VĂN HỌC DI DÂN NHẬT BẢN-THÍCH ỨNG VÀ LAI GHÉP
Trong đó, văn học di dân như một diễn trình tồn sinh của những tiếng nói bên ngoài đường biên, những tâm thức “ở giữa”, những tha nhân cất lời giữa hoan ca và bi kịch phận đời. Dẫu cho ở thời hiện đại, không gian không còn khả năng phân cách, các ranh giới bị xóa nhòa, văn học vẫn không có con đường chung cho tất cả mọi người. Ở bên ngoài lãnh thổ địa lí của một quốc gia, một dân tộc thì đã trở thành “tha nhân”, “tha hương” với những ý thức phân li từ cội rễ và những ám ảnh ngoài lề không bao giờ nguôi dứt.
Văn chương di dân, tức văn học của các tác giả không sinh sống trên quê hương đất nước của mình, có thể là vì tị nạn, di cư, hoặc bất cứ lí do nào khác. Hiểu như vậy, khái niệm văn chương di dân liên quan đến, và có thể bao trùm cả văn học hải ngoại (oversea literature) vốn khá chung chung, văn học lưu đày (exile literature) vốn đậm tính chính trị - xã hội, hay một khái niệm khác là văn chương vô xứ (literature of displacement)... Ngày nay, quan niệm về văn học di dân đã mở rộng rất nhiều trong bối cảnh toàn cầu hóa. Cùng với vấn đề xuyên văn hóa (transculture), xuyên quốc gia (transnation) là sự thích ứng với bối cảnh, văn hóa và tìm kiếm bản sắc (identity) trong cái chung ngày càng mở rộng. Văn học di dân vì thế không hẳn là lưu vong, lạc loài, mà còn có một vị thế khác trong sự dịch chuyển không ngừng của thời đại. Những nhà văn di dân không sống bên lề của văn hóa dân tộc hay văn hóa của mảnh đất sở tại; họ đi về giữa hai miền tâm thức của thực tại và quá khứ, hoài vọng nhưng không nuối tiếc, phê phán nhưng không phủ nhận. Có thể lắng nghe tiếng nói ấy qua việc tìm hiểu văn học di dân Nhật Bản - mà lực lượng sáng tác lại khá ít ỏi so với các cộng đồng di dân châu Á khác như Trung Quốc, Ấn Độ...
Văn học Nhật Bản phát triển khá thuần nhất xuyên suốt các thời kì lịch sử. Yếu tố địa lí (tính chất đảo), đặc điểm dân cư (chủ yếu là người Nhật thuần chủng) và chính sách chính trị (có những giai đoạn dài bế quan tỏa cảng nhưng cũng có những cuộc cải cách vĩ đại, mở cửa canh tân kịp thời) giúp cho văn chương của người Nhật mang đặc điểm khá nhất quán từ cổ đại đến hiện đại. Dù được mệnh danh là quốc gia Tây hóa nhanh nhất trong khu vực châu Á, luôn chuộng điều mới mẻ và nhạy bén với sự chuyển biến của thời đại, người Nhật vẫn giữ tính cách “bảo thủ” và thậm chí “khắc kỉ” kiểu samurai. Cho đến những năm cuối thế kỉ XX, quan niệm về nền văn học của dân tộc Phù Tang còn khoanh vùng trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Nhật Bản sinh sống trong nước, xuất bản trong nước. Trong khi đó, cùng luồng di dân Nhật Bản sang các nước khu vực Âu - Mĩ bắt đầu xuất hiện rõ nét kể từ thời đại Minh Trị (từ 1868), sáng tác của người Nhật đã xuất hiện trên nhiều quốc gia khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xa hơn là ở phương trời các nước Âu - Mĩ. Hiện tại, người Nhật sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới, có người định cư hẳn ở nước ngoài và xây dựng một cộng đồng xa quê, nhưng vẫn có nhiều người Nhật cứ đi về giữa những miền đất lạ - quen. Thành thử, bản ngã của con người xứ sở hoa anh đào hiện nay mở ra nhiều khả tính dung chứa những dị biệt đa dạng. Diễn ngôn của văn học di dân Nhật thâu nhận và thực hành nhiều giá trị văn hóa khác nhau, dần được đón nhận cả trong và ngoài nước.
Văn học di dân Nhật Bản hiện nay có thể tính đến những nhà văn gốc Nhật nhưng mang quốc tịch nước khác, hoặc vẫn mang quốc tịch Nhật nhưng đã định cư ở nước ngoài, trong đó bao gồm các thế hệ thứ hai, ba, tư... của những người di dân Nhật Bản. Cộng đồng người di dân Nhật Bản đã gìn giữ tiếng nói và bản sắc của mình bằng văn chương, gây dựng được khá nhiều thành tựu. Các tác giả có thể sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ hoặc bằng ngôn ngữ của quốc gia mình sinh sống. Tác phẩm chủ yếu được lưu hành trong cộng đồng người Nhật ở nước ngoài hoặc cố gắng nhập vào dòng chính của văn học sở tại. Ngày nay, văn học ngoài biên giới của nước Nhật đã tìm được sự đồng cảm và đón nhận từ quê hương, mở ra nguồn sống mới cho các sáng tác vô xứ. Có thể kể đến một số tên tuổi nổi bật trong dòng chảy văn học di dân Nhật Bản như:
- Yoshiko Uchida, người Mĩ gốc Nhật, với hàng loạt tác phẩm khắc họa đời sống người Nhật tha hương, những nỗ lực gìn giữ gốc rễ và hòa nhập trước xung đột văn hóa.
- Kyoko Mori, hiện sống và sáng tác ở Mĩ. Những tác phẩm của bà là sự thực chứng, trải nghiệm của chính bản thân để khám phá sự khác biệt văn hóa giữa Nhật Bản và Mĩ. Các cuốn sách mang màu sắc tự truyện ấy đồng thời cũng phản ánh rõ nét tâm thức của người Mĩ gốc Nhật - thực chất là một thế hệ Nhật Bản đã chấp nhận một biên cương nối dài.
- Yoko Tawada, hiện sống và sáng tác ở Đức. Bà viết bằng cả hai thứ tiếng Nhật và Đức. Năm 1996, bà được trao giải thưởng dành cho những nhà văn nước ngoài có đóng góp lớn cho nền văn hóa Đức. Văn chương của Tawada đầy rẫy những yếu tố siêu nhiên, trí tưởng tượng bén nhọn cùng lối trần thuật pha trộn phong cách Nhật Bản và Đức.
- Ishiguro Kazuo là nhà văn Anh gốc Nhật. Sinh ra ở Nagasaki, Ishiguro theo gia đình sang Anh sinh sống từ năm 1960 và trở thành công dân chính thức của nước Anh năm 1982. Ông giành Giải thưởng Nobel văn học 2017. Cuốn tiểu thuyết Never let me go (Mãi đừng xa tôi) ra đời năm 2005 được tạp chí Time xếp vào danh sách “100 cuốn sách tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến năm 2005” và xếp tác giả của cuốn sách ấy vào danh sách “50 nhà văn Anh nổi tiếng nhất kể từ sau 1945”. Ishiguro Kazuo được tạp chí New York Times ngợi ca là nhà văn “between two world” (giữa hai thế giới) với tiếng nói mãnh liệt, sâu sắc về những giá trị không bao giờ phai nhạt. Hiện sách của Kazuo Ishiguro được dịch sang tiếng Việt có cuốn Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông (An Lý dịch, Nxb Văn học, 2013), Mãi đừng xa tôi (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb Văn học, 2008) và Người khổng lồ ngủ quên (Lan Young dịch, Nxb Văn học, 2017).
Ngoài ra, còn có một số nhà văn Nhật di dân khác đang sống ở Mĩ, Pháp và Canada...
2. Nhìn chung, so với nhiều nước trong khu vực châu Á, văn học di dân Nhật Bản được nhận định ít phát triển hơn và tâm thức di dân cũng không giống nhiều dân tộc khác như người Mĩ gốc Phi hay người Việt trên phương trời Âu - Mĩ... Có lẽ người Nhật không mang mặc cảm thân phận nô lệ như những người da đen, cũng không gắn với kí ức “trốn chạy quê hương” của nhiều người Việt sau năm 1975 hay tâm thức như một số người có “động chạm” về vấn đề chính trị với đất nước mình như Cao Hành Kiện, Salman Rushdie... Tuy nhiên, đối với nhiều nhà văn di dân Nhật - đặc biệt là các nhà văn lớn lên trong và sau Thế chiến II - ám ảnh về chiến tranh, về bom nguyên tử, về lòng tự trọng của một dân tộc đề cao tinh thần võ sĩ đạo hẳn cũng tác động phần nào đến tâm hồn tha hương của họ. Và ở một khía cạnh nào đó, những con người dù bất cứ lí do gì phải rời xa tổ quốc cũng đều mang nặng như nhau những hoài niệm và khát khao tìm kiếm gốc rễ cũng như phương thức tồn tại nơi xứ người. Theo một thống kê, có 56 tờ báo và tạp chí bằng tiếng Nhật được xuất bản ở Mĩ trong khoảng thời gian từ 1886 đến 1990. Nếu so với số dân ít ỏi của Nhật lúc ấy thì con số này cũng thật đáng kể, cho thấy người Nhật di cư đã ý thức và chủ động gìn giữ những giá trị truyền thống thông qua các hoạt động ngôn ngữ và nghệ thuật. Nhất là trong giai đoạn đầu vượt Thái Bình Dương đến Tân thế giới, người Nhật không hề được đón nhận. Họ cũng như rất nhiều dân tộc khác, đứng giữa đường biên, chẳng thuộc về xứ sở Phù Tang cũng chưa bám rễ được trên vùng đất mới. Họ sáng tác bằng tiếng Nhật và cả tiếng Anh, sử dụng các thể loại văn học Nhật Bản truyền thống như thơ tanka, haiku, senryu... hoặc một chất văn xuôi đẫm mĩ cảm Phù Tang, với những hư huyễn phương Đông và trữ tình man mác (như tiểu thuyết của Ishiguro Kazuo) hoặc tính nhật kí hành trình (như văn viết của Kyoko Mori)...
Một bài thơ tanka khuyết danh lưu truyền trong văn học của cộng đồng người Nhật ở đảo thiên đường Hawaii đã viết:
Hawaii, Hawaii
như một giấc mơ
tôi đã đến
Nhưng nước mắt tôi
giờ đây chảy tuôn
trên những cánh đồng mía
Có thể thấy, văn học di dân Nhật Bản đã chia sẻ một thức nhận đau đớn về quá trình phân li và nỗ lực hòa nhập. Nếu quá trình đó vô cùng day dứt bi đát đối với thế hệ di dân thứ nhất, thì nó đã dần dần bớt khó khăn hơn với thế hệ thứ hai, thứ ba… Văn học di dân theo thời gian và xu thế phát triển, tất yếu sẽ mang tính lai ghép (hybridity). Ngày nay, lai ghép được xem là thuộc tính của thời đại toàn cầu hóa. Nó phản ánh tính logic của quy luật thích ứng tiến hóa. Các thế hệ nhà văn gốc Nhật cũng như các nhà văn di dân khác trên thế giới đã sống và viết trong nỗi niềm của một bản sắc đã bị lai ghép sâu sắc. Tiểu thuyết gia, nhà làm phim người Mĩ gốc Nhật từng đoạt nhiều giải thưởng lớn của văn học và điện ảnh, Ruth Ozeki, từng nói rằng: “Tôi đã sống phần lớn cuộc đời mình như một kẻ ngoài cuộc. Tôi nhớ thời cấp hai hay bị bắt nạt, chế giễu và bị đánh đập. Tôi là sự lai ghép hai nền văn hóa, là con lai - mẹ tôi là người Nhật và cha tôi là da trắng. Tôi lớn lên ở Connecticut, giữa một nền văn hóa da trắng và lớn lên với suy nghĩ tôi là một người Nhật. Nhưng sau đó, khi tôi đến Nhật Bản, tôi lại nhận ra rằng mình chính là người Mĩ”. Cảm thức “độ Tang Càn”(1) như thế cho thấy một cái nhìn không hẳn là ngậm ngùi, mà đối với nhiều nhà văn như Ozeki, đó lại là một tri nhận mới mẻ, một sự “thấu thị” sâu sắc cội rễ và những giá trị thực sự trong hoàn cảnh hiện tại. Họ chấp nhận sự khác biệt của chính mình, thích ứng và đi tìm tiếng nói riêng trong sự lai ghép ấy.
Hiện nay, xu hướng viết văn bằng ngôn ngữ khác (Anh, Pháp, Đức...) trong nền văn học di dân Nhật Bản ngày càng lớn. Đó cũng là điều tất yếu đối với nhiều nền văn chương hải ngoại, đặc biệt khi các thế hệ người Nhật thứ ba, thứ tư... sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, có thể tiếp xúc văn hóa dân tộc trong một không gian nhỏ bé của căn nhà gia đình, trong khi hoàn toàn hít thở bầu không khí ngoại quốc khi bước ra ngõ. Sáng tác bằng thứ tiếng khác cũng là cách hòa nhập, đôi khi là sự thể hiện tất yếu của lớp trẻ không còn thạo tiếng mẹ đẻ. Văn học di dân Nhật vì thế cũng chứa đầy yếu tố ngoại lai, pha tạp nhiều giá trị văn hóa.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định văn học di dân mang tính chất “giải lãnh thổ” (deterritorialization). Dù có liên hệ ít nhiều với quê hương (viết bằng tiếng Nhật, hướng về cố quốc với tất cả kinh nghiệm và tâm thức lưu vong) hoặc cách biệt hoàn toàn (sáng tác bằng thứ tiếng khác, lấy bối cảnh không phải là nước Nhật, hướng đến đối tượng độc giả khác...), những nhà văn “lưu vong” đều sống giữa các biên giới và luôn trong quá trình “giải lãnh thổ”: giải lãnh thổ trong ngôn ngữ viết, giải lãnh thổ trong ý niệm về không gian, và giải lãnh thổ trong văn hóa... Ngay cả xu hướng muốn dùng thứ tiếng tại đất nước mình đang sống để sáng tác cũng là nỗ lực “vượt biên” để xây dựng một thế giới, một không gian khả dĩ cho hiện tồn. Chẳng hạn đọc tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi bằng tiếng Anh của Ishiguro Kazuo, độc giả biết tiếng Anh mới có thể thưởng thức được, hoặc Kazuo chỉ hướng về cộng đồng nói tiếng Anh, trong đó tác phẩm xây dựng một bối cảnh hiện đại với hình ảnh nước Anh cuối những năm 1990. Nhiều người cho rằng, trên hình thức Ishiguro Kazuo là nhà văn Anh gốc Nhật, nhưng tác phẩm của ông không thể gắn mác Nhật mà gần như đã hòa vào văn học Anh dòng chính. Tuy nhiên, sự nổi tiếng của ông trong làng văn học thế giới chính là minh chứng cho sự phát triển của văn học di dân Nhật Bản. Không giống Samuel Beckett hay James Joyce vốn đã thụ hưởng những giá trị văn hóa Âu châu từ trong máu thịt gốc gác, Ishiguro Kazuo vẫn là người nghệ sĩ với một bản sắc độc đáo đã được lai ghép.
Bên cạnh việc các nhà văn di dân cố gắng xích gần với cố quốc, tìm kiếm độc giả trong nước thì văn học Nhật Bản đương đại còn chứng kiến một xu hướng văn học “giải biên cương” (borderless) với hàng loạt nhà văn - tác phẩm Nhật ăn khách ở thị trường nước ngoài. Đặc biệt họ cũng được xem là những tiếng-nói-khác trong dòng chảy văn học Nhật. Chẳng hạn cái tên sáng chói Murakami Haruki. Murakami Haruki hiện nay được xếp vào hàng nhà văn Nhật Bản đương đại nổi tiếng bậc nhất. Nhưng nhiều người Nhật vẫn xem Murakami là đứa con ngoại lai và những sáng tác đình đám ấy là văn chương tha hương, một món sa-lát trộn các yếu tố Đông - Tây và văn hóa đại chúng. Như vậy, không phải chỉ những nhà văn bên ngoài mới có những sản phẩm mang tính lai ghép. Bản thân nền văn học chính thống của đất nước hoa anh đào cũng xuất hiện nhiều tiếng nói “vượt biên”, giải lãnh thổ hóa. Điều này cho thấy sự vận động tất yếu của văn chương Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa.
N.P.K
--------
1. Nhà thơ Giả Đảo xưa qua sông Tang Càn mà hốt nhiên “đốn ngộ”: xa Hàm Dương mười năm luôn ôm nỗi nhớ mong hoài vọng, thế rồi khoảnh khắc “qua sông” chợt nhận ra đất khách Tinh Châu cũng là nhà (Khước vọng Tinh Châu thị cố hương). Cũng như thi hào Basho: Về thăm quê ngoảnh lại/ Edo là cố hương.
Nguồn: Văn nghệ Quân đội