CHUYỆN ÍT BIẾT VỀ KHỞI NGHĨA BẮC SƠN
Đồng chí Chu Văn Tấn cùng bà con các dân tộc trong ngày hoàn thành Con đường Hạnh Phúc
Mười năm trước, tôi được ông Chu Văn Thành mời lên thăm Bắc Sơn. Thấy cờ quạt giăng khắp lối, còn bà con mặc quần áo mới và vẻ mặt ai cũng vui như Tết; hỏi ra mới biết, hàng năm cứ vào dịp tháng 10, bà con các dân tộc Bắc Sơn đều ăn mừng ngày Khởi nghĩa Bắc Sơn.
Ngồi bên các vị cao niên được nghe nhiều chuyện tưởng như kì tích...
Ngày 22/9/1940, quân Nhật tấn công vào Lạng Sơn. Ngày 25/9, quân Pháp hoảng loạn đã bỏ chạy theo đường qua châu Bắc Sơn, Võ Nhai về Thái Nguyên. Thấy thời cơ thuận lợi, đồng bào dân tộc đã đón đường, cướp súng của tàn quân, tự vũ trang cho mình.
Ngày 27/9, thấy thời cơ đã chín, Đảng bộ Bắc Sơn đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy, tấn công đồn Mỏ Nhài, giải tán chính quyền địch, xây dựng chính quyền cách mạng. Đồng chí Chu Văn Tấn về xuôi báo cáo với Xứ ủy Bắc kỳ; ông Trần Đăng Ninh được cử lên Bắc Sơn trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.
Làm chủ huyện lỵ Bắc Sơn được gần một tháng nhưng sau đó Nhật lại thoả hiệp với Pháp. Ngày 25/10/1940, chúng quay lại đàn áp, dồn dân vào thung lũng Tràng Xá rộng chỉ 1,3 km2 rồi tàn sát, giết hại, đốt phá, cướp bóc. Đến 28/10/1940, quân Pháp chiếm lại đồn Mỏ Nhài. Khởi nghĩa Bắc Sơn coi như bị dập tắt.
Không chịu khuất phục, lực lượng còn lại rút vào rừng, tổ chức thành Đội du kích Bắc Sơn. Hội nghị Trung ương 7 tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh tháng 11/1940 đã thống nhất: Phát huy truyền thống Khởi nghĩa Bắc Sơn, tiếp tục củng cố, duy trì Đội Du kích Bắc Sơn, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm. Ban chỉ huy khu du kích Bắc Sơn - Võ Nhai gồm đồng chí Hoàng Văn Thụ - phụ trách chung, chỉ huy trưởng – Lương Văn Tri, chỉ huy phó – Chu Văn Tấn.
Đầu năm 1941, đồng chí Chu Văn Tấn nhận nhiệm vụ đưa “thượng cấp” Trần Đăng Ninh, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh từ Võ Nhai lên Pắc Bó. Đến Ban chỉ huy Khu du kích tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, Bắc Sơn), Hoàng Văn Thụ cho biết Trung ương quyết định đổi tên Đội Du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân. Ngày 14/2/1941, Trung đội Cứu quốc quân 1 chính thức thành lập; ngay sau đó nhận nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí về dự Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó.
Tháng 4/1941, Bác Hồ về nước. Hội nghị Trung ương 8 họp từ ngày 10 đến 19/5/1941. Sau đó, Phùng Chí Kiên được tăng cường cho Chiến khu Bắc Sơn, thành lập Ban chỉ huy mới của Cứu quốc quân 1: Phùng Chí Kiên - Tổng chỉ huy, Chu Văn Tấn là phó và Lương Văn Tri làm Chính trị viên.
Cuối tháng 6/1941, 4.000 quân Pháp cùng lính khố xanh, khố đỏ mở cuộc càn quét lớn vào Bắc Sơn, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh. Ban chỉ huy Cứu quốc quân họp khẩn cấp tại Khuổi Nọi, hạ quyết tâm chiến đấu, bảo vệ cán bộ. Đội Cứu quốc quân 1 chiến đấu anh dũng, phá một số trận càn lớn. Do chênh lệch lực lượng, Ban lãnh đạo Căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại 1 tiểu đội chặn địch, còn 2 tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng. Ngày 19/8/1941, cánh quân của Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) bị phục kích. Ngày 21/8, đơn vị lại bị phục kích tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Lương Văn Tri bị thương rồi hy sinh. Phùng Chí Kiên bị thương nặng, vẫn anh dũng ở lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Ông bị bắt. Ngày 22/8/1941, chúng chặt đầu ông đem cắm ở đầu cầu Ngân Sơn.
Giặc Pháp điên cuồng vì Chu Văn Tấn - viên chỉ huy Cứu quốc quân 1 - vẫn còn sống. Chúng căm ghét gọi ông là “Hùm xám Bắc Sơn” và quyết tìm diệt.
Đôi nét về “Hùm xám Bắc Sơn”
Chu Văn Tấn, người dân tộc Nùng, sinh năm 1910, ở Phú Thượng, Võ Nhai. Tốt nghiệp tiểu học ở Thái Nguyên năm 1927, từng đi dạy học ở Bắc Hà. Thời gian (1931-1932), được giác ngộ cách mạng. Từng là nhân viên địa chính và cai quản lính dõng (châu đoàn) cho Pháp, ông đã vận động công nhân, phu phen chống áp bức, chống sưu cao thuế nặng. Năm 1936, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 2/1941, được Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương chỉ định vào Xứ ủy Bắc kỳ, ông tham gia chỉ huy Đội Cứu quốc quân 1. Tháng 9/1941, là trung đội trưởng Cứu quốc quân 2. Tháng 5/1945, theo quyết định của Hội nghị quân sự Bắc kỳ, Cứu quốc quân 1, 2, 3 và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân, Bộ tư lệnh gồm Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn và Trần Đăng Ninh. Tháng 8/1945, ông tham gia Ban lãnh đạo Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Ngày 28/8/1945, Bác thành lập Chính phủ lâm thời và Chu Văn Tấn là Bộ trưởng Quốc phòng. Năm 1948, ông làm Khu trưởng Khu 4 rồi Chiến khu 1, Bí thư khu ủy. Đầu năm đó, ông được phong thiếu tướng. Từ năm 1949 đến năm 1954, là Khu trưởng, Bí thư khu ủy Liên khu Việt Bắc, Chánh án Tòa án Quân sự, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
Cho tới giờ, trong nhân dân Căn cứ địa Việt Bắc vẫn còn lưu truyền câu chuyện: Trước ngày diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bác cho gọi các ông Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn và Phạm Văn Đồng lên giao nhiệm vụ. Bác nói đại ý: Chú Giáp là tướng chiến trường - “Tướng quân tại ngoại”, đi chiến dịch lần này được thay tôi ra mọi quyết định. Chắc thắng mới đánh! Chú Tấn ở lại giữ Chiến khu – đầu não của Trung ương Đảng và Chính phủ; nếu để mất Chiến khu là mất hết. Còn chú Đồng có nhiệm vụ đi vận động nhân dân Khu 3, Khu 4 góp nhân tài, vật lực cho tiền tuyến...
30 năm sau, người Pháp mới được diện kiến
Ông Trần Kháng Chiến, bạn thời để chỏm với ông Chu Văn Thành, kể lại: Thân phụ tôi là cụ Trần Tử Bình, bạn chiến đấu của cụ Chu Văn Tấn. Hai cụ có nhiều kỉ niệm suốt từ 1940 cho đến sau này. Tháng 4/1946, thầy Hoàng Đạo Thúy (Huynh trưởng Hướng Đạo sinh từ 1930 đến 1945) và cha tôi nhận nhiệm vụ từ cụ Hồ: xây dựng trường Võ bị Trần Quốc Tuấn – nhà trường chính quy đầu tiên của nước Việt Nam mới. Học sinh về học đa số có bằng tú tài, thành chung hoặc đang là sinh viên... Trong số đó có học viên Tôn Thất Hoàng, sau này là phu quân của đạo diễn Nguyễn Thị Xuân Phượng... Thời gian 1967–1968, đạo diễn - đảng viên Cộng sản Pháp Gérald Guillaume sang Việt Nam làm bộ phim tài liệu “Hồ Chí Minh – chân dung một lãnh tụ”. Bà Phượng được cử đi phiên dịch. Sau khi quay xong những thước phim nhựa tư liệu về cụ Hồ, ông đề đạt nguyện vọng làm thêm bộ phim về một nhân vật lãnh đạo khác nhưng phải “rất Việt Nam”. Nghe xong, Bác vui vẻ nói:
- Được thôi, đồng chí Vũ Kỳ sẽ lo thủ tục đưa đoàn lên Việt Bắc, làm phim về “Hùm xám Bắc Sơn”!
- Thưa Chủ tịch, “Hùm xám Bắc Sơn” là ai?
- Đồng chí cứ đi, gặp và tìm hiểu sẽ biết con người này!
Bà Phượng tháp tùng đạo diễn lên Thái Nguyên. Tới Bộ tư lệnh Quân khu 1, đoàn được Thượng tướng Chu Văn Tấn tiếp. Rồi đích thân ông đưa đoàn về phỏng vấn, thực hiện quay tại Phú Thượng quê hương và dẫn đi lấy tư liệu ở các địa danh lịch sử mà Đội Du kích Bắc Sơn từng chiến đấu.
Khi trở về Hà Nội, Gérald Guillaume tâm sự: “Ông Chu Văn Tấn là một con người vĩ đại theo đúng nghĩa của từ này!”. Rồi phim “Con hùm xám Bắc Sơn” được chiếu rộng rãi tại các trung tâm huấn luyện và các trường quân sự tại Pháp. Vậy là phải 30 năm sau, những sĩ quan Pháp mới biết được chân dung “Con hùm xám” từng làm cho họ mất ăn, mất ngủ một thời!
Người luôn đảm nhận những “nhiệm vụ đầu tiên”
Trong kí ức nhiều người thì ông Phan Anh là bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên nhưng không phải. Ngày 28/8/1945, báo chí đăng tải danh sách nội các của Chính phủ lâm thời gồm 15 thành viên và Chu Văn Tấn là Bộ trưởng Quốc phòng. Ông trên cương vị này từ 2/9/1945 đến sau ngày Quốc hội lập hiến ra mắt, tháng 3/1946.
Tháng 10/1947, thực dân Pháp tấn công lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt nội các Chính phủ Hồ Chí Minh. Chỉ 2 tháng sau, cuộc tấn công thất bại. Đầu năm 1948, Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh tấn phong quân hàm Đại tướng cho Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trung tướng cho Nguyễn Bình và thiếu tướng cho 9 cán bộ cao cấp, trong đó có Chu Văn Tấn. Vậy, ông là thiếu tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm 1950, khi chúng ta chuẩn bị chuyển sang giai đoạn Tổng phản công thì Bác nhận được lá thư của đại biểu Quốc hội Đoàn Phú Tứ. Ông kể lại “đám cưới được tổ chức bằng máu” của tay chân đại tá Trần Dụ Châu (Cục trưởng Quân nhu) cùng những chuyện “ăn cắp của công” (khi đi thị sát phát hiện) do bọn chúng thực hiện. Thanh tra Quân đội, Quân pháp vào cuộc. Sau khi đi các đơn vị điều tra, về báo cáo Bác, Tòa án binh xử vụ tham nhũng đầu tiên trong quân đội được thành lập. Thiếu tướng Chu Văn Tấn là chánh án, Thiếu tướng Trần Tử Bình – công cáo ủy viên, thay mặt Chính phủ xét xử. Trần Dụ Châu chịu án tử hình. Cho tới giờ, vụ án tham nhũng đầu tiên này vẫn còn giữ nguyên tính thời sự!
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ 7/5/1954, đất nước tạm thời chia cắt. Năm 1959, khi toàn quân vào thời kì xây dựng chính quy, hiện đại, Hồ Chủ tịch kí sắc lệnh phong vượt cấp 2 thiếu tướng Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng lên thượng tướng. Vậy là Chu Văn Tấn trở thành một trong 2 thượng tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từng đảm trách nhiệm vụ Chính ủy, Bí thư khu ủy Quân khu Việt Bắc, Chủ tịch Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc, ông đau đáu với việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cho miền ngược “đuổi kịp” miền xuôi. Trong nhiều công việc đã làm có công trình xây dựng con đường dài 185km, nối từ thị xã Hà Giang xuyên qua cao nguyên đá Đồng Văn, tới 4 huyện của tỉnh, được khởi công từ ngày 10/9/1959 và hoàn thành ngày 15/6/1965. Cả công trình đã vận động hàng nghìn Thanh niên xung phong, hàng nghìn thanh niên dân tộc của 8 tỉnh phía Bắc cùng bao mồ hôi, xương máu.
Ngày nay, đi trên con đường ấy, nhất là 21km từ Đồng Văn sang Mèo Vạc, có ai nghĩ rằng, nó phải thi công trong 2 năm trời và các Thanh niên xung phong phải treo mình trên vách đá để đục phá đá. Và 14 Thanh niên xung phong đã vĩnh viễn nằm lại đây. Ngày cắt băng khánh thành, con đường đã được Bác Hồ đặt cho tên “Con đường Hạnh Phúc”.
Nhân kỉ niệm 80 năm Khởi nghĩa Bắc Sơn (22/9/1940 – 22/9/2020) xin trân trọng nhắc tên những người làm nên sự kiện lịch sử ấy, trong đó có Chu Văn Tấn!
Nguồn Văn nghệ số 38/2020