Văn học trong hội nhập nhìn từ cảm hứng
Cần đặt văn học Đổi mới trong tổng thể, hoặc toàn cảnh văn học Việt Nam hiện đại (thế kỷ XX) để thấy tính kế thừa và tính chuyển đổi của nó.
Chú ý các mốc lịch sử lớn để phân kỳ lịch sử và lịch sử văn học. Các mốc lịch sử lớn tác động và làm thay đổi diện mạo văn học qua nhiều chặng đường, trên tất cả các phương diện của sáng tạo, trong đó nếu có một phương diện quan trọng và cốt lõi nhất thì đó là cảm hứng; bởi nhìn vào sự thay đổi của cảm hứng có thể nhận diện và đánh giá những chuyển động lớn của lịch sử trong hơn một thế kỷ văn học hiện đại, tính từ thập niên mở đầu thế kỷ XX cho đến hôm nay. Từ góc nhìn cảm hứng để nhận diện gương mặt văn chương học thuật nói riêng và sự sống tinh thần của dân tộc nói chung ta sẽ thấy một chuyển đổi mang tầm thời đại đã diễn ra trong thập niên đầu thế kỷ XX, trước hai mục tiêu Văn minh và Dân chủ của các nhà Nho – canh tân, trong ba phong trào Duy Tân, Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục, qua những áng văn như Văn minh tân học sách, và những vần thơ thống thiết hướng về Dân và Nước:
Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân
Đây là một khởi động vĩ đại trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, khi chuyển từ Vua sang Dân, khi gắn Dân và Nước. Phải từ khởi điểm đó, từ ý thức về Dân chủ và Chủ quyền dân tộc đó, để hiểu chính cảm hứng về Dân và Nước rồi sẽ là nội dung xuyên suốt đời sống văn hóa – tinh thần Việt Nam thế kỷ XX. Nó nối kết liền mạch với kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa - tháng Tám - 1945, với khẩu hiệu “Lấy Dân làm gốc” năm 1986, và với mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng…hôm nay.
Với mục tiêu Dân và Nước cả một thế hệ các nhà Nho - chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Quyền đã không quản hy sinh, chấp nhận mọi khổ ải của lưu đày…
Khi xã hội thuộc địa hình thành và đời sống đô thị cùng các tầng lớp cư dân mới xuất hiện trong và sau hai cuộc khai thác thuộc địa thì nhu cầu hiện đại hóa nhằm vào mục tiêu Văn minh trong đời sống văn chương học thuật nổi lên, như một yêu cầu của thời đại; và đó là cơ sở cho sự xuất hiện các trào lưu văn học, dựa theo mô hình phương Tây. Và cùng với chuyển động này mà xuất hiện một cảm hứng mới – đó là cảm hứng về cái Tôi, và cái Riêng, nó là nhu cầu giải phóng cá nhân trong một xã hội tuy bị đặt dưới sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng lại có căn rễ phong kiến phương Đông hàng nghìn năm. Cái Tôi, cái Riêng lần đầu tiên xuất hiện như một hiện tượng không chỉ là mới, mà còn là lạ, qua thơ Xuân Diệu:
Ta một mình như núi đứng riêng tây
…
Ta là một, là riêng, là thứ nhất
Nhưng cái tôi ấy, dẫu là mới, vẫn chỉ là một sự lóe sáng nhất thời trong khoảng trên dưới 10 năm; bởi nó thiếu những cơ sở kinh tế, xã hội cho sự tồn tại; nên sau sự lóe sáng nhất thời, nó nhanh chóng trở nên lụi tàn và đi vào bế tắc, như trong thơ Vũ Hoàng Chương:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh
Vũ Hoàng Chương đã nói rất thực gương mặt và thân phận của cả một lớp người, chứ không hề thi vị hóa, thế mà cả Xuân Diệu - người khai mở, và Vũ Hoàng Chương - người kết thúc đều bị phê phán suốt hơn nửa thế kỷ.
Cách mạng tháng Tám đưa dân tộc vào kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Đó là cơ sở cho một cảm hứng mới xuất hiện - cảm hứng về cái Chung và cái Ta, được biểu trưng trong một khái niệm mới là Đoàn thể1, nó như một điểm tựa lớn, một lẽ sống mới khiến cho con người, trước hết là những con người nhỏ bé, và cũng là con người cá nhân bỗng thay đổi hẳn tầm vóc và thân phận:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay
cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa
mặt trời.
(Tố Hữu: Huế tháng Tám)
Và Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam có lẽ là người đầu tiên thức nhận sớm nhất sự chuyển đổi nhanh chóng và quyết liệt đó, trong một bút ký viết ngay sau ngày Cách mạng thành công: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi; và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi – những nạn nhân của thời đại “chữ Tôi”, hay gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể”2.
Đưa Đoàn thể lên một vị trí thiêng liêng, khẳng định cái Ta thay cho cái Tôi, cũng là khẳng định cái Chung thay cho cái Riêng - đó là định hướng, là nội dung bao trùm một thời dài trên dưới 40 năm, kể từ 1945 đến giữa thập niên 1980.
Ngót 40 năm cho một chuyển động từ cái Tôi sang cái Ta, từ cái Riêng sang cái Chung. 40 năm – đó là thời của chúng tôi. “Lũ chúng tôi, bọn người tứ xứ” (Hồng Nguyên). “Chúng ta đoàn áo vải” (Hoàng Trung Thông). “Vui sướng bao nhiêu tôi là đồng đội/Của những người đi vô tận hôm nay” (Chính Hữu). 40 năm – “những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung gương mặt/ Nụ cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ in nhau” (Chế Lan Viên). Hướng về cái Chung, cái Tanên sự giống nhau trở thành tiêu chí làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn mới, nói rộng hơn, một mỹ học mới, để phản ánh và nhân lên những động lực tinh thần rất cần cho một cuộc chiến quá dài những 40 năm, mà kẻ thù đến từ bất cứ đâu, cũng đều mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Cái giống, chứ không phải là cái khác phải trở thành mục tiêu tìm kiếm và đích đến cho bất cứ ai là người viết. “Núi Bắc, sông Nam đều giống Bác/ Nhìn một người ta nhìn ra cả nước/Trán trông xa và mắt dõi về sâu” (Chế Lan Viên). “Đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình” (Tế Hanh)…
40 năm cho một chuyển động như thế trong cảm hứng. Để từ nửa đầu thập niên 1980 về sau sẽ là một chuyển động mới, cũng lại được khởi động, được bắt đầu từ Hoài Thanh trong một tâm sự riêng, trước khi qua đời, năm 1982, với con trai trưởng Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì không chắc gì người ta đã công nhận cha thực sự là một nhà văn” 3.
Vậy là, vẫn Hoài Thanh - người sớm nhất phát ngôn cho một cảm hứng mới, sau hai lần khẳng định và phủ định cái Tôi, đã lại trở về với những giá trị mà Thi nhân Việt Nam mang lại - nó là giá trị thế kỷ như sự suy tôn của Hội thảo kỷ niệm 10 năm mất của Hoài Thanh và 50 năm ra đời của cuốn sách, vào tháng 3 năm 1992.
Vậy là từ 1982, Hoài Thanh, với cảm quan nhạy bén của mình, đã trở lại sự khẳng định giá trị một cuốn sách; và sau cuốn sách là một phong trào có tên là Thơ mới, là “một thời đại trong thi ca”, sau nhiều lần quay lưng hoặc dứt bỏ. Và với nhận thức đó, ông đã là một trong số ít người tiền trạm cho một giai đoạn văn học chính thức mở ra từ tháng 12-1986. Một cảm hứng mới, sẽ dồn tụ vào thời điểm này – chứ không phải sớm hơn hoặc muộn hơn, trước sau thời điểm 1985 – 40 năm sau Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là cảm hứng về cái khác, để thay cho cái giống, nó là sự khởi động cho cái chung trở lại với cái riêng. Phải khác. Và đó là Thời xa vắng, xa vắng chứ không phải là hiện hữu - “một ngày bằng hai mươi năm”. Là Mùa lá rụng…, lá rụng chứ không phải nở hoa - “đất nở hoa” (tên một tập thơ của Huy Cận - 1961). Là Tướng về hưu, về hưu chứ không phải xông pha trên chiến trận. Là Nỗi buồn chiến tranh, buồn, chứ không phải vui (Đường ra trận mùa này đẹp lắm…- thơ Phạm Tiến Duật). Là Bến không chồng, chứ không phải bến vui, bến đợi. Là Mảnh đất gồm cả người và ma, chứ không phải đất làng, đất quê hương, thân thương, hoặc đất “nuôi ta thành dũng sĩ” ..Phải khác, và đã khác, đó là đóng góp của một đội ngũ tiền trạm có tuổi đời từ 3x đến 5x như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Quang Thân, Thái Bá Lợi, Chu Lai, Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Trí Huân, Dương Hướng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Khuất Quang Thụy, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập…làm nên khúc dạo đầu tưng bừng cho một thời kỳ mang tên là Đổi mới, trước khi chuyển sang hội nhập.
Sau thế hệ này sẽ có sự tiếp tục trong đồng hành và chuyển giao cho một thế hệ mới - thế hệ cuối 5x và 6x xuất hiện và khẳng định vai trò của mình trong suốt thập niên 1990, thập niên đi qua hai mốc lịch sử lớn - đó là 1995, Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN; và 2000, thế giới chính thức bước vào cuộc Toàn cầu hóa lần thứ ba4 gắn với kỷ nguyên thông tin và sự tan vỡ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Đó là Nguyễn Quang Thiều, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Rồi kết nối với thế hệ 7x như Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Trang Hạ, Nguyễn Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Ngọc Thuần, Phan Việt, Văn Cầm Hải, Vũ Đình Giang, Lưu Sơn Minh, Phan Huyền Thư… cho đến Vi Thùy Linh - sinh năm 1980. Đây là thế hệ, theo tôi, gần như đã thoát khỏi các ràng buộc hoặc áp lực của truyền thống, và xác lập được những dấu ấn riêng; thế hệ nếu xuất hiện từ đầu 1990, thì đến nay cũng đã có thâm niên viết trên 20 năm, hoặc trên dưới 30 năm. Vậy là một chu kỳ, hoặc một thời kỳ mới lại tiếp nối mà những tên tuổi tôi nêu trên chỉ là một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ những gì đã xuất hiện trong sinh hoạt văn chương, học thuật mà đội ngũ là gối liền nhau, không đứt đoạn. Và, nhìn vào lịch sử, qua các mùa màng như mùa 1930-1945, mùa 1945-1975, mùa tiền Đổi mới và Đổi mới 1980-1995 mà những cây bút sung mãn đóng vai trò chủ công đều ở lứa tuổi 20 hoặc trên dưới 30 - thì với giai đoạn mới mở ra từ sau 1995 cho đến nay, lực lượng chủ công phải là thuộc thế hệ giữa 8x hoặc 9x trở đi. Chính thế hệ này sẽ hoặc đã gánh vác vai trò lịch sử của họ - để thay cho các thế hệ tiền bối gồm từ 3x, dẫu không ít người thuộc thế hệ này như Nguyễn Xuân Khánh, Ma Văn Kháng, Lê Văn Thảo, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Bắc Sơn, Chu Lai… vẫn còn dồi dào năng lượng, nhưng nhìn chung cả đội ngũ thì chỉ nên là người đồng hành hoặc cổ vũ.
Thế nhưng nếu đời sống văn học đang rất sôi động và tưng bừng với sự xuất hiện những tên tuổi mới, nhờ vào các phương tiện thông tin mà đến rất nhanh và phủ rất rộng thế giới đọc, gồm cả thực và ảo, thì hoạt động của Hội Nhà văn, với trên 1000 hội viên - số rất lớn đều đã đứng tuổi, hoặc đã ngừng viết từ lâu, quả chỉ là một tỷ lệ nhỏ. Và những gì đang diễn ra ở ngoài Hội - đó là những tìm tòi xem ra khá nhộn nhịp của những người viết ở thế hệ 9x mà số rất lớn, nếu không nói là tất cả đều không mang Thẻ hội viên. Những tìm tòi, theo quan sát của tôi, đó là sự ráo riết săn tìm cái riêng và cái khác, để mong đến với cái mới. Những cuộc tìm tạo ra sự “muôn hồng nghìn tía” của bức tranh chung, tạo ra nhiều cái lạ, trong đó không thiếu những cái lạ chỉ là sự lập dị, sự khác người, để được nổi tiếng, hoặc để bị tai tiếng, chứ không phải là cái mới đích thực vốn là, hoặc phải là sự xác lập một phẩm chất, một giá trị cao hơn. Một giá trị, đó phải là đến từ cái mới chứ không phải cái lạ. Một giá trị, nếu đúng là giá trị thì phải là cái riêng và cái khác; nhưng không phải cái riêng hoặc cái khác nào cũng tạo nên giá trị… Đó là những gì đã được lịch sử chứng minh, chứ không phải một khẳng định vu vơ. Do vậy nếu có gì cần chia sẻ với các thế hệ trẻ, ở tuổi sung sức hôm nay, tôi chỉ muốn chia sẻ điều ấy. Và nếu có gì cần đóng góp với Hội Nhà văn hôm nay, sau 8 kỳ Đại hội mà 7 cuộc, tôi được dự, tôi chỉ muốn nói một điều: Hãy đến với thế hệ trẻ. Hãy mở rộng các phương thức hoạt động, và tăng sức hấp dẫn, để đưa vào quỹ đạo sáng tạo mọi tiềm năng của thế hệ trẻ, qua đó khởi động và tỏa rộng những cảm hứng mới cho họ, và cũng là cho Hội; những cảm hứng gồm cả Tôi và Ta, cả Riêng và Chung, cả Khác và Giống, cả Lạ và Quen, để tạo nên những mùa màng mới, xứng với Nhân dân, với Dân tộc, với Thời đại. Nhìn lại hơn một thế kỷ, các thế hệ ông, cha đã thế thì các thế hệ hôm nay cũng không thể khác, nếu không nói là phải vươn cao hơn, vượt trội hơn. Đó là niềm tin của tôi. Niềm tin về cái Hậu cho mỗi đời người và chung cho mọi người. Một niềm tin vốn đã có sẵn trong tâm thức dân tộc: “Tre già măng mọc”, “Trẻ cậy cha, già cậy con”, “Con hơn cha là nhà có phúc”…
1. Đoàn thể, theo tôi - đó là Đảng (lúc này sau khi tuyên bố tự giải tán, đã rút vào bí mật, hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, cho đến 1953) và các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh, và sau đó là Mặt trận Liên Việt, do Đảng lãnh đạo.
2. Dân khí miền Trung; Tiên phong số 3 -1945
3. Di bút và di cảo; Nxb. Văn học; 1993; tr.200
4. Theo Thomas L.Friedman trong Thế giới phẳng (tóm lược thế giới thế kỷ XXI); bản dịch của Nxb. Trẻ; 2006.
(Nguồn: Báo Văn nghệ số 28/2015)