VanVN.Net - Tập tuyển lần thứ ba hằng năm này những truyện ngắn từ Tuần báo Văn nghệ, có hai mươi truyện; như vậy xét về tỉ lệ thì cứ khoảng hơn hai tuần chọn được một truyện nổi trội đáng để lưu giữ thành tuyển. Như thế liệu đã thoả đáng chưa? Tôi nhớ một nữ biên tập viên của tủ sách truyện ngắn hay ở Mỹ từng viết rằng bà giữ lại một hồ sơ riêng có lẽ tới hàng trăm truyện ngắn, đáng lưu ý hay đặc sắc ở nhiều mức độ khác nhau, dù không đưa được vào tuyển tập hằng năm nhưng không hề đáng bỏ qua chút nào. Phải chăng đó cũng là một tình hình chung cho những ký ức chăm chú với truyện ngắn Văn nghệ của bạn đọc hay của các biên tập viên chuyên trách?
Hai mươi câu chuyện của một năm trước kể với chúng ta những gì?
Không có những câu chuyện nông thôn thuần tuý nữa: Ân nhân của Nguyễn Đức Hậu kể một quan chức đầu tỉnh khi hưu trí mới tìm về làng thăm gia đình cơ sở đồng thời là bạn chiến đấu của ông ta thời du kích kháng Pháp, mà người vợ anh này đã chịu đựng trận đòn tra khốc liệt để bảo vệ ông dưới hầm bí mật trong nhà họ, trận đòn với trò cưỡng bức khiến người đàn bà suốt đời không sinh nở được nữa..., và niềm ân hận muộn màng khiến ông ta nhận ra thấm thía cái khoảng “im lặng và ghẻ lạnh”(tr.19) vây quanh mình chính là cái khoảng vô ơn sinh ra từ những im lặng và ghẻ lạnh mà ông ta đã gieo rắc khi còn bôn ba trên hoạn lộ; Cô gái tính nhảy cầu Rạch Miễu của Nguyễn Quốc Trung kể một cách cô đọng, xuất sắc cái nông thôn bị đô thị nuốt chửng “cứ như cá quăng lên khỏi nước!” (tr.73) , chỉ còn món tiền đền bù giải toả và không nghề nghiệp, “chỉ còn cách bán thân mình mà sống”(tr.76), sa vào cảnh nhàn cư bất thiện, và bất ổn – “... đừng có tưởng dân mất ruộng này tay không bất lực muốn làm gì cũng được đâu.”(tr.86); Phấn hoa vàng của Phạm Thanh Thuý chọn câu chuyện có tính biểu trưng về một người nông dân chân chất nhẫn nại trồng cả một rừng đồi, biến khoảng đất trống đồi trọc thành nơi đất lành chim đậu nhưng rồi bị gạt ra khỏi rừng cây và vườn chim đó một cách tàn nhẫn, nhường chỗ cho thầu khoán khai thác dịch vụ câu cá giải trí và kéo theo nạn săn bắn bừa bãi hạ sát vườn chim...; Trăng làng Nhân Mục của Đoàn Ngọc Hà với giọng hài hước đã nhuốm uể oải và chút đắng cay kể về nỗ lực bất thành của một câu lạc bộ bô lão đấu tranh nhằm giữ cho con đường làng lát gạch từ cổ xưa khỏi biến thành một con đường bê tông rốt cục chịu chung số phận với ngôi đình cũng cổ xưa bề thế của làng đã bị bê-tông-hoá trước đó.
Một số cảnh báo vài năm gần đây về sự biến mất hay suy giảm những câu chuyện nông thôn trong văn chương nước nhà như vậy đã có thêm một chứng từ trong tuyển tập này. Nó cho thấy hiện tình và vấn đề của nông thôn đối mặt với đô thị hoá mà không “hiện đại hoá”. Hơn đâu hết, các vấn đề như thế trong văn học mang bộ mặt con người cụ thể, sinh động và bởi vậy mà đạt tới chiều sâu một cách tự nhiên. Tình trạng nông thôn bị “ghẻ lạnh”- quên lãng về mặt tinh thần hay bị khai thác vô tội vạ về các nguồn tài nguyên, dất đai, nhân lực – đồng thời đi đôi với việc xói mòn bản sắc văn hoá vật thể, như những câu chuyện kể trên cho thấy, là một nguồn cơn của nhiều tình trạng “xuống cấp” xã hội nói chung; bởi một vấn nạn chung mà các truyện ngắn này đều chạm tới: sự phá vỡ từ các nền tảng khác nhau tính gắn kết cộng đồng, bao gồm trong đó tinh thần trách nhiệm cộng đồng và sự chia sẻ một lương thức chung, truyền thống, lành mạnh về việc sống làm người.
Vừa tương ứng vừa trái ngược với những câu chuyện nông thôn nói trên, những câu chuyện chú mục vào đời sống con người ở đô thị trong tuyển tập này biểu thị phê phán đầu óc thị dân manh mún gốc gác tiểu nông xưa đồng thời với những giấc mơ cá nhân chủ nghĩa nhợt nhạt, bấp bênh.
Bữa tiệc gà tây của McAmmond Nguyễn Thị Tư kể một ông “giáo sư tiến sĩ” (tr.32) người Canada nhân chuyến du lịch hội thảo mà bất đồ rơi vào cuộc tình “say nắng” với một đàn bà bán dạo đĩa CD ở Hải Phòng; chuyện kể dài dòng một cách thiếu thiện cảm, nhất là bởi không đưa đến cái bất ngờ nào: rút cục thì có vẻ người đàn bà nông thôn kiếm ăn nơi đô thị đã chăm bẵm đến nơi đến chốn cả thể xác, tâm hồn và túi tiền của ông Tây già ngây thơ; và nếu có một hàm ý phê phán nào đó ở đây thì nó cũng đã rơi tõm vào cái khoảng chênh văn hoá mà đô thị nào cũng giăng sẵn.
Chúng ta cần suy nghĩ về điều này của Nguyễn Thị Thu Huệ lại làm mới một cách khá bất ngờ vấn đề bản sắc cá nhân dưới một góc độ từng nhiều năm được ưa chuộng như biểu hiện lãng mạn trí thức: chàng nghệ sĩ bị “Em” bỏ; nhưng nàng bảo “Em không bỏ anh. Em đi vì có còn anh nữa đâu.”(tr.68) - anh là hoạ sĩ được đào tạo bài bản, mà cứ suốt đời an phận nhởn nhơ với một chức vụ hành chính... Có lẽ thực là “Chúng ta cần suy nghĩ về điều này”, tuy nhiên còn trên một tầm mức khác, khi mà những tháng năm “nóng” tăng trưởng đã sản sinh một số lượng vượt trội nghệ sĩ và trí thức thiếu hụt bản sắc.
Đợi mặt trời của Nguyễn Xuân Hưng lạc quan nhẹ nhõm kể câu chuyện tản mạn về một nhóm quay phim loay hoay tìm cách lên sân thượng một khách sạn tư nhân ven biển để có góc máy tốt, phần nào gần với câu chuyện trong Biển vỡ của Triệu Văn Đồi kể nhân vật nhiếp ảnh gia tên Tào dồn hết tâm lực chớp được một khoảnh khắc kỳ lạ hình ảnh Tháp Ponagar ở Nha Trang mà anh ta cảm nhận là “như vừa chạm vào một điều gì đó thiêng liêng, huyền bí ... gần như cấm kỵ của đấng siêu nhiên.” (tr.22); điểm tương tự ở hai câu chuyện này là đều có sự xuất hiện bất ngờ của nhân vật nữ xinh đẹp hoặc với một tình yêu đẹp; và cuộc tao ngộ những cái đẹp hiển nhiên như thế - cái đẹp thuộc về nghệ nghiệp với cái đẹp trần tục nhân sinh - ở truyện của Nguyễn Xuân Hưng có vẻ hớn hở tươi mát trong khi ở truyện của Triệu Văn Đồi lại gây ảnh hưởng tai hại, cho dù truyện có ý gán nó cho tác động bí ẩn không chứng giải được của “đấng siêu nhiên” kia; và đằng sau những câu chuyện như thế dường lấp ló một phần bộ mặt thời thượng của sở thích về những cái đẹp thoáng qua, những cái bí ẩn siêu nhiên có tính tô điểm cuộc sống.
Và cái bí ẩn không dùng cho tô điểm, mà để biểu hiện tính huyễn hoặc của một “thực tại ảo” ở đời sống đô thị hiện hành – như trong Phân thân của Kiều Bích Hậu, kể chuyện một cô trưởng phòng quảng cáo thuộc một tạp chí về thời thượng tiêu dùng chỉ vì quên đóng máy tính cá nhân khi bất chợt ra ngoài mà đến nỗi để sinh ra một “cô” ảo, khiến “cô” này làm những việc cô chỉ mới cân nhắc trong ý nghĩ, và do đó mà tự bộc lộ “bí mật” mồi chài kinh doanh trước đối thủ cạnh tranh là một đồng nghiệp...
ở đây thì bản thân những tình huống huyễn hoặc kiểu như vậy là món ưa chuộng của nghệ thuật giải trí. Làm thế nào ra khỏi những giấc mơ? của Đinh Thị Như Thuý chọn hẳn một lối kể với bối cảnh tượng trưng và phi thực, với các mô-típ quen thuộc như cô gái trẻ nghèo dị tật có nhiều tâm sự, tâm hồn trắc ẩn, gia cảnh éo le, đầu óc hướng thượng và nhạy cảm tâm linh,v.v. Lối kể đó thoát ly thực tại nhân danh sự đào xới một “cái tôi” thuần nhân văn, thuần giá trị, và tựu trung chính là một kiểu giấc mơ ban ngày – cái giấc mơ đặt câu hỏi về ước muốn tự vượt thoát chính mình.
Tương phản với đời sống tượng trưng đó là đô thị thực tại của những nỗi buồn phát sinh từ đối chọi chuyện cơm áo với chuyện tình cảm hay mơ ước, những hoài niệm, những khao khát không thoả mãn thúc đẩy người ta gắng sống cuộc đời như Một khoảng xanh lớn dần của Vũ Minh Thuý, luôn luôn có sự an ủi của cái đẹp dĩ vãng, cũng như trong Mắt huyền của Nhật Tuấn, Mắt quỷ Medusa của Trần Dũng.
Và một chủ điểm luôn được nói đến suốt nhiều năm: thân phận; mà ở đây ta có thể thấy những biểu thị hiếm hoi trong Cố nhân của Trần Thuỳ Mai và Vực tàn hơi của Phạm Thuận Thành.
Đó là những truyện ít ỏi trong tuyển tập này, cùng với truyện của Nguyễn Quốc Trung, biểu đạt những xung đột thật sự chạm đến phạm vi số phận.
Cố nhân kể câu chuyện một ông quan hưu trí gặp lại cô người tình mối tình vụng trộm khi trước kia đương chức, một cuộc gặp bất đắc dĩ vì ông muốn nhờ “cố nhân” nay đã là một nữ doanh nhân thành đạt dùng ảnh hưởng của cô ta để “chạy án” cho con gái một ân nhân của gia đình ông. Truyện đượm màu cảm thán hận tình éo le, cũng khá thời thượng, song khai thác được nổi bật một giai thoại nàng Kiều thời thị trường sử dụng nhan sắc với những từng trải kiểu “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần” làm những bàn đạp thăng tiến vào giới tinh hoa xã hội.
Vực tàn hơi giản dị và bi thảm hơn, chuyển tải một xung đột thân phận gay gắt hơn khi kể câu chuyện hai cựu binh trẻ thời chiến tranh biên giới phía bắc – Tín và Sung – trở lại khu vực tác chiến cũ trong vai trò “cửu vạn” làm thuê cho cánh chủ buôn lậu xuyên đường biên. Cuộc mưu sinh gắt gao lận đận dồn nhân vật Tín đến chỗ chứng kiến cái chết thê thảm của đôi vợ chồng nhân vật Sung do tai nạn trong khi tải hàng, cái chết điển hình đến mức khiến bờ vực mà Sung rơi xuống trở nên địa danh “Vực tàn hơi”...
Truyện ngắn nói trên được đặt ở vị trí kết thúc tuyển tập đã để lại ấn tượng thành công của tập sách bởi nó có thể khiến người đọc phải ngẫm nghĩ. Tuy nhiên số truyện như vậy còn ít. Và hầu như ta thấy ở đây những lát cắt một tình trạng chung của truyện ngắn đuơng thời hoặc nặng về kể lể hoặc thoát ly vào cõi riêng huyễn hoặc mơ hồ của hư cấu mà không thoát khỏi giản lược sơ sài, thiếu ý tưởng thật sự thực chất.
Một đặc điểm đáng suy nghĩ ở chỗ các truyện ngắn đương thời ít khi dụng công khám phá đi sâu một điều gì, có vẻ dễ dàng hài lòng với tình trạng đi sau đời sống để kể lại, dẫu là kể lại rất nhanh chóng nóng sốt đến mức rơi vào ngôn ngữ báo chí “tân văn”.
Có lẽ một trong những nguyên nhân của tình trạng đó chính là ở ngôn ngữ văn học – ngôn ngữ với đầy đủ ý nghĩa này – của các truyện ngắn. Người đọc hẳn khó tìm được một cảm giác sửng sốt thú vị hay ám ảnh về câu cú, về hành văn và trần thuật ở rất nhiều truyện ngắn đương thời. Không phải chỉ vì thiếu một độ cầu kỳ cần thiết về văn chương, mà rất thường khi ta thấy ngôn ngữ lời kể không đem lại cảm giác rằng ngôn ngữ ấy, lời kể ấy đã được lọc qua một trải nghiệm tri thức, một trải nghiệm nội tâm thật sự của người viết.
Tuy nhiên, hầu hết truyện ngắn ở đây có thể thoả mãn nhu cầu giản dị trước tiên của người đọc: nhu cầu thấy được một câu chuyện. Và dầu có thế nào, qua những lời kể ấy vẫn hiện lên một chân dung những ngày ta đang sống, hiện lên những cái nhìn rất khác nhau vào ký ức chung và riêng, cũng như, hiếm hoi hơn, những cái nhìn từ ký ức nào đó dõi vào chúng ta.
Và hẳn là không có cách nào khác những người đọc chúng ta vẫn cứ dành thời gian trên dòng chuyện kể xuôi theo dòng đời, trong khi vẫn luôn hy vọng bắt gặp những câu chuyện nào đấy bỗng hiển lộ một sức mạnh thẩm thấu vào cõi tương lai.
(Nguồn Văn nghệ)
VanVN.Net - Tập tuyển lần thứ ba hằng năm này những truyện ngắn từ Tuần báo Văn nghệ, có hai mươi truyện; như vậy xét về tỉ lệ thì cứ khoảng hơn hai tuần chọn được một truyện nổi trội đáng để lưu giữ thành tuyển. Như thế liệu đã thoả đáng chưa? Tôi nhớ một nữ biên tập viên của tủ sách truyện ngắn hay ở Mỹ từng viết rằng bà giữ lại một hồ sơ riêng có lẽ tới hàng trăm truyện ngắn, đáng lưu ý hay đặc sắc ở nhiều mức độ khác nhau, dù không đưa được vào tuyển tập hằng năm nhưng không hề đáng bỏ qua chút nào. Phải chăng đó cũng là một tình hình chung cho những ký ức chăm chú với truyện ngắn Văn nghệ của bạn đọc hay của các biên tập viên chuyên trách?
Hai mươi câu chuyện của một năm trước kể với chúng ta những gì?
Không có những câu chuyện nông thôn thuần tuý nữa: Ân nhân của Nguyễn Đức Hậu kể một quan chức đầu tỉnh khi hưu trí mới tìm về làng thăm gia đình cơ sở đồng thời là bạn chiến đấu của ông ta thời du kích kháng Pháp, mà người vợ anh này đã chịu đựng trận đòn tra khốc liệt để bảo vệ ông dưới hầm bí mật trong nhà họ, trận đòn với trò cưỡng bức khiến người đàn bà suốt đời không sinh nở được nữa..., và niềm ân hận muộn màng khiến ông ta nhận ra thấm thía cái khoảng “im lặng và ghẻ lạnh”(tr.19) vây quanh mình chính là cái khoảng vô ơn sinh ra từ những im lặng và ghẻ lạnh mà ông ta đã gieo rắc khi còn bôn ba trên hoạn lộ; Cô gái tính nhảy cầu Rạch Miễu của Nguyễn Quốc Trung kể một cách cô đọng, xuất sắc cái nông thôn bị đô thị nuốt chửng “cứ như cá quăng lên khỏi nước!” (tr.73) , chỉ còn món tiền đền bù giải toả và không nghề nghiệp, “chỉ còn cách bán thân mình mà sống”(tr.76), sa vào cảnh nhàn cư bất thiện, và bất ổn – “... đừng có tưởng dân mất ruộng này tay không bất lực muốn làm gì cũng được đâu.”(tr.86); Phấn hoa vàng của Phạm Thanh Thuý chọn câu chuyện có tính biểu trưng về một người nông dân chân chất nhẫn nại trồng cả một rừng đồi, biến khoảng đất trống đồi trọc thành nơi đất lành chim đậu nhưng rồi bị gạt ra khỏi rừng cây và vườn chim đó một cách tàn nhẫn, nhường chỗ cho thầu khoán khai thác dịch vụ câu cá giải trí và kéo theo nạn săn bắn bừa bãi hạ sát vườn chim...; Trăng làng Nhân Mục của Đoàn Ngọc Hà với giọng hài hước đã nhuốm uể oải và chút đắng cay kể về nỗ lực bất thành của một câu lạc bộ bô lão đấu tranh nhằm giữ cho con đường làng lát gạch từ cổ xưa khỏi biến thành một con đường bê tông rốt cục chịu chung số phận với ngôi đình cũng cổ xưa bề thế của làng đã bị bê-tông-hoá trước đó.
Một số cảnh báo vài năm gần đây về sự biến mất hay suy giảm những câu chuyện nông thôn trong văn chương nước nhà như vậy đã có thêm một chứng từ trong tuyển tập này. Nó cho thấy hiện tình và vấn đề của nông thôn đối mặt với đô thị hoá mà không “hiện đại hoá”. Hơn đâu hết, các vấn đề như thế trong văn học mang bộ mặt con người cụ thể, sinh động và bởi vậy mà đạt tới chiều sâu một cách tự nhiên. Tình trạng nông thôn bị “ghẻ lạnh”- quên lãng về mặt tinh thần hay bị khai thác vô tội vạ về các nguồn tài nguyên, dất đai, nhân lực – đồng thời đi đôi với việc xói mòn bản sắc văn hoá vật thể, như những câu chuyện kể trên cho thấy, là một nguồn cơn của nhiều tình trạng “xuống cấp” xã hội nói chung; bởi một vấn nạn chung mà các truyện ngắn này đều chạm tới: sự phá vỡ từ các nền tảng khác nhau tính gắn kết cộng đồng, bao gồm trong đó tinh thần trách nhiệm cộng đồng và sự chia sẻ một lương thức chung, truyền thống, lành mạnh về việc sống làm người.
Vừa tương ứng vừa trái ngược với những câu chuyện nông thôn nói trên, những câu chuyện chú mục vào đời sống con người ở đô thị trong tuyển tập này biểu thị phê phán đầu óc thị dân manh mún gốc gác tiểu nông xưa đồng thời với những giấc mơ cá nhân chủ nghĩa nhợt nhạt, bấp bênh.
Bữa tiệc gà tây của McAmmond Nguyễn Thị Tư kể một ông “giáo sư tiến sĩ” (tr.32) người Canada nhân chuyến du lịch hội thảo mà bất đồ rơi vào cuộc tình “say nắng” với một đàn bà bán dạo đĩa CD ở Hải Phòng; chuyện kể dài dòng một cách thiếu thiện cảm, nhất là bởi không đưa đến cái bất ngờ nào: rút cục thì có vẻ người đàn bà nông thôn kiếm ăn nơi đô thị đã chăm bẵm đến nơi đến chốn cả thể xác, tâm hồn và túi tiền của ông Tây già ngây thơ; và nếu có một hàm ý phê phán nào đó ở đây thì nó cũng đã rơi tõm vào cái khoảng chênh văn hoá mà đô thị nào cũng giăng sẵn.
Chúng ta cần suy nghĩ về điều này của Nguyễn Thị Thu Huệ lại làm mới một cách khá bất ngờ vấn đề bản sắc cá nhân dưới một góc độ từng nhiều năm được ưa chuộng như biểu hiện lãng mạn trí thức: chàng nghệ sĩ bị “Em” bỏ; nhưng nàng bảo “Em không bỏ anh. Em đi vì có còn anh nữa đâu.”(tr.68) - anh là hoạ sĩ được đào tạo bài bản, mà cứ suốt đời an phận nhởn nhơ với một chức vụ hành chính... Có lẽ thực là “Chúng ta cần suy nghĩ về điều này”, tuy nhiên còn trên một tầm mức khác, khi mà những tháng năm “nóng” tăng trưởng đã sản sinh một số lượng vượt trội nghệ sĩ và trí thức thiếu hụt bản sắc.
Đợi mặt trời của Nguyễn Xuân Hưng lạc quan nhẹ nhõm kể câu chuyện tản mạn về một nhóm quay phim loay hoay tìm cách lên sân thượng một khách sạn tư nhân ven biển để có góc máy tốt, phần nào gần với câu chuyện trong Biển vỡ của Triệu Văn Đồi kể nhân vật nhiếp ảnh gia tên Tào dồn hết tâm lực chớp được một khoảnh khắc kỳ lạ hình ảnh Tháp Ponagar ở Nha Trang mà anh ta cảm nhận là “như vừa chạm vào một điều gì đó thiêng liêng, huyền bí ... gần như cấm kỵ của đấng siêu nhiên.” (tr.22); điểm tương tự ở hai câu chuyện này là đều có sự xuất hiện bất ngờ của nhân vật nữ xinh đẹp hoặc với một tình yêu đẹp; và cuộc tao ngộ những cái đẹp hiển nhiên như thế - cái đẹp thuộc về nghệ nghiệp với cái đẹp trần tục nhân sinh - ở truyện của Nguyễn Xuân Hưng có vẻ hớn hở tươi mát trong khi ở truyện của Triệu Văn Đồi lại gây ảnh hưởng tai hại, cho dù truyện có ý gán nó cho tác động bí ẩn không chứng giải được của “đấng siêu nhiên” kia; và đằng sau những câu chuyện như thế dường lấp ló một phần bộ mặt thời thượng của sở thích về những cái đẹp thoáng qua, những cái bí ẩn siêu nhiên có tính tô điểm cuộc sống.
Và cái bí ẩn không dùng cho tô điểm, mà để biểu hiện tính huyễn hoặc của một “thực tại ảo” ở đời sống đô thị hiện hành – như trong Phân thân của Kiều Bích Hậu, kể chuyện một cô trưởng phòng quảng cáo thuộc một tạp chí về thời thượng tiêu dùng chỉ vì quên đóng máy tính cá nhân khi bất chợt ra ngoài mà đến nỗi để sinh ra một “cô” ảo, khiến “cô” này làm những việc cô chỉ mới cân nhắc trong ý nghĩ, và do đó mà tự bộc lộ “bí mật” mồi chài kinh doanh trước đối thủ cạnh tranh là một đồng nghiệp...
ở đây thì bản thân những tình huống huyễn hoặc kiểu như vậy là món ưa chuộng của nghệ thuật giải trí. Làm thế nào ra khỏi những giấc mơ? của Đinh Thị Như Thuý chọn hẳn một lối kể với bối cảnh tượng trưng và phi thực, với các mô-típ quen thuộc như cô gái trẻ nghèo dị tật có nhiều tâm sự, tâm hồn trắc ẩn, gia cảnh éo le, đầu óc hướng thượng và nhạy cảm tâm linh,v.v. Lối kể đó thoát ly thực tại nhân danh sự đào xới một “cái tôi” thuần nhân văn, thuần giá trị, và tựu trung chính là một kiểu giấc mơ ban ngày – cái giấc mơ đặt câu hỏi về ước muốn tự vượt thoát chính mình.
Tương phản với đời sống tượng trưng đó là đô thị thực tại của những nỗi buồn phát sinh từ đối chọi chuyện cơm áo với chuyện tình cảm hay mơ ước, những hoài niệm, những khao khát không thoả mãn thúc đẩy người ta gắng sống cuộc đời như Một khoảng xanh lớn dần của Vũ Minh Thuý, luôn luôn có sự an ủi của cái đẹp dĩ vãng, cũng như trong Mắt huyền của Nhật Tuấn, Mắt quỷ Medusa của Trần Dũng.
Và một chủ điểm luôn được nói đến suốt nhiều năm: thân phận; mà ở đây ta có thể thấy những biểu thị hiếm hoi trong Cố nhân của Trần Thuỳ Mai và Vực tàn hơi của Phạm Thuận Thành.
Đó là những truyện ít ỏi trong tuyển tập này, cùng với truyện của Nguyễn Quốc Trung, biểu đạt những xung đột thật sự chạm đến phạm vi số phận.
Cố nhân kể câu chuyện một ông quan hưu trí gặp lại cô người tình mối tình vụng trộm khi trước kia đương chức, một cuộc gặp bất đắc dĩ vì ông muốn nhờ “cố nhân” nay đã là một nữ doanh nhân thành đạt dùng ảnh hưởng của cô ta để “chạy án” cho con gái một ân nhân của gia đình ông. Truyện đượm màu cảm thán hận tình éo le, cũng khá thời thượng, song khai thác được nổi bật một giai thoại nàng Kiều thời thị trường sử dụng nhan sắc với những từng trải kiểu “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần” làm những bàn đạp thăng tiến vào giới tinh hoa xã hội.
Vực tàn hơi giản dị và bi thảm hơn, chuyển tải một xung đột thân phận gay gắt hơn khi kể câu chuyện hai cựu binh trẻ thời chiến tranh biên giới phía bắc – Tín và Sung – trở lại khu vực tác chiến cũ trong vai trò “cửu vạn” làm thuê cho cánh chủ buôn lậu xuyên đường biên. Cuộc mưu sinh gắt gao lận đận dồn nhân vật Tín đến chỗ chứng kiến cái chết thê thảm của đôi vợ chồng nhân vật Sung do tai nạn trong khi tải hàng, cái chết điển hình đến mức khiến bờ vực mà Sung rơi xuống trở nên địa danh “Vực tàn hơi”...
Truyện ngắn nói trên được đặt ở vị trí kết thúc tuyển tập đã để lại ấn tượng thành công của tập sách bởi nó có thể khiến người đọc phải ngẫm nghĩ. Tuy nhiên số truyện như vậy còn ít. Và hầu như ta thấy ở đây những lát cắt một tình trạng chung của truyện ngắn đuơng thời hoặc nặng về kể lể hoặc thoát ly vào cõi riêng huyễn hoặc mơ hồ của hư cấu mà không thoát khỏi giản lược sơ sài, thiếu ý tưởng thật sự thực chất.
Một đặc điểm đáng suy nghĩ ở chỗ các truyện ngắn đương thời ít khi dụng công khám phá đi sâu một điều gì, có vẻ dễ dàng hài lòng với tình trạng đi sau đời sống để kể lại, dẫu là kể lại rất nhanh chóng nóng sốt đến mức rơi vào ngôn ngữ báo chí “tân văn”.
Có lẽ một trong những nguyên nhân của tình trạng đó chính là ở ngôn ngữ văn học – ngôn ngữ với đầy đủ ý nghĩa này – của các truyện ngắn. Người đọc hẳn khó tìm được một cảm giác sửng sốt thú vị hay ám ảnh về câu cú, về hành văn và trần thuật ở rất nhiều truyện ngắn đương thời. Không phải chỉ vì thiếu một độ cầu kỳ cần thiết về văn chương, mà rất thường khi ta thấy ngôn ngữ lời kể không đem lại cảm giác rằng ngôn ngữ ấy, lời kể ấy đã được lọc qua một trải nghiệm tri thức, một trải nghiệm nội tâm thật sự của người viết.
Tuy nhiên, hầu hết truyện ngắn ở đây có thể thoả mãn nhu cầu giản dị trước tiên của người đọc: nhu cầu thấy được một câu chuyện. Và dầu có thế nào, qua những lời kể ấy vẫn hiện lên một chân dung những ngày ta đang sống, hiện lên những cái nhìn rất khác nhau vào ký ức chung và riêng, cũng như, hiếm hoi hơn, những cái nhìn từ ký ức nào đó dõi vào chúng ta.
Và hẳn là không có cách nào khác những người đọc chúng ta vẫn cứ dành thời gian trên dòng chuyện kể xuôi theo dòng đời, trong khi vẫn luôn hy vọng bắt gặp những câu chuyện nào đấy bỗng hiển lộ một sức mạnh thẩm thấu vào cõi tương lai.
(Nguồn Văn nghệ)
VanVN.Net – Như tin đã đưa, ngày 20/10/2011, Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam – nhà thơ Đỗ Hàn, được sự ủy quyền của nhà văn Nguyễn Trí Huân – Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đã ...
VanVN.Net – Như tin VanVN.Net đã đưa, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa ký Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Nguyễn Hoàng Ca (tức nhà văn Nguyễn Thi, Nguyễn ...
VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...
VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...
VanVN.Net – Sáng nay, 06/12/2011, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội), cuộc tọa đàm văn học tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ được tổ ...
VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn