Nhà văn - Tác phẩm

16/11
9:12 AM 2016

CHUYÊN MỤC NHÀ VĂN-TÁC PHẨM: NHÀ THƠ CHÍNH HỮU

Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc. Ông sinh ngày 15/12/ 1926, mất ngày 27/11/2007, là Đại tá QĐNDVN, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn VN. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Ông là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm.

                                                 Nhà thơ Chính Hữu  (1926-2007)

Đỗ Ngọc Yên- Đề tài thơ Chính Hữu hầu hết là đề tài đánh giặc, nhân vật trung tâm là anh bộ đội. Tình cảm quán xuyến trong toàn bộ thơ Chính Hữu là tình cảm người lính, trong đó lòng yêu Tổ quốc và tình đồng chí là hai chủ đề hay được đề cập.

Trong diễn trình thơ Việt hiện đại, chúng ta rất ít gặp một người nào lặng lẽ như nhà thơ Chính Hữu. Sự lặng lẽ của ông không chỉ ở những bước đi trên con đường sáng tạo thi ca, mà ngay cả trong cuộc sống thường nhật, dù ở đâu người ta vẫn nhận ra cốt cách của một chính khách từng trải trong quan hệ với đồng chí, đồng đội và những người xung quanh.

Đặc biệt là ngay cả khi ông đã cán đích người ta vẫn thấy ông lặng lẽ như chưa bắt đầu khởi hành.   

*

Ông sinh tại TP. Vinh, tỉnh Nghệ An, nhưng quê gốc của ông lại là huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Nhà thơ Chính Hữu là trường hợp hiếm hoi trong số các nhà thơ cùng trang lứa về quá trình đào tạo. Ông học tú tài triết học ở Hà Nội từ trước cách mạng tháng Tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và phục vụ trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tại chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ông đã từng làm chính trị viên đại hội.

Chính Hữu bắt đầu làm thơ từ năm 1947- 1998. Suốt hơn nửa thế kỷ, ông hầu như

chỉ quan tâm viết về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng. Tập thơ Đầu súng trăng treo của ông xuất bản năm 1966 và được coi là tác phẩm chính của ông.

Cả đời cầm bút của ông để lại các tập như: Đầu súng trăng treo (1966); Thơ Chính Hữu (1997); Tuyển tập Chính Hữu (1998). Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 2001 với các tập thơ trên.

Ông đã có các bài thơ được phổ nhạc như Đồng chí (nhạc Minh Quốc), Ngọn đèn đứng gác (nhạc Hoàng Hiệp), Bắc cầu (nhạc Quốc Anh), Có những ngày vui sao (nhạc Huy Du).

Thơ ông không nhiều chỉ có khoảng 50 bài đã được công bố, nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Bài thơ Đồng chí được ông viết khá sớm, 1948 là một minh chứng sinh động nhất: Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ / Tự phương trời chẳng hẹn, quen nhau./ Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ/ Đồng chí! /Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính./ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,/ Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi./ Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày/ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!/ Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo.

Sau này bài thơ đã được phổ nhạc cho bài hát Tình đồng chí. Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Hơn thế, với Đồng chí, Chính Hữu đã có trong tay một tấm căn cước, một thẻ thông hành về thơ để bước lên văn đàn Việt Nam hiện đại. Xem ra, câu mà người ta thường nói là quý hồ tinh, bất quý hồ đa, tức là văn chương, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng cần hay, tinh túy, chứ không cần nhiều, ứng vào trường hợp của nhà thơ Chính Hữu dường như đúng tuyệt đối. Ông không phải là người thường xuyên có mặt và gây tiếng vang lớn trong quá trình phát triển thơ ca cách mạng, nhưng ngay ở thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã có một dấu mốc quan trọng với bài Đồng chí, khiến nhiều đồng nghiệp, đồng chí phải ngỡ ngàng. Thậm chí thơ ông còn cắm những mốc son, mang tính chất định vị, định hướng cho cả dàn hợp ca thơ cách mạng xét cả về nội dung tư tưởng lẫn phong cách sáng tác.

*

Chính Hữu là người không liên quan gì đến Phong trào Thơ mới, nhưng ông học Tú tài Triết học và là người mang hồn cốt Việt Nam, nên thơ ông dù khúc chiết, hàm súc đến mấy cũng không rơi vào những suy diễn vòng vo, triết lý rối rắm, nên không khó hiểu. Vả lại, ngay từ khi cầm bút theo cách mạng, Chính Hữu là người rất ý thức tự đổi mới mình và theo đó là đổi mới thơ ca. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sự ngây thơ, hồn hậu, có vẻ nặng về kể lể ở thời Đồng chí giai đoạn chống Pháp, nay được thay bằng nhịp thơ thôi thúc, câu thơ ngắn nhiều vần trắc và thanh không; ngôn ngữ khoáng đạt nhiều động từ mạnh tạo nên khí thế sôi động, cuốn hút như vẫy gọi bao lớp thanh niên lên đường tòng quân diệt giặc Mỹ cách đây gần 40 năm ở bài Ngọn đèn đứng gác: Đi nhanh đi nhanh/ Chiến trường đã giục/ Đầy núi đầy sông/ Đèn ta đã mọc/ Trong gió trong mưa/

Ngọn đèn đứng gác (Ngọn đèn đứng gác).

Bài thơ đã được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc và trở thành bài hát quen thuộc đối với bao người trong nhiều thập niên đánh giặc. Giờ nghe hát hay đọc bài thơ lên, thế hệ những người lính đánh Mỹ năm xưa như được sống lại khí thế hào hùng của một thời đạn

bom, những ngày máu lửa.

Sau chiến tranh, thơ Chính Hữu thiên về suy cảm. Nhà thơ muốn nhận thức và lí giải một cách sâu sắc hơn những giá trị tinh thần của thời đại mình thông qua những trải nghiệm của cuộc đời: Nụ cười, Kỉ niệm trung đoàn, Nghĩa trang liệt sĩ, Trong vũ trụ im lặng, Dọc theo tường điện Kremlanh,… là những minh chứng cụ thể nhất. Trong Nụ cười, Chính Hữu thành thực tâm sự rằng, trong cuộc đời cũng đã đôi lần chán nản. Những lúc ấy ông đã phải vịn vào những giá trị tinh thần để tìm ra cách hiểu mới nhất/ về sống và chết, được và mất?.

Sau những tháng năm ồn ào lứa tuổi nhà thơ trở lại khám phá sự im lặng trong ý thức và trong tư duy một thời của mình. Không phải ngẫu nhiên ông gọi Nghĩa trang liệt sĩđất hành hương, nơi ta đến để suy nghĩ, nơi ghi không phải cái mất đi/ mà cái để lại. Với nhà thơ, những hàng tên trong nghĩa trang vẫn rầm rì, một cuộc sống vẫn đập mãi mãi: Tôi chưa thấy nơi nào sáo động lòng tôi/ Bằng nơi yên nghỉ đời đời/ Tôi chưa bị ai phê bình dữ dội/ Bằng người đang lặng im không nói.

*

Bài Người bộ hành lặng lẽ của Chính Hữu được gợi ý từ tên một cuốn sách nổi tiếng, cuốn Những mơ mộng của người bộ hành cô độc của J.J Rousseau (nhà văn Pháp thế kỷ XVIII). Theo Rousseau, đi bộ là một hành vi đẹp nhất của con người. Đi bộ để nghĩ được nhiều hơn; Đi bộ tránh xa được sự rắc rối; Đi bộ để khám phá ra được nhiều nên càng đi càng yêu và đi bộ thấy được thời gian đang bước, thấy được sự khác nhau giữa các mùa hạ, thấy được sự khác nhau giữa các mùa đông. Có người cho rằng đây là bài thơ triết lý về cuộc đời hay nhất của Chính Hữu. Bài thơ làm năm 1996, tức là khi ông vừa bước vào tuổi 70, cái tuổi xưa nay hiếm: … Tôi càng muốn xa/ Những sự rắc rối/ Chỉ thích nhìn đời một cách đại khái/ Để càng yêu hơn/…/ Vì tôi chỉ đi, chỉ ngắm, chỉ nhìn/ không nói nên không phải cãi… (Người bộ hành lặng lẽ).

Có thể thấy bài thơ chất chứa sự chiêm nghiệm về cuộc đời cầm súng và cầm bút, vừa đánh giặc, vừa làm thơ dằng dặc hơn nửa thế kỷ qua mà Chính Hữu vừa muốn tự nhủ lòng mình, vừa muốn nói lại với những người đi sau, với con cháu của ông?

Lấy nguồn cảm hứng từ bài thơ Người bộ hành lặng lẽ của Chính Hữu, nhà thơ Hữu Thỉnh viết bài Gửi người bộ hành lặng lẽ, đề tặng nhà thơ khá xúc động và có thể nói là một dấu mốc quan trọng, như là báo hiệu một sự đổi mới thi pháp của Hữu Thỉnh: Ông là khách quen của những buổi chiều/ Bạn thân cùng im lặng/ Ông chỉ mong tạo ra nhiều khoảng trống/ Khoảng trống dịu dàng quà tặng của mùa thu.../ Thế kỷ sóng to/ Ông lặn qua tận đáy/ Lấy khoan dung làm chiếc phao bơi/ Khiến cay đắng cũng nhuốm màu tha thứ.../ Cây vẫn đây mà năm đã qua/ Xuân lại đến giúp Ông làm gậy chống (Gửi người bộ hành lặng lẽ).

Giản dị, hồn hậu và có pha chút hào sảng, nhưng vẫn đầy ắp sự chiêm nghiệm suy tư trong thế kỷ sóng to, nhưng một người như ông vẫn có thể lặn qua tận đáy. Bởi lẽ ông luôn biết lấy khoan dung làm chiếc phao bơi. Điều đó còn có cả sự hàm ơn người đồng chí, người anh đã đem đến cho nhfa thơ Hữu Thỉnh một bài học quý giá về lối sống và lẽ sống ở đời. Có lẽ một trong số những người hiểu về tính cách lặng lẽ của Chính Hữu nhất là người đồng chí, người đàn em, nhà thơ Hữu Thỉnh. Người Hữu trước (Hữu Thỉnh) hiểu người Hữu sau (Chính Hữu) đến mức bài thơ Gửi người bộ hành lặng lẽ trở thành một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hữu Thỉnh trong tập Thương lượng với thời gian. Đấy cũng là nét mới về thi pháp của nhà thơ Hữu Thỉnh trong mảng thơ về đề tài thế sự của ông.

Đúng là sau khi đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, dân tộc ta bước vào công cuộc dựng xây, phát triển đất nước sau chiến tranh. Cơ man những việc cần phải làm, trong đó còn có cả việc dẹp yên lòng người và yên lòng mình. Sau chiến tranh, thường nổi lên những kẻ công thần, những người đòi quyền lợi. Không ít người tự cho mình đã đóng góp, cống hiến nhiều nên phải được đãi ngộ cao hơn so với đồng chí, đồng đội và đồng bào mình. Rồi các cuộc đấu đá tranh giành quyền chức, địa vị, đem công trạng trong quá khứ cá nhân để mặc cả với tổ quốc và nhân dân trong hiện tại và tương lai. Những điều ấy khiến những ai có lương tâm và trách nhiệm trước cuộc sống còn nhiều khó khăn của dân tộc mình như nhà thơ Chính Hữu không khỏi chạnh lòng: Cháu dắt ông đi/ Hai ông cháu mình vừa đi vừa học/ Ông dạy cháu biết tất cả/ những gì/ Có ở trên trời dưới đất/ Còn cháu thì dạy ông biết/ Cuộc đời này ngắn,/ nhưng ông đừng buồn/ Vì nó - vĩnh hằng - tiếp tục/ Đường vào thế kỷ hai mốt,/ Hai người bộ hành một cháu một ông/ Những bước đầu tiên đi song song,/ Bên những bước cuối cùng. (Hai người bộ hành).

Điều đáng nói là bước sang thế kỷ XXI, người ta đi bằng ôtô, máy bay, tàu ngầm siêu tốc, còn ông, nhà thơ Chính Hữu vẫn đi bộ cùng đứa cháu nội mới 16 tháng tuổi. Phong cách sống chậm ấy của ông không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận và có thể làm được./.  

 

                THƠ CHÍNH HỮU

 

ĐỒNG CHÍ

 

Quê hương anh nước mặn đồng chua 
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá 
Anh với tôi đôi người xa lạ 
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. 
Súng bên súng, đầu sát bên đầu 
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ 
Đồng chí! 

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày 
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay 
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. 
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, 
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi. 

Áo anh rách vai 
Quần tôi có vài mảnh vá 
Miệng cười buốt giá 
Chân không giày 
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay! 

Đêm nay rừng hoang sương muối 
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới 
Đầu súng trăng treo.

2-1948 

 

NGỌN ĐÈN ĐỨNG GÁC

 

Trên đường ta đi đánh giặc 
Ta về Nam hay ta lên Bắc, 
Ở đâu 
Cũng gặp 
Những ngọn đèn dầu 
Chong mắt 
Đêm thâu 
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt 
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt, 
Như miền Nam 
Hai mươi năm 
Không đêm nào ngủ được, 
Như cả nước 
Với miền Nam 
Đêm nào cũng thức... 
Soi cho ta đi 
Đánh trận trường kỳ 
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi 
Đèn ta thắp những lời kêu gọi. 
Đi nhanh đi nhanh 
Chiến trừõng đã giục 
Đầy núi đầy sông 
Đèn ta đã mọc. 
Trong gió trong mưa 
Ngọn đèn đứng gác 
Cho thắng lợi, nối theo nhau 
Đang hành quân đi lên phía truớc.

1965 

 

GIÁ TỪNG THƯỚC ĐẤT

 

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội, 
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội. 
Đồng đội ta 
Là hớp nước uống chung 
Nắm cơm bẻ nửa 
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa 
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà 
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp 
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. 

Bạn ta đó 
Ngã trên dây thép ba tầng 
Một bàn tay chưa rời báng súng, 
Chân lưng chừng nửa bước xung phong. 
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống 
Vẫn nằm trong tư thế tiến công! 
Bên trái: Lò Văn Sự 
Bên phải: Nguyễn  Đình Ba, 
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự, 
Có phải các anh vẫn còn đủ cả 
Trong đội hình đại đội chúng ta ? 

Khi bạn ta 
Lấy thân mình 
Đo bước 
Chiến hào đi, 
Ta mới hiểu 
 Giá từng thước đất, 
Các anh ở đây 
Trận địa là đây, 
Trận địa sẽ không lùi nửa thước, 
Không bao giờ, không bao giờ để mất 
Mảnh đất 
Các anh nằm.

1954-1961

 

NGÀY VỀ

 

Có đoàn người lên đóng trên rừng sâu 
Đêm nay mơ thấy trở về Hà Nội 
Bao giờ trở lại? 
Phố phường xưa gạch ngói ngang đường 
Ôi hôm nay họ nhớ mái nhà hoang 
Bức tường điêu tàn ngày xưa trấn ngự 
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa 
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng 
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng 
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm 
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm 
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa 
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già 
Phơi nắng gió. Và hoa ngàn cỏ dại 
Nghe tiếng gọi của những người Hà Nội 
Trở về, trở về, chiếm lại quê hương 
Nguy nga sao cái buổi lên đường 
Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc 
A ha! nhà xiêu mái sập 
Xác oan cừu ngập lối chân đi 
Gạch ngói xưa mừng đón gót lưu ly 
Bước căm giận xéo quân thù lớp lớp 
Mịt mù khói ngợp 
Cờ máu huy hoàng 
Phất nắng 
Ôi bài chiến thắng reo vang.

1947

 

THÁNG NĂM RA TRẬN

 

Tháng năm trong làng đã mùa gặt 
Lòng dân sung sướng thóc mênh mông 
Có người đi lính, hiền như đất 
Muà hạ tưng bừng, thương núi sông 
Một sớm mang về tin xuất trận 
Vội vàng súng đạn, nao nức lòng 
Ai về nhắn hộ cho thôn xóm 
Một đi là hẹn chẳng về không 
Mùa thu thây giặc chất sông núi 
Mùa hạ thây giặc phơi đầy đồng 

Ai về cấy lúa trồng bông 
Cho lúa mau tốt, cho bông được mùa 
Trưa hè rụng lá bàng khô 
Tôi đi ra trận nghe hò bốn phương 

Súng ơi! 
Súng đã theo tôi mùa thu 
Súng đi với tôi mùa hạ 
Theo tôi diệt hết quân thù 
Tôi nhớ thương người bạn cũ 
Miệng cười mắt nhắm nghìn thu 

Súng nặng 
Đường dài 
Vai gầy 
Áo rách 
Nhưng sớm ra đi miệng nở cười 

Mặt nóng bừng bừng theo nhịp trống 
Lòng nao nức rộn tiếng hoan hô 
Bờ tre em nhỏ đưa tay vẫy 
Hồn nở muôn sao phấp phới cờ...

1947 

 

ĐÊM HÀ NỘI 1950

 

Đêm Hà Nội buốt tê 
Phố dài nghe sấu rụng 
Nhìn ra cửa ô, bóng những con đê 
Ầm ì tiếng súng 

Ai về đó? 
Trăng chếch bóng đen 
Dài trên đường nhựa 
Loáng đèn 

Những người con trai con gái 
Hôm qua ra đi, hôm nay trở lại 

Hà Nội vẫn còn đây 
Đứng lên từ gạch ngói 
Hà Nội đang rầm rì 
Đi trong từng ngõ tối

 

GỬI MẸ

 

Hôm nọ gặp người làng ta ở xuôi 
Hỏi thăm tin nhà tin mẹ 

Mẹ hiểu câu "Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi" 
Những đêm gió mưa dữ dội 
Vẫn thắp hương cầu trời phù hộ bước con đi 

Lúc thơ ngây con từng nghe kể 
Từ tuổi lấy chồng mẹ ít khi vui 
Ngày đưa thầy về nơi yên nghỉ 
Lá mùa đông rơi xuống đầy vai 

Con mang tấm lòng thương mẹ 
Đi qua nghìn dặm quê hương 
Này đây núi, này đây sông 
Này đây buổi chiều khói thổi cơm lặng lẽ 
Nơi nào cũng hiền như đời của mẹ 

Làng ở đây như làng dưới ta 
Cũng có giếng nước 
Cũng có gốc đa 
Cũng có con trai xa nhà 

Yên tâm mẹ nhé 
Con đi mười năm 
Con đi bảo vệ 
Niềm vui của mẹ 
Và của quê hương 
Một ngọn khói thổi cơm 
Một mái nhà bình yên bếp lửa 
Tiếng võng đung đưa trưa hè tuổi nhỏ

1954 

 

SÁNG HÔM NAY

 

Quê ta lên khói cơm mùa 
Ai hát tin về thắng trận 
Bâng khuâng nắng nghiêng mái nhà 

Bọn chúng ta đi 
Lớn lên trong nước Cộng hoà 
Phấp phới trong lòng bao nhiêu tiếng nói 
Đường xanh cỏ núi 
Chân người thiết tha 
Ta đi mấy nghìn đêm vội 
Sáng nay ta về Hà Nội 
Kẻ thắng là ta 

Đất nước ta ơi 
Sao bỗng tay cầm run rẩy 
Máu lên thắm những môi người 
Sáo thổi nơi đâu nghe mà hay vậy? 

Những đầu say bát ngát 
Đi giữa nắng mùa ngân nga 
Lòng vui rung rung câu hát 
Của chúng ta làm 
               ca ngợi chúng ta

1950 


 

 

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *