Ba mươi năm đổi mới văn xuôi-Những ghi nhận và đề xuất
Nhà văn Phạm Hoa (nguồn: Internet)
Kính thưa các nhà văn! Con người có thể nói phần nào là sản phẩm của hoàn cảnh, chịu sự tác động của nó và ít nhiều mang hình hài của thời gian. Văn học không thoát khỏi quy luật đó, vì thế điều tôi xin được nói trước tiên đó là bối cảnh, sự kiện và sự tác động vào đời sống xã hội Việt Nam từ năm 1986 đến nay, trong đó có văn học, trong văn học là văn xuôi, sự chuyển dịch để nó khác trước ra sao, sự khác biệt ấy có mang phẩm chất đổi mới không, về mặt giá trị nó đứng im hay lùi lại.
Ba mươi năm qua trên đất nước ta đã diễn ra quá nhiều sự kiện lớn. Hai cuộc chiến tranh khốc liệt ở phía Bắc và Tây Nam, trong đó có cuộc chiến giúp Cam-pu-chia thoát khỏi nạn diệt chủng. Sự kiện nổ súng trên Biển Đông cuối những năm 80, cơn bão giá, lương, tiền. Thế giới biến động, Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ vô cùng hào hùng và ác liệt, thì đến những ngày các lãnh đạo của đất nước việc lớn nhất là lo cơm áo hàng ngày cho nhân dân. Rồi đổi mới, một loạt những chính sách được cởi mở, những khái niệm cởi trói; tự cứu mình trước khi trời cứu xuất hiện. Từ đổi mới trong ba mươi năm ấy một nền kinh tế hết sức khó khăn Việt Nam đã trở thành một nền kinh tế đang phát triển. Từ lúc các chuyến xe lửa, tàu thủy, ô tô chuyên trở gạo từ các vùng miền chia sẻ cho Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, Việt Nam đã vươn lên thành một nước xuất khẩu gạo hàng đầu ra thế giới. Từ một nước chịu sự cấm vận khắt khe của Mỹ, trở thành một đối tác toàn diện với Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ngày nay, Việt Nam có quan hệ sâu sắc với hàng trăm nước trên thế giới. Vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới không ngừng được nâng cao, trong đó có cả vai trò của chúng ta tại Liên hợp quốc. Trong giao lưu và hội nhập văn hóa Việt cũng có sự du nhập, Việt hóa và chuyển dịch, các loại hình nghệ thuật cũng có giao thoa tương tác lẫn nhau, ít nhiều cũng có tác động đến văn học. Nhạc rốc, một loại hình sinh hoạt đường phố của người da đen bình dân đã làm thay đổi sâu sắc, toàn bộ thị trường ca múa nhạc Việt Nam, tác động vào nhịp sống của toàn xã hội trong đó ít nhiều thôi thúc tới các nhà văn. Câu chữ trong văn xuôi của chúng ta có phần gân guốc. Gần đây trong văn chương giọng văn như một lời nói thẳng, nói cho người ít thời gian đọc vậy. Mặc dù văn nào hay thì cũng có sức lay động. Nhưng ít thấy những chuyện hay thời nay viết theo lối câu chữ thấm tháp một cách nhâm nhi, chậm rãi. Hình ảnh văn xuôi bây giờ giống như nhịp sống hối hả bận rộn có phần gấp gáp. Trong sự bộn bề đi lên đó, Đảng ta, Nhà nước ta đang đối đầu với sự xuống cấp về đạo đức xã hội, chưa ngăn chặn có hiệu quả với nạn tham nhũng lãng phí. Một bộ phận không nhỏ trong cán bộ đảng viên thoái hóa về mặt chính trị từ đó xảy ra hiện tượng tự diễn biến. Tệ chạy chức, chạy quyền chưa được đẩy lùi. Đây mới là một cuộc chiến vô cùng gian nan của một Đảng, một Nhà nước đang phấn đấu gần dân hơn, hiểu dân và vì dân.
Toàn bộ cái hay, cái tích cực, cái tiến bộ lẫn cái tiêu cực đều dội vào văn học, nhất là văn xuôi Việt Nam được xem như cái nhiệt kế đo lường tâm lý đời sống xã hội, làm sao mà văn học Việt Nam lại không ghi nhận không có sự chuyển dịch.
Đối với văn học có một số sự kiện tôi cho là quan trọng. Đó là: Cương lĩnh văn hóa đến năm 2000 ra đời đầu những năm 90; Nghị quyết Trung ương 5 khóa 8; Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị và gần đây là Nghị quyết 33. Đó là những văn kiện chuyên sâu dành cho văn hóa.
Những Chỉ thị, Nghị quyết trên của Đảng trong lãnh đạo văn hóa văn nghệ đều khẳng định: văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội. Vai trò của văn hóa quan trọng như vai trò của chính trị và kinh tế. Khẳng định đó là hết sức quan trọng. Theo khái niệm gốc của chữ la-tinh thì văn hóa là sự trồng trọt về mặt tinh thần. Từ đó theo tôi tất cả những gì dinh dưỡng về tinh thần, cái đó là văn hóa. Từ một cử chỉ đẹp giữa người và người đến những công to việc lớn khác đều có hàm lượng văn hóa. Có một lời ru dân giã nôm na rằng: mẹ ru cái lẽ ở đời, sữa nuôi thân xác, hát nuôi tâm hồn. Hát ở đây được hiểu như văn học nghệ thuật. Đây là một tuyên ngôn sát đúng đến tuyệt vời của nhân dân ta khi nhận diện vai trò của văn hóa. Văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong đời sống xã hội hàm chứa lòng dũng cảm, tinh thần độ lượng bao dung, chân thực và tự trọng. Giá trị đó sẽ có sức cứu vãn những gì chúng ta đã và đang mất mát hoặc trên đà đi xuống.
Các văn kiện chuyên đề về văn hóa mà tôi kể trên đều đặc biệt nhấn mạnh đến tự do sáng tác của văn nghệ sĩ gắn liền trách nhiệm công dân với đất nước. Tự do trong sáng tác là điều vô cùng quan trọng đối với nhà văn. Chỉ tự do cho anh em mới có sự thoải mái lựa chọn và đào sâu vào những vấn đề họ quan tâm. Tuy nhiên hai mệnh đề tự do và trách nhiệm công dân ở đây đồng nhất với triết lý trong tác phẩm, cái gì có lợi cho dân, cho đất nước thì làm. Nhà văn với tâm thế phát hiện, phê phán những lầm lạc, tội lỗi, hãy nói với một tấm lòng cao thượng bao dung, dễ chịu, dễ tiếp thu. Đôi khi nhà văn cần đồng nhịp với trái tim của Phật và Chúa trời. Hoặc sâu nặng như sự răn dạy của cha với con, của ông với cháu, sự bảo ban của bạn bè đồng nghiệp. Nói về cái xấu, cái ác cũng là để thức tỉnh nó, để tự nó xám hối nâng cao lòng tự trọng chứ không phải hạ nhục hoặc một mục đích tương tự.
Văn xuôi Việt Nam giai đoạn nào cũng có các nhà văn tiêu biểu, chống Pháp, chống Mỹ sau 1975 đều có tác phẩm, tác giả nổi tiếng. Tác phẩm của họ đều có thể đọc được lâu dài. Có thể tìm được ở đó hình ảnh, tâm trạng của không gian thời gian ấy. Từ năm 1986 đến nay, sau cái mốc đổi mới, riêng về lĩnh vực nhận thức nghề nghiệp các nhà văn đã nghĩ khác đi nhiều. Họ tự do hơn, mạnh dạn hơn trong mở rộng sự lựa chọn đề tài và lĩnh vực phản ánh. Họ bớt sợ chính mình ngay trên trang bản thảo, họ nhận rõ thái độ và tâm thế trong tác phẩm mới là điều quan trọng nhất. Thậm chí họ truy đuổi đến cùng những tồn tại gây tổn hại cho đất nước. Văn học phải thôi thúc cho sự phát triển chứ, vì mục đích của nó là tương lai cho con cháu, sự tồn tại của chế độ và sự toàn vẹn của đất nước. Vì thế, tính phát hiện, dự báo thể hiện khá rõ. Như nhà văn Sê-khốp buồn phiền và chỉ trích thói hư, tật xấu của người Nga mà ta chỉ thấy ông yêu họ và đặt ra những đòi hỏi đối với họ. Ông giễu cợt một thầy thuốc dốt nát nhưng không thấy mình kém cỏi, khi ông thầy này phán, mọi căn bệnh đều do tắc ruột mà ra. Hoặc trong chuyện Người đàn bà phù phiếm, ông phê phán mà vẫn nhận ra khuôn mặt tác giả cay đắng sót xa để ông buộc phải lên tiếng.
Gần đây trong tiểu thuyết và cả truyện ngắn các nhà văn Việt Nam cũng có cái nhìn táo bạo mà vẫn hợp thức, không bị các cơ quan quản lý thổi còi. Tôi chỉ xin đơn cử một vài tác phẩm, tác giả làm ví dụ cho nhận xét này chứ chưa hẳn là tiêu biểu, mẫu mực. Người thứ hai của Hải Vân đuổi theo ý ở cơ quan nọ người giỏi chưa bao giờ là người số một, đến mức nhân vật trong tiểu thuyết đi tàu với chiếc vé đàng hoàng của mình mà vẫn không sao được ngồi đúng ghế. Tiểu thuyết Bác sĩ trưởng khoa của Vũ Oanh cũng sót xa không kém, một tay mổ giỏi mà luôn luôn phải sống làm việc, chịu đựng một cấp trên của mình giỏi nhất chỉ là sự khôn ngoan. Dư chấn 3,5 độ của An Bình Minh cũng viết về cách cất nhắc và dùng người của một tờ báo nọ, người giỏi đã không được dùng còn bị hành hạ đủ kiểu. Mạnh hơn và có sự phát hiện trong cách dùng người của một cơ quan công quyền là tiểu thuyết Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn. Vợ thì cặp bồ với một Bộ trưởng và lên chức thứ trưởng rất nhanh. Vợ thì dốt và vấp váp thường xuyên trong công tác quản lý mà cô đảm nhận. Chồng cô “Gã tép riu” ấy lại rất giỏi nghiệp vụ. Cặp đôi này mâu thuẫn thường xuyên, cuối cùng họ đưa nhau ra tòa. Ở tiểu thuyết này, Bắc Sơn muốn nói về nạn cặp bồ ở công sở, hiện tượng đang diễn ra không ít hiện nay. Vấn đề mà Quốc hội trong thảo luận cũng đã nói về nạn hối lộ tình dục trong hệ thống công chức của chúng ta. Chua chát thay khi vợ làm điếm ở công sở thì chồng lại ở với một cô gái điếm. Hiện tượng này có vẻ cá biệt nhưng cũng gióng một tiếng chuông về công tác cán bộ ở ta, tưởng là chặt chẽ nhưng có chỗ, có lúc lại vô cùng lỏng lẻo.
Bàn về tự do trong sáng tác giai đoạn vừa qua, không thể không kể đến những tiểu thuyết có thể nói đã đi khá sâu vào các vấn đề ngày trước được coi là nhạy cảm. Những tập sách này, tuy không vào giải nhưng đó cũng có tiếng nói mạnh mẽ về chủ nghĩa lý lịch như Đi tìm hiện thực của những giấc mơ hay Khúc quanh định mệnh. Trong Đi tìm hiện thực của những giấc mơ con một chánh tổng còn làm phòng nhì cho Pháp, một người do nước lũ lưu lạc được cứu và phấn đấu đến Chủ tịch tỉnh. Còn một người vào Nam năm 1954 lại lên đến thiếu tướng quân đội Việt Nam cộng hòa. Trong tập Khúc quanh định mệnh các anh em trong một gia đình có lý lịch không tốt lắm, rất thông minh nhưng đi học không được, đi bộ đội không xong, phải đi thanh niên xung phong nhưng cũng rất lận đận. Sau này khi có đổi mới, họ mới được trọng dụng. Tiểu thuyết ra đời đứng được, có tác động xã hội vì các tác giả này đã viết với một tâm thế trong sáng, một thái độ xây dựng. Đó là một sự ghi nhận đáng kể trong con đường phát triển của văn học. Nếu không có sự nhấn mạnh về tự do sáng tác thì những cây bút này đã không dám chọn những đề tài như vậy và các giám đốc xuất bản cũng khó hạ bút quyết định cho tập sách ra đời.
Được mùa nhất trong văn xuôi 30 năm qua có lẽ phải kể đến truyện ngắn của các thế hệ tác giả 4x, 5x, 6x. Nhiều tác giả nổi tiếng, sáng tác của họ nếu lựa chọn trong những tác phẩm đã ra đời sẽ có những chuyện không kém gì các truyện ngắn hay của thế giới. Bên cạnh Nguyễn Huy Thiệp là Tạ Duy Anh, Y Ban, Thu Huệ, Phạm Ngọc Tiến, Trần Thuỳ Mai, Đỗ Bích Thúy, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Bão Vũ, Đức Ban, Võ Thị Xuân Hà, Dạ Ngân, Trần Thị Trường… là những nhà văn thành công ở thể loại này. Sau truyện ngắn là các tiểu thuyết của Chu Lai, Dương Duy Ngữ, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh, Trần Văn Tuấn, Khuất Quang Thụy, Văn Lê, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trần Huy Quang, Đào Thắng, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Bảo, Xuân Đức, Nguyễn Khắc Phê, Văn Phan, Ngôn Vĩnh,… và nhiều tác giả khác vẫn viết sâu về chiến tranh và thời kỳ hậu chiến. Các tác giả Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Xuân Khánh, Bùi Việt Sỹ, Nguyễn Xuân Hưng, Hà Phạm Phú… lại đi sâu về đề tài lịch sử, họ đã từng có những tập sách được dư luận chú ý. Và gần đây là lớp tác giả đang nổi lên trong các cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn và các cuộc thi khác mà Hội Nhà văn phối hợp với các Bộ ngành như Nguyễn Bắc Sơn, Vũ Danh Lam, Trần Nhã Thụy, Sương Nguyệt Minh, Di Li, Nguyễn Bình Phương, Trầm Hương, Thùy Dương, Vũ Quốc Khánh, Tô Hải Vân… các nhà văn này đã, đang khẳng định mình trên con đường văn chương gian khổ và xa thăm thẳm. Phía sau các cây bút nêu tên chưa thật đầy đủ này còn có khá nhiều tác giả trẻ đang cho người đọc rất nhiều hy vọng như Nguyễn Văn Thủy, Uông Triều, Trần Thanh Cảnh, Tống Ngọc Hân, Trần Quỳnh Nga, Du An, Nguyễn Thị Kim Hoà, Phạm Phú Yên Châu, Chu Thị Minh Huệ… và nhiều người khác.
Phải thừa nhận rằng, vài mươi năm gần đây nhờ không khí sáng tác có tự do hơn mạnh dạn hơn, có nhiều sư đột phá hơn nên nhóm tiểu thuyết được đánh giá cao đã tiếp nối được dòng chảy của một số cuốn sách đầy ấn tượng từ sau đổi mới của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Bảo Ninh v.v.. Đó cũng là giai đoạn có những bài ký rất có tiếng vang như Cái đêm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Vua lốp của Trần Huy Quang. Xem ra vị trí của thể loại này có sức mạnh riêng của nó. Nhiều ý kiến cho rằng, tiểu thuyết đang bị chững lại. Còn trên lĩnh vực truyện ngắn sự khởi sắc dường như không bị gián đoạn. Nhận định đó có trong một số cuộc hội thảo. Theo tôi chưa hẳn đã đúng. Mỗi giai đoạn có một thứ ngôn ngữ của riêng của các nhà văn. Ngày nay, họ cập nhật đời sống đa diện hơn. Câu chuyện của họ cũng mạnh, thông điệp qua tác phẩm cũng rất ấn tượng. Có chăng, cách nhìn cách viết theo lối riêng của thời gian và không gian lúc này cũng có thể gọi là cái mới, và vẫn nằm trong dòng chảy liên tục của văn xuôi Việt Nam. Nếu như không nói trên nền tảng của tiến trình văn học lâu nay.
Một vấn đề đang nổi lên cần được bàn trong hội thảo này, đó là vấn đề sex trong văn xuôi bây giờ. Quan điểm của bài tham luận này cho rằng, một tập sách là hiện thân một giá trị văn hóa. Vì thế sex phải nằm trong dòng chảy và khuôn khổ đó. Hiện nay văn xuôi Việt Nam có cảm giác như đang lạm dụng yếu tố này để tạo sự hấp dẫn cho người đọc. Như thế liệu có đúng không? Có cần thiết không? Sex phải nằm trong giới hạn của một tác phẩm văn học, rất khác sex trong tập sách có yếu tố thương mại, nặng về giải trí. Vậy đâu là giới hạn đúng của việc này trong sáng tác. Câu hỏi này mỗi nhà văn phải tự tìm lời giải cho mình. Vấn đề này các nhà văn xuôi của chúng ta còn có nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng có lẽ phải lấy thẩm mỹ để cân nhắc, đo đếm sex cần có như phải có trong câu chuyện và vấn đề nhà văn quan tâm, nó phục vụ cho ý tưởng của câu chuyện, nhưng nó phải đẹp và không dung tục. Còn sex khiến người đọc tò mò thích thú, thỏa mãn một cái gì đó trong bản năng thú tính của con người thì nó không thuộc phạm trù văn hóa. Mẹ là một hình tượng cao đẹp thiêng liêng, sao lại viết mẹ ngủ với con mình được. Người cha cũng vậy thôi, cha là núi Thái Sơn cơ mà, sao lại viết những liên quan đến tình dục giữa cha và con được. Có thể nói đó là vấn đề cấm kỵ, không thể có trong một tập sách khi chúng ta xác định nó là một giá trị văn hóa. Tôi không tin những chuyện sex quá đà sẽ góp cho tác phẩm trở nên tầm vóc.
Có nhiều ý kiến về văn xuôi sau ba mươi năm đổi mới. Qua các kỳ giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và giải của các cuộc thi lớn về văn xuôi, dư luận cho rằng, các nhà văn đang nổi lên lúc này ít chú ý đến văn chương câu chữ, điều đó là có thật, cho dù không phải là tất cả. Các nhà tiểu thuyết chú ý nhiều đến cốt truyện và thiếu đi hoặc không có những trang văn đọc đến nao người. Đó là những tập sách được viết bằng tổng lực các linh cảm, cảm giác và vô thức, thiếu một nghệ nhân tài hoa chạm khắc những phù điêu tại các điểm nhấn của cốt chuyện. Phần lớn họ viết bằng giọng văn kể chuyện, đôi khi cả giọng văn thông tấn báo chí. Theo tôi, một tác phẩm văn học đích thực không bao giờ chỉ là câu chuyện.
Quan trọng hơn nữa là việc đã có cốt truyện hay đấy nhưng lại thiếu đi một cái bóng của nó với những hàm ý sâu xa vốn có trong bản chất của văn chương. Một tác phẩm hay chỉ có thể cất cánh thành một tác phẩm lớn khi nó mang những tư tưởng có tầm thời đại, có tầm nhân loại và mang bóng dáng của triết học. Tôi không tin một tác phẩm chỉ dừng lại ở câu chuyện mà nó có thể trở thành một cuốn sách có tầm vóc.
Thấy rõ một điều, các tiểu thuyết nổi tiếng sau đổi mới đều được các văn sĩ viết về những điều đã nung nấu vài ba chục năm. Dẫu là giai đoạn đất nước khó khăn nhưng lúc đó các nhà văn không bị phân tâm. Còn ngày nay trước cuộc sống đang có xu hướng đi lên nhưng hiện thực đất nước vẫn ngổn ngang như một công trường lớn. Nhà văn của chúng ta vẫn còn ngỡ ngàng trước những vận động của xã hội khiến họ chưa nắm sâu được hiện thực, chưa làm chủ được sự kiện và ngòi bút họ đã viết bằng những định kiến. Nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, đã và đang hình thành những tác giả có thể trở thành tiêu biểu trong thể loại tiểu thuyết. Mặc dù tôi chưa dám tin lúc này và vài năm nữa sẽ có những tác phẩm để đời khi cuộc sống đang có những vận động như ngày hôm nay. Có lẽ nhà văn phải sống chậm lại, đặc biệt nhà văn phải đảm bảo cho mình một chiều sâu và bề dày văn hóa. Nhà văn phải tồn tích cho mình những kiến thức về lịch sử văn hóa dân tộc, thế giới, phải đọc thiên kinh vạn quyển, trong đầu phải có hàng ngàn núi sông kỳ lạ như nhà bác học Lê Quý Đôn nhắn nhủ với những người có ý chí lập ngôn. Hiểu biết ít về văn hóa đời sống, trong nghề nay thật khó đi xa. Tuy nhiên những khó khăn và thách thức nêu trên đều có thật nhưng chúng ta vẫn có quyền hy vọng và chờ đợi. Bài viết này chỉ là một liệu pháp gợi ý, đánh động, thật khó có một cái nhìn toàn diện, rất mong các tham luận bổ sung để chúng ta có một bức tranh trọn vẹn về văn xuôi ba mươi năm qua.
Phạm Hoa (Phó chủ tịch Hội đồng Văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam)