia từng cái kim cho đến sợi chỉ, từ viên bi cho đến chiếc nan hoa xe đạp... Nạn đầu cơ tích trữ, nạn buôn bán trao tay phát triển như nấm mọc sau cơn mưa, vượt ra ngoài tầm kiểm soát của quản lý thị trường.
Cái sức sống tiềm tàng dẻo dai, cái khả năng linh hoạt khéo léo ẩn chứa trong từng cá thể người dân, mà từ đó có thể đánh thức những tiềm năng, khơi dậy thành của cải vật chất, đã bị triệt tiêu từ trong trứng nước. Con người Việt Nam vốn có tố chất tinh nhanh cần mẫn của những con gà ri, vô hình trung bị biến thành những con gà công nghiệp, bị nhốt chặt trong những chiếc lồng mậu dịch quốc doanh, cam phận sống kiếp biếng lười ăn quẩn cối xay.
Cái bài quản lý kinh tế xã hội mang linh hồn bao cấp, trong đó nội dung cơ bản là quốc doanh độc quyền, cấm chỉ mọi thành phần kinh tế khác tham gia sản xuất lưu thông, của ba chục năm về trước nay vẫn cứ tồn tại như một quốc sách. Từ thành thị đường lối kinh tế bao cấp tràn về nông thôn, từ miền Bắc lại tràn vào miền Nam. Nó tràn đến đâu thì sự thiếu thốn, sự đói kém lan tràn rồi định cư, đóng chốt tại đó.
Những khó khăn thiếu thốn cứ tích tụ dần, cứ nâng cấp dần, và đến giai đoạn này tưởng như không thể khó khăn hơn nữa. Người dân, mà trước hết là những người dân ở tầng lớp dưới xã hội, những công nhân, nông dân, người làm công ăn lương… đều tự cảm thấy khó có thể chịu đựng thêm được nữa.
Ông Nguyên nhớ lại câu chuyện mình đã trình bầy, kiến nghị với đồng chí Trần Hồng lần cuối trước khi ông phải ra toà rồi sau đấy là đi tù, ông nhận thấy nội dung những điều trình bầy, mà lúc ấy ông gọi là bản tấu trình với cấp trên, cho đến tận bây giờ có thể chúng vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nhưng chỉ cần nghĩ đến thân phận mình hôm nay ông lại tự nhủ, mình là ai, mình làm gì có cơ hội để trình bầy lại những suy nghĩ nung nấu ấy, mà trình bầy cho ai nghe? Không khéo rồi lại như câu chuyện của hơn hai mươi lăm năm về trước. Ông rùng mình thảng thốt, mười lăm năm tù đầy chưa đủ hay sao? Thế là những điều day dứt khôn nguôi ông đành ôm chặt trong lòng, không thể tâm sự sẻ chia cùng ai, ngay cả với người vợ rất tâm đầu ý hợp. Những lúc như thế, cũng lại giống như bao lần, ông chỉ còn biết cách an ủi vợ, và cũng là để tự an ủi mình: Nhiều nhà người ta còn khổ hơn mình, còn thiếu hơn mình, thôi thì cố gắng mà chịu đựng, tình hình rồi thế nào cũng có lúc phải khác đi chứ!
Ông Nguyên nói thế bởi trong tận đáy lòng mình, ông vẫn cứ bồn chồn khắc khoải trông chờ vào một sự thay đổi mơ hồ nào đấy, bởi ông hiểu rằng, sự phát triển theo quy luật biện chứng của xã hội loài người nó sẽ phải như thế, qua cơn bĩ cực tới tuần thái lai!
Và trên thực tế, dường như đã có những dấu hiệu khởi động ban đầu cho một cuộc thay đổi, một cuộc vượt cạn, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cơn bĩ cực của thời đại.
Những tin tức tiếp nhận được, rồi lại tự phân tích từ nhiều nguồn đài báo, tất cả đã cho ông biết, nếu như mấy năm nay, hàng nghìn hàng vạn lao động dư thừa trong xã hội đã được xuất khẩu sang thị trường các nước Xã hội chủ nghĩa anh em, tham gia vào công cuộc trả nợ quốc gia. Việc làm đó được coi là một giải pháp mang tầm chiến lược, là một biện pháp thông minh, biện pháp khôn ngoan. Nhưng giải pháp đó có vẻ như vẫn chưa đủ liều lượng, chưa thấm vào đâu để tạo ra một cú hích ban đầu cho cỗ xe đất nước chuyển động. Xã hội cần có nhiều hơn nữa những giải pháp mạnh và thiết thực.
Trong những ngày tháng tiếp theo, cả trên hai phương tiện báo và đài đã thấy người ta nói đến những điều mà ông Nguyên cứ đinh ninh, chúng đã từng có thời bị coi là phạm húy, là cấm kỵ. Ví dụ như chuyện thí điểm khoán hộ trong nông nghiệp ở Hải Sơn, chuyện xóa bỏ tem phiếu để tính vào tiền lương cho cán bộ ở tít tận Long Châu trong Nam, rồi những chuyện cho phép xí nghiệp quốc doanh được mua nguyên liệu vật tư trôi nổi thị trường để sản xuất kế hoạch 3… Những câu chuyện, những tin tức đó tuy được nói đến chưa nhiều, nhưng quan trọng là người ta đã dám nói đến, và nói đến bằng một giọng thiện cảm như nói về một điều mới mẻ với những dự cảm tốt lành. Nhưng điều quan trọng hơn cả là trước những câu chuyện cấm kỵ như thế, các vị lãnh đạo Nhà nước vẫn cứ để cho báo đài đưa tin, không cấm đoán bắt bớ như trước nữa.
Cái làng Sòi bé nhỏ khuất nẻo của ông Nguyên hình như cũng có những sự thay đổi vô hình, những sự chuyển động ngấm ngầm, không phát thành tiếng, không hiện ra hình, nhưng đôi khi chỉ bằng sự cảm nhận người ta cũng nhận ra những đổi thay chưa định hình như thế.
Ông Ba Cảo, người ngày trước chủ xướng khoán chui cho các hộ trong xã, cứu đói cho dân được hai vụ thì gặp tai họa bị kỷ luật mất sạch, hôm thứ tư vừa rồi nghe nói được mời tham dự cuộc họp quan trọng của cán bộ chủ chốt xã. Chẳng biết nội dung họp những gì, nhưng sau đấy cứ thấy ông thường xuyên lên văn phòng Ủy ban làm việc. Những người dân làng Sòi nghe đài thạo tin mới đoán non đoán già, thế thì xã mình lại sắp quay về khoán hộ, no đến nơi rồi. Mà rồi sau đấy không lâu xã tổ chức cho các hộ nhận khoán thật. Đúng là nhân bảo như thần bảo!
Nhưng không phải chỉ diễn ra những chuyện âm thầm đồn đoán, mà ngay cả những chuyện trông thấy, nghe thấy, mục sở thị hẳn hoi, người ta cũng nhận ra vô số sự thay đổi. Ví như chuyện cái chợ, sau bao năm ròng tưởng như mất chợ, thì chẳng biết vì đâu mà dạo này vào những ngày phiên, lại thấy người mua kẻ bán tụ bạ đông dần. Hàng hóa đến chợ cũng nhiều hơn, phong phú hơn. Những loại không cấm như rau củ quả, cám bã, tôm cua ốc ếch… thì lại thúng mủng bầy la liệt công khai theo hàng theo dẫy. Những mặt hàng lâu nay cấm chỉ lưu thông tuy không thấy hiện diện nhưng cần mua là có. Những người bán ngô bán gạo ngày nào lại tìm về dẫy hàng xanh hàng xáo khi xưa, chưa dám bầy thúng bầy mẹt, mọi thứ cứ để trong túi trong bao, nhưng có ai hỏi mua thì bốc ra một dúm cho xem mẫu và nói giá, ưng thuận thì mở túi ra đong. Thịt lợn thịt bò cũng thế, tất cả đều trong bị cói, hỏi nạc có nạc, hỏi mỡ có mỡ, chân giò trước sau đều có. Cảnh mua bán nửa công khai, nửa bí mật quản lý thị trường biết không? Biết! Có phải cái kim trong bọc đâu mà không biết. Nhưng biết để mà biết, thỉnh thoảng nhắc cho có nhắc, chứ không thấy diễn ra cái cảnh xô xát bắt bớ như trước đây. Thì vợ ông thị trường, con ông Chủ tịch xã cũng còn có lúc phải ra đong gạo mua thịt nữa là!
Góp phần vào cái không khí rậm rịch nao nức quanh vùng như thế, cuộc sống làng Sòi lại một lần nữa được đánh thức bởi một hiện tượng lạ chưa từng có tự cổ chí kim, còn lạ hơn cả cái lần xuất hiện những con búp bê nhựa tái sinh, những chiếc xe đạp, xe Honda của những người lính từ chiến trường trở về năm nào. Ấy là sự xuất hiện của những thùng hàng nước ngoài gửi về.
Đấy là những lô hàng hóa của những chàng trai cô gái lao động xuất khẩu ở Liên Xô và các nước Đông Âu anh em, thỉnh thoảng lại gửi một thùng về cho bố mẹ, vợ chồng ở nhà. Các thùng hàng đóng bằng gỗ thông màu vàng ươm, to cỡ cái bể nước của các nhà. Theo giấy báo của bưu điện, người nhà lên nhận hàng trên Hà Nội, hoặc Hải Phòng. Một đội dịch vụ tổng hợp vừa vận chuyển vừa áp tải, vừa nhận mua buôn cả lô hàng, sẽ đưa thùng hàng về đến tận nhà cho chủ. Mỗi lần thùng hàng được mở ra ở nhà nào là một lần không gian cổ tích lại bao trùm ở nơi ấy. Những loại hàng hóa tiêu dùng đẹp và lạ như trong phim ảnh hiện ra trước mắt chủ nhà. Nồi niêu xoong chảo bằng nhôm, bàn là điện, áo bay, dây may so, nồi áp suất, lọ sâm nước, thuốc bổ gan Sirepa, moay ơ xích líp xe đạp… Bên cạnh đó có thùng hàng còn kèm theo những loại vật tư máy móc thiết bị nhỏ nhẹ, mà lâu nay Nhà nước ta vẫn cấm lưu thông tự do, đó là những chiếc máy khoan, máy tiện, máy cưa, những cuộn dây đồng, vòng bi các cỡ, lưỡi cưa thép, những bộ mũi khoan, dao tiện, lưỡi phay, cờ lê mỏ lết… nhiều mặt hàng mà chủ nhà chỉ biết ang áng chứ không hiểu là nó được dùng vào việc gì. Nhưng trong các thùng hàng như thế bao giờ cũng có một bản hướng dẫn chi tiết của người gửi, trên đó ghi rõ tên hàng, hình dáng, công dụng và giá bán tối thiểu tại Việt Nam (bán được cao hơn thì càng tốt)… Người nhà cứ dựa vào bảng hướng dẫn mà làm việc với đội dịch vụ tổng hợp. Chủ nhà giữ lại cái gì thì giữ, còn lại thượng vàng hạ cám cánh dịch vụ mua hết. Có bảng hướng dẫn rồi nên người mua kẻ bán cũng dễ gặp nhau, mua không ép được giá mà bán cũng không bị hớ. Nhanh nhẹn gọn gàng, tiền trao cháo múc!
Riêng nhà ông bà Nguyên cũng đã hai lần nhận được thùng hàng Cường gửi về từ Liên Xô. Cả hai lần theo giấy báo ông đều xuống Hải Phòng, mọi việc thông đồng bén giọt. Thùng hàng đầu tiên ông bà giữ lại đến phân nửa để đem biếu những người thân thuộc họ hàng. Riêng đối với cô giáo Thà và ông Hổ râu bạc, ông Nguyên mang đến tận nhà biếu mỗi người một chiếc nồi áp suất, một chiếc áo bay và một chục lọ sâm nước Liên Xô, gọi là một chút nghĩa tình tri ân.
Những mặt hàng tiêu dùng, và đặc biệt là những loại tư liệu sản xuất, vật tư nguyên liệu Nhà nước độc quyền kinh doanh lâu nay, đã từ những thùng hàng của cánh lao động xuất khẩu cứ âm thầm len lỏi vào thị trường trong nước, nhẹ nhàng xuyên thủng mọi hàng rào hải quan, lách qua mọi trạm kiểm soát thương nghiệp, trước hết đã góp phần đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, mặt khác cũng đáp ứng được một phần nhu cầu nguyên liệu vật tư cho khu vực sản xuất. Sự xuất hiện của những thùng hàng như thế đã như những tín hiệu ban đầu cho một quá trình tự phát nhập khẩu ồ ạt các loại vật tư hàng hóa bằng con đường phi mậu dịch, của những người xuất khẩu lao động Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc phá vỡ thế cấm vận kinh tế toàn diện và triệt để của cái liên minh chống Việt Nam những năm 80 thế kỷ 20.
Chưa bao giờ những chỉ thị và chính sách quản lý kinh tế, quản lý thị trường của Nhà nước lại có vẻ mất thiêng như giai đoạn này. Cũng chưa bao giờ lại thấy cái cảnh phá rào, lách luật, né chính sách nở rộ trong dân như giai đoạn này. Các cơ quan quản lý, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dân chỉ chỏ chạy mánh, dân buôn chuyến đánh hàng, người buôn thúng bán bưng, người tiêu dùng gạo chợ nước sông, ai ai cũng cứ như tự xích lại gần nhau, thân thiện với nhau, cảm thông vì nhau, làm ngơ cho nhau, đưa mắt nhìn nhau như ngầm bảo, làm gì thì làm chỉ đừng có quá nghênh ngang là được! Những trạm kiểm soát vẫn còn đấy, nhưng nó lại chỉ giống như những tượng đài cũ kỹ lỗi thời của một thời quá vãng sắp qua.
Có một cái gì đó trong cảm nhận của người ta, nó cứ rạo rực như tiếng hạt nẩy mầm trong lòng đất lạnh đầu xuân, như tiếng nhựa cây chẩy ngầm trong thân cành khô khẳng cuối đông.
Thế rồi vào những ngày đầu tháng 12 của năm 1986, làng Sòi bỗng nhiên như được mặc một chiếc áo mới, chiếc áo hồng tươi sắc màu của những khẩu hiệu, tranh áp phích từ khắp đầu làng cho tới cuối xóm. Rồi tiếng ca hát tập dượt tối tối lại nổi lên từ sân kho hợp tác, tiếng trống ếch rùng rùng và tiếng hô khẩu hiệu chào mừng của đội thiếu nhi âm vang xóm ngõ. Đã lâu lắm, có lẽ kể từ những ngày hội hè mừng chiến thắng giải phóng Sài Gòn thống nhất đất nước, cho tới nay người ta mới lại thấy cảnh rộn rã xóm làng đến thế. Nhưng lần này là không khí hồ hởi của đợt tuyên truyền tập trung chào mừng Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6.
Bắt đầu từ những ngày này, trên đài phát thanh và truyền hình đã thấy phát đi những bài giới thiệu liên qua đến Đại hội. Hết bài này tới bài khác, hết ngày này sang ngày khác người ta trình bầy về bối cảnh dẫn đến việc tổ chức Đại hội, những ý tưởng cơ bản của báo cáo chính trị thể hiện đường lối đổi mới sẽ được trình bầy trước Đại hội. Trên cơ sở những vấn đề cơ bản đó, các nhà lý luận, các nhà nghiên cứu khoa học, các cán bộ quản lý, đại biểu các tầng lớp xã hội và người dân đều có những ý kiến đóng góp và bình luận xung quanh các nội dung của bản dự thảo báo cáo chính trị. Rồi đến ngày đại hội khai mac, rồi kết thúc sau 4 ngày làm việc với bản cương lĩnh lịch sử liên quan đến vận mệnh đất nước, mà từ đấy về sau được gọi là bản cương lĩnh Đổi Mới.
Bản cương lĩnh mang tên Đổi Mới đề cập đến nhiều vấn đề, nhưng ông Nguyên đặc biệt chú ý tới mấy điều mà theo ông là cơ bản nhất, cốt tử nhất. Trước hết là khái niệm đổi mới. Đổi mới ở đây không phải là thay đổi mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa, mà được hiểu là thay đổi cách thức để đạt được mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa. Trong những nội dung đổi mới về kinh tế thì vấn đề ông Nguyên thấy tâm đắc nhất, cởi lòng cởi dạ đón nhận như tiếng đồng vọng của lòng mình, đó là một quốc sách mới mẻ được thể hiện trong mấy câu ngắn gọn: Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Ông nắn nót ghi lại dòng chữ này vào cuốn sổ tay bọc vải màu xanh công nhân mang từ trại giam trở về mà cả chục năm nay không ghi thêm được chữ nào, rồi cẩn thận đóng khung lại. Nhìn dòng chữ chỉ có mấy câu, nhưng ông hiểu rằng nó đã được kết tinh không chỉ bằng trí tuệ của nhân dân, mà còn là sự kết tinh những trải nghiệm xương máu của cả dân tộc, khi đã phải mất hơn ba chục năm mầy mò tìm kiếm đường đi, đã phải trả giá bằng sự đói nghèo khổ đau do bao phen chậm trễ lỡ nhịp thời đại. Càng thấm thía những giá trị kết tinh trong những dòng chữ mang tính cương lĩnh thời đại bao nhiêu, ông càng cảm nhận rõ ràng bấy nhiêu cái sức mạnh dời non lấp biển tiềm ẩn bên trong, cái sức mạnh có thể đem đến cho đất nước và dân tộc một động lực quật khởi vượt lên và cất cánh.
Đắm chìm trong dòng suy tưởng bay bổng đầy phấn khích, có một lúc ông Nguyên bỗng bồi hồi chạnh nghĩ, giá như dòng chữ ngắn ngủi này đã được ghi trong cương lĩnh của đại hội toàn quốc lần thứ 3 của Đảng năm 1960!
Kể từ đấy, cuốn sổ tay bọc vải màu xanh công nhân của ông Nguyên thỉnh thoảng lại được mở ra để ghi tiếp những dòng chữ tóm tắt những chỉ thị nghị quyết của Nhà nước, những dòng chữ mang những nội dung mới mẻ mà trước đấy không lâu, những người cấp tiến, lãng mạn nhất có nằm mơ cũng không dám nghĩ tới:
* Đầu năm 1987 Nhà nước quyết định giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các tuyến đường nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa.
* Đầu năm 1988 nghị quyết về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (còn gọi là khoán 10) được ban hành.
* Năm 1990 luật Công ty và luật Doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm chính thức thể chế hóa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân.
…… Và những dòng chữ tương tự được bắt đầu từ cái đánh dấu hoa thị đã ngày càng được tiếp nối trong cuốn sổ bạc màu thời gian của ông Nguyên.
*
Cuối buổi học hôm ấy khi học sinh các lớp và các thầy cô giáo đều đã ra về, cô Hiệu trưởng Thà mời ông Nguyên lên phòng làm việc.
- Mời bác ngồi đây ta trao đổi chút việc!
Cô rót nước mời ông:
- Tôi vừa họp Ủy ban xã được phổ biến một việc có liên quan đến bác.
Mới nghe đến đây ông Nguyên đã thấy choáng váng và giật thót trong người, không biết có chuyện gì của chính quyền mà lại liên quan đến mình? Tuy vậy ông vẫn cố tỏ ra như không, bình thản nghe cô giáo nói tiếp:
- Tới đây xã Song Yên sẽ tổ chức một cuộc họp quan trọng đón lãnh đạo cấp trên về làm việc nghe xã báo cáo những kinh nghiệm bước đầu về công tác khoán hộ trong sản xuất nông nghiệp. Cũng trong cuộc họp này, cấp trên sẽ làm lễ trao quyết định công nhận bác là cán bộ lão thành cách mạng, một việc làm từ trước đến nay xã ta, rồi cả huyện, cả tỉnh ta chưa có tiền lệ. Tôi muốn thông báo trước để bác biết và chuẩn bị. Nhân đây xin được chúc mừng bác về sự kiện trọng đại đáng nhớ này.
Trong suốt nửa thế kỷ qua, kể từ khi dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng, rồi đến lúc phải khoác lên mình tấm áo kẻ xọc, và cho tới tận hôm nay, đã bao phen ngẫm ngợi về cuộc đời mình với những cung bậc thăng trầm khác nhau, nhưng chưa khi nào ông Nguyên lại nghĩ tới cái danh hiệu lão thành cách mạng, lại càng không bao giờ nghĩ rằng đến một lúc nào đấy mình sẽ là người mang danh hiệu đó. Nhưng cái thông tin cô Hiệu trưởng mang đến lúc này quả là quá bất ngờ, một thoáng vui buồn lẫn lộn trong suy tư khiến ông không biết mình phải trả lời thế nào cho phải. Ông cứ ngồi im trong tư thế bất động cho đến khi cô Thà lên tiếng như có ý nhắc:
- Vì là việc liên quan đến bác nên bác cũng có phần việc phải chuẩn bị cho sự thành công cuộc họp đó.
- Vâng thưa bà tôi nghe đây ạ!
- Không nói thì bác cũng hiểu, đây là việc làm thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự quan tâm săn sóc của cấp trên đối với những người có công với cách mạng. Trong những năm qua sống và làm việc ở địa phương, bác luôn thể hiện mình là một người trung thực, chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách pháp luật Nhà nước, những quy ước trật tự trị an của địa phương cũng như nội quy nhà trường, được lãnh đạo xã và nhân dân quý trọng đánh giá cao. Tuy nhiên với riêng việc xóa án rồi công nhận danh hiệu cho bác, đây là một trường hợp khá đặc biệt và cũng khá tế nhị. Trong ngày cấp trên về trao quyết định tới đây, thế nào cũng có đông đảo đại biểu các ngành các cấp tham dự. Đảng ủy, Ủy ban xã giao tôi nhiệm vụ trao đổi trước với bác là khi phát biểu lời cảm ơn chỉ mong bác giữ được thái độ bình tĩnh và đúng mức của một bậc lão thành. Tôi nói thế chắc bác hiểu ý chứ ạ?
Trầm ngâm hồi lâu ông Nguyên chậm chạp run run đáp lời:
- Thưa bà, hơn chục năm qua được bà rộng lòng cưu mang giúp đỡ, công ơn trời bể đó đời tôi không một phút xao nhãng. Đã từ lâu tôi luôn tự nhủ lòng mình, mọi lời nhắc nhở của bà dù lớn dù bé đối với tôi bao giờ cũng là mệnh lệnh, là mệnh lệnh không những đối với đầu óc mà còn là đối với trái tim mình. Trong trường hợp cụ thể này, phải thưa thật với bà tôi không biết phải phát biểu những gì và phải cảm ơn những ai. Nhưng theo lời khuyên nhủ của bà tôi sẽ làm đúng như thế, và nếu bà cho phép thì tôi sẽ viết sẵn những điều cần nói để bà xem trước cho.
- Bác đã nói thế thì cá nhân tôi xin có lời cảm ơn trước về sự chuẩn bị chu đáo và có trách nhiệm đối với cuộc họp hệ trọng này. Còn về việc giúp bác lâu nay, xin bác đừng phải nặng lòng. Đối với việc này thực ra là bác đã giúp tôi, giúp nhà trường đấy. Từ hồi có bác về trường, tôi thấy như nhẹ đi được phần nửa gánh nặng quản lý. Vả lại với bác tôi vẫn luôn nghĩ bác cũng giống như người cha của tôi đã hy sinh hồi chống Pháp, nên giúp bác được chút nào thì tôi cũng chỉ coi đó như vừa là trách nhiệm, lại vừa là tình cảm, thế thôi bác ạ!
Nghe cô giáo nói, câu chuyện về ông Tâm bố của cô mà dân làng Sòi vẫn lưu truyền bỗng nhiên sống lại trong tâm trí ông Nguyên. Người chiến sĩ Cộng sản hoạt động bí mật ấy bị bắt, bị tra tấn đến mù mắt, đến gẫy hết chân tay mà không khai báo điều gì, cuối cùng bị chính thằng sếp bốt người Pháp tự tay cắt tiết cho đến chết. Câu chuyện bi tráng phút chốc sống lại đã khiến cho tâm tưởng ông dù có còn chút mặc cảm vướng vất nào cũng tự nhiên mà biến đâu hết cả. Mọi nghĩ suy lại thấy quang quẻ và nhẹ bẫng. Ông tự nhủ, không có lý do nào để ta không chuẩn bị tốt nhất cho sự thành công của cuộc họp có nhiều ý nghĩa, không chỉ đối với riêng ta.
Và cũng giống như mọi lần, ông Nguyên đứng lên nghiêm trang cúi người trước mặt cô giáo:
- Tôi xin đội ơn những lời chỉ bảo của bà giáo.
Gần tuần lễ sau, cuộc họp được tổ chức vào sáng chủ nhật ở hội trường Ủy ban xã.
Phần đầu cuộc họp ông Nguyên không được dự, ông Ngạn Chủ tịch mới của xã nhắn tin cứ ngồi nhà, đợi khi sắp đến lượt sẽ có người vào đón.
Trong lúc ông Nguyên đang ngồi nói chuyện với vợ trong nhà thì có tiếng gọi cổng. Ai gọi mà sớm thế không biết, 11 giờ mới đến lượt mình, giờ cuộc họp khoán hộ cũng mới khai mạc, hai tiếng nữa là ít! Ông Nguyên xúng xính trong bộ quân phục sĩ quan Liên Xô con trai gửi vế hồi đầu năm, chạy ra đón khách. Ông Quít Bí thư Đảng ủy xã cùng với một ông già lạ mặt bước vào sân. Ông Bí thư giới thiệu chủ nhà với người khách lạ nhưng không giới thiệu ông khách là ai với chủ nhà, điều sơ suất đó khiến cho ông Nguyên có phần kém chủ động đôi chút, ông chỉ biết bước nhanh lên trước dẫn hai người vào nhà.
Chẳng biết nói gì với người khách lạ, ông Nguyên chỉ biết quay sang hỏi thăm ông Quít đôi điều về mùa màng với công việc khoán hộ. Trong khi đó ông khách lạ cứ trừng trừng nhìn chủ nhà mà không nói câu gì. Cho mãi tới lúc câu chuyện có vẻ không còn gì để nói, ông khách mới nhìn xoáy vào chủ nhà lên tiếng:
- Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau là hồi nào anh Nguyên có nhớ không nhỉ?
Hoàn toàn bị bất ngờ và có phần khó hiểu về câu hỏi của người khách, ông Nguyên ngập ngừng hỏi lại:
- Xin lỗi ông, như thế là ông đã biết tôi trước đây?
Người khách cười khớ khớ thành tiếng thật cởi mở để lộ ra hai hàm răng giả đều tăm tắp và trắng như xương:
- Không những biết mà còn biết rất kỹ! Nhớ ra chưa, lần cuối chúng mình gặp nhau ở Chiêm Hóa chuẩn bị cho chiến dịch Biên Giới năm 50! Ông còn cho tôi chiếc bút máy Chatodo làm kỷ niệm…
- Anh, anh Ngô… Chí… Đông?
- Đông đây Nguyên ơi!
Hai ông lão, hai người bạn cũ cùng đứng dậy ôm choàng lấy nhau rưng rưng thổn thức trước sự im lặng ngậm ngùi của ông Quít Bí thư và tiếng khóc tức tưởi của bà Lan trong lúc bà đang rót ấm nước sôi vào phích mà phải dừng lại đến mấy lần.
Đợi cho mọi sự trở lại bình thường ông Quít mới
lên tiếng:
- Xin giới thiệu với ông bà Nguyên, ông Ngô Chí Đông đây nguyên là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hải Đông. Ông đã về nghỉ hưu từ lâu và hiện sống trên Hà Nội cùng gia đình con cháu, hôm nay cùng đoàn lãnh đạo cấp trên về dự lễ trao quyết định danh hiệu lão thành cách mạng cho ông Nguyên. Còn đây xin giới thiệu với Bí thư Tỉnh ủy, bà Hương Lan là phu nhân của ông Nguyên.
Ông Đông nhìn sang nữ chủ nhân thân mật thăm hỏi:
- Thế cô chú xây dựng từ khi nào, con cái ra sao?
- Cảm ơn ông đã hỏi thăm, nhà cháu đi cải tạo về thương cảnh cháu mẹ góa con côi nên đã về chung sống với nhau được gần chục năm rồi ạ.
- Còn con cái?
- Số cháu vất vả chỉ có một trai, nó đang lao động xuất khẩu bên Liên Xô. Để rước hai ông xơi nước, cháu xin phép dở dang chút việc!
Đợi cho bà Lan đi khuất, ông Đông quay sang ông Nguyên:
- Con cái sau này có gì khó khăn chú cứ nói với tôi một câu.
- Xin được đa tạ tấm lòng hào hiệp của anh.
Ông Đông nhấp một ngụm trà nóng trầm ngâm hồi lâu rồi hạ giọng đầy vẻ tiếc nuối:
- Nguyên ạ, giờ thì ta ăn cơm mới nói chuyện cũ với nhau một lúc. Nhớ lại hồi xẩy ra cái vụ của chú, tôi đang công tác trên ban Tổ chức Trung ương…
Ông Nguyên chen ngang không để ông Đông nói tiếp:
- Thế mà anh chẳng đỡ cho tôi một câu.
- Bậy nào! Sao lại không? Tớ có gặp trực tiếp các cụ trình bầy về chú, nhưng hôm nay sau gần bốn chục năm mới gặp lại tớ phải nói thật, cũng vì chuyện ấy mà tớ phải lên bờ xuống ruộng bao phen. Biết bạn tốt mà không cứu nổi cũng xót xa lắm chứ. Nhưng cờ đã rơi vào thế mất rồi, thế Chiến Quốc thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời phải thế! Nhưng thôi chuyện cũ nhắc thế là đủ, quỹ thời gian chúng ta chẳng còn mấy tí, hãy dành tất cả cho hiện tại và tương lai…
Vẫn giọng nói lôi cuốn đầy chất hùng biện ngày xưa! Ông Nguyên nhìn vào khuôn mặt hồng hào sáng láng đầy vẻ sung mãn của người đàn ông, mà trong thời trai trẻ ông đã luôn coi là thần tượng:
- Sau bao năm xa cách anh còn nghĩ đến tình bạn ngày xưa mà lặn lội xuống tận đây thăm tôi, lại được biết anh cũng từng vì tôi mà phải phiền lụy để nhận về mình những thua thiệt, tôi thật cảm động và biết ơn vô cùng!
Ông Đông lại tiếp tục mạch ý tưởng của mình:
- Gặp nạn trong cuộc đời cũng như gặp sự cố trong công việc là điều khó tránh, bởi thế người ta mới gọi con đường của cuộc đời, con đường hoạt động chính trị, con đường làm quan là hoạn lộ, chứ có bao giờ gọi là vinh lộ hay sinh lộ đâu. Nhưng cái khác nhau của những con người khác nhau đi trên con đường đó là ở chỗ xử lý tình huống ra sao. Nguyên ạ, điều tôi mừng nhất và nể trọng nhất là dù hoàn cảnh có thế nào đi chăng nữa thì chú vẫn giữ được khí tiết, giữ được tấm lòng với cách mạng. Không để mất những điều quý báu trong lòng một kẻ sĩ như thế nên chú luôn có được cách xử lý tình huống đúng đắn. Cũng chính vì điều đó mà khi xem xét lại trường hợp của chú cũng không mấy ai phản đối. Đồng chí Trần Hồng chú nhớ chứ, trên cương vị Phó thủ tướng, đồng chí ấy đã có những nhận xét khá là mới mẻ về chú, và sự ủng hộ của đồng chí là tiếng nói quyết định để có buổi lễ trao quyết định danh hiệu lão thành cách mạng hôm nay. Nguyên ạ, tôi hiểu chú nên tôi tin rằng chú cũng chẳng quan tâm gì đến cái danh hiệu lão thành cách mạng này đâu. Và tôi hoàn toàn có thể tin chắc rằng, tận đáy lòng chú, những nghi kỵ về cách mạng tuy không phải là không có và cũng không phải là không còn, nhưng lòng tin vào đại nghĩa cách mạng thì không bao giờ phai nhạt trong chú. Chính vì những điều đó mà tôi càng tin chắc rằng chú sẽ hiểu đúng đắn về việc làm rất tế nhị dành cho chú hôm nay, phải chăng đó cũng là cách làm mà trên con đường hoạn lộ thế gian, chỉ những bản lĩnh lớn biết cách hành xử mới làm được?
Ông Nguyên một lần nữa nhìn vào khuôn mặt người bạn cao niên, mà hồi đầu hoạt động bí mật ông đã nhiều lần gọi bằng cái biệt danh Tô Tần bởi khả năng hùng biện lôi cuốn như một thuyết khách:
- Anh Đông ạ, tôi không thể không một lần nữa trong đời nghe theo lời khuyên bảo của anh bởi những lý lẽ xác đáng. Một lần nữa xin được thể hiện lòng ngưỡng mộ của tôi đối với người dẫn dắt và bảo trợ như anh!
*
Buổi lễ trao giấy chứng nhận cán bộ lão thành cách mạng, kèm theo quyết định hưởng lương hưu trí chuyên viên 1 và số tiền trợ cấp tương đương 36 tháng lương hưu cho ông Hoàng Hữu Nguyên, đã diễn ra trong bầu không khí trang trọng và ấm cúng. Buổi lễ có thể nói là đã kết thúc hoàn hảo nếu như không xẩy ra chuyện ông Hổ râu bạc đã có những lời phát biểu gay gắt ở đoạn cuối cuộc họp.
Chẳng là trong thành phần khách được mời dự lễ có cả các sĩ quan về hưu đang sống ở làng. Ông Hổ đóng bộ quân phục mới cứng, huân huy chương các loại hơn chục chiếc đeo đủ cả cuống lẫn sao lấp lánh, nặng trĩu một bên ngực áo. Ngồi nghe lần lượt từng tiết mục do các người đọc bản tóm tắt quá trình hoạt động cách mạng, bản quyết định công nhận, rồi ý kiến phát biểu của một số đại biểu đã đăng ký trước, ông Hổ chỉ ngồi nghiêm chỉnh gật gù tỏ thái độ trân trọng và hưởng ứng. Cho đến đoạn gần cuối, khi chương trình làm việc chỉ còn một bài phát biểu nữa là kết thúc thì ông Hổ bỗng đứng phắt lên, không cần ai giới thiệu mà vẫn cứ nói, đúng như kiểu người ta vẫn ví von những hành động như thế thường được gọi là cướp micrô, mặc dù ở đây chưa có điện, không có micrô, mọi người họp vẫn phải nói chay. Ông Hổ nói, tiếng oang oang như tiếng đại bác:
- Trước hết tôi xin cảm ơn cấp trên từ Trung ương tới địa phương đã làm được một việc rất có ý nghĩa, ấy là trả lại sự công bằng và trong sạch cho một chiến sĩ cách mạng đã từng hy sinh cả một đời người cho nền độc lập và tự do của tổ quốc. Những người dám hy sinh xương máu xả thân vì cách mạng như chúng tôi chỉ mong một điều đấy là, những trường hợp bị xử lý oan sai như đối với ông anh tôi đây sẽ từ nay không bao giờ để xẩy ra nữa. Những trường hợp đã xẩy ra rồi, mà tôi biết là còn nhiều đấy, thì cấp trên cũng cần rốt ráo xử lý cho bằng hết để cho những người đã chết oan được siêu thoát mà những ai còn sống được mát mặt. Nhưng tôi cũng xin được nói thật với các đồng chí, một đời người theo cách mạng bị xử lý oan sai, có người còn bị mất mạng một cách oan khuất chẳng lẽ chỉ có thế này là xong? Ví như trường hợp của ông bố tôi, đã từng là Phó chủ tịch tỉnh ta đây mà trong cải cách bị vu là Quốc dân đảng rồi lôi ra bắn…
Trưởng công an xã Phí Văn Thệ từ hàng dưới hội trường xông lên áp sát bên cạnh ông Hổ đập mạnh tay vào vai nói lớn:
- Đề nghị bác không được phát biểu lung tung, hôm nay là ngày trọng đại cấp trên về…
Ông Hổ gạt mạnh ông Thệ sang một bên:
- Cấp trên thì đã sao nào? Mà này chú Thệ, lúc tôi bắt đầu tham gia cách mạng thì chú vẫn còn cởi truồng bắt cá trộm ngoài chuôm Bò Nằm đấy nhé, đừng có mà hoắng lên như thế…
Xung quanh mỗi người một câu, phòng họp trở nên ồn ào không thể kiểm soát nổi. Ông Ngạn Chủ tịch xã phải chạy lên bục bắc loa tay cảm ơn mọi người và tuyên bố kết thúc buổi lễ ở đây.
(còn tiếp)