NHỮNG VÂT LIỆU KIẾN TẠO THẾ GIỚI TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ BÍCH KHÊ
Nhà thơ Bích Khê
Nhà thơ đã sáng tạo nên một hiện thực - cuộc đời hoàn toàn mới - ở đó cuộc đời tràn ngập hương thơm (“thơm như sữa lúa”), muôn vàn sắc màu (“Muôn sắc màu khoái lạc”) và những âm thanh huyền diệu của những nhạc điệu du dương (“đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới”).
Có thể nói, bước vào thế giới tượng trưng của thơ Bích Khê, ta như bước vào một thế giới kỳ ảo luôn vang lên bản giao hưởng tuyệt vời của hương thơm, sắc màu và giai điệu. Nói cách khác, những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được nhận biết bằng ngũ quan là hương thơm, sắc màu và giai điệu.
Sắc màu huyền diệu và hương thơm thanh khiết
Hơn cả so với các nhà thơ đương thời, thơ Bích Khê được Hàn Mặc Tử đánh giá cao và các nhà nghiên cứu văn học đã lấy Tinh huyết của Bích Khê để đánh dấu một cái mốc mới của Thơ mới: “Với Tinh huyết, Thơ mới chuyển từ lãng mạn sang tượng trưng và siêu thực… Ở Tinh huyết phần lớn là bí hiểm, nhưng vẫn có thể nhìn thấy trong đó một hồn thơ đắm đuối, cuồng nhiệt. Nhà thơ có nhiều tìm tòi đổi mới thơ ca theo hướng chủ nghĩa hiện đại, đi sâu vào cõi vô thức. Có một số bài, một số câu ý tứ mới mẻ, nhạc điệu du dương...” (Từ điển bách khoa Việt Nam). “Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Có những nhà thơ làm thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước. Có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực. Lại có những nhà thơ cầm một dúm hạt giống mới trên tay. Khê thuộc vào hạng thứ hai” (Chế Lan Viên).
Không có đăng đàn tuyên ngôn, nhưng trong tập Tinh huyết, các bài như: Mộng cầm ca, Đôi mắt, Xuân tượng trưng, Duy tân thể hiện khá rõ quan niệm thẩm mỹ thơ của Bích Khê:
“Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại
Thuần túy và Tượng trưng”
(Xuân Tượng trưng)
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp - Hạt châu trong -
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng...
...Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy,
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người!...
(Duy tân)
Như vậy, có thể nói “quan điểm thẩm mỹ” của Bích Khê gồm hai xu hướng: “Thuần túy và Tượng trưng” và “Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương”. Bên cạnh sự cách tân theo xu hướng “Hiên đại” đã trở thành một đòi hỏi cấp bách của thời đại, Bích Khê không lệ thuộc hoàn toàn vào lối thơ tượng trưng của phương Tây mà luôn trở về với cội nguồn Á Đông. So sánh hai thi phẩm của Bích Khê, nhà thơ Quách Tấn đã nhận định: “Tinh huyết mang nhiều sắc thái của Tây phương, còn Tinh hoa chứa nhiều khí vị của Đông phương”. Cái “sắc thái của Tây phương” đã kết hợp một cách hài hòa với “khí vị của Đông phương” để sinh ra một tiếng thơ đặc biệt “Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy / Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy” mà trong đó có sự phối màu tuyệt diệu với đủ các gam màu:
- Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
- Vàng sao nằm im trên hoa gầy
- Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
- Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
- Ô trời hôm nay sao mà xanh?
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành…
- Khung trắng trời mây trắng lạ thường
Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
- Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(Tỳ bà)
Nhiều người ca ngợi câu thơ tài hoa Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. Song, chưa hết, sự tài hoa của Bích Khê còn biểu lộ ở nhiều chỗ khác, chẳng hạn trong bốn câu thơ sau mà ta thấy tràn đầy những hương và sắc: màu xanh của da trời, màu vàng của ánh trăng, màu nhung của mây, sao sáng như kim cương và mùi hương ngào ngạt của dạ lan:
Ôi trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương
(Nghê thường)
Nói về sự Giao cảm giữa thơ và họa trong thơ Bích Khê, nhà phê bình văn học Thụy Khuê có những nhận xét rất tinh tế:
“Khó phân biệt được lúc nào ông dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc. Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử : nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ, nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng. Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu hoàng hoa, điệu mộng cầm, bằng những màu sắc tân kỳ của hội họa hiện đại :
Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
(Hoàng hoa)
Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao cảm giữa hai ngành nghệ thuật: thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua các khung cảnh khác nhau, trình bày trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc, Vàng phai nằm im ôm non gầy/ Chim yên eo mình nương xương cây/ Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây, phần nhiều là ấn tượng, chỉ khơi gợi một cảm xúc, mà không mô tả, ví dụ, trong bức: Vàng phai nằm im ôm non gầy, chúng ta không thể thấy rõ hiện tượng vàng phai nằm im ôm non gầy, như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.
Những câu thơ tiếp theo cũng thế: Chim yên eo mình nương xương cây, rồi đến Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa, là những bức tranh gây ấn tượng lãng mạn.
Cảm tưởng mờ sương tỏa lên từ những bức tranh ấy, trong câu Vàng phai nằm im ôm non gầy, thì sự mờ sương toả ra ở những chữ vàng phai nằm im. Ai nằm im? - một màu nằm im. Và màu gì? - màu vàng. Nhưng không hoàn toàn là màu vàng mà màu vàng phai.
Ai biết và ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào, để trải sự vàng phai đó “nằm im” trên “non gầy”, lại đến thắc mắc: non gầy như thế nào? - nếu không phải là họa sĩ, thì không thể biết cách vẽ những hình ảnh ấy. Vậy sự khơi gợi hình ảnh trong thơ Bích Khê bắt nguồn từ hội họa, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem, người đọc thơ. [(Thụy Khuê: Nhạc và họa trong thơ Bích Khê)]. Sẽ không có sự phối màu tuyệt diệu đó nếu không có ánh sáng, hay nói cách khác, ánh sáng đã tạo nên sự phối màu tuyệt diệu đó. Và thế là trong những câu thơ của Bích Khê luôn tràn ngập ánh sáng: ánh sáng phát ra từ bàn tay búp sen của giai nhân “đi trong chiêm bao ẻo lả”, biến thành cái nhìn ảo giác chỉ có trong tưởng tượng huyền diệu:
Tay búp sen kẻ lên vàng óng ả
Những đường thêu kim tuyến rúng đêm huyền.
(Đồ mi hoa)
Ánh sáng phát ra từ:
Ôi! cặp mắt của người trong tựa ngọc
Sáng như gươm và chấp chóa kim cương!
…
Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng liêng.
(Cặp mắt)
Ánh sáng tràn ra từ bước chân thiếu nữ, đẹp như chuyện thần tiên:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương
(Nàng bước tới…)
Và ngay cả khi “chàng Lãng Tử” u buồn thì ánh sáng vẫn bừng lên:
Đây chàng Lãng Tử buồn rơi lệ
Miệng cứng hào quang chảy tợ vàng...
(Sầu lãng tử)
Có thể nói, ánh sáng là một phần đặc biệt quan trọng trong tư duy nghệ thuật của Bích Khê và không gian thơ của Bích khê luôn ngập tràn ánh sáng “Cả không gian là bể sáng tràn lan”. Ánh sáng như là có phép nhiệm màu đã khiến những câu thơ của Bích Khê luôn lấp lánh, lung linh, ngời sắc, kể cả khi màn đêm bao phủ, ánh sáng cũng không hề bị triệt tiêu mà thật ám ảnh:
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Một chút trăng say đọng ở làn môi.
(Tranh lõa thể)
Thậm chí, ngay cả khi tâm tư Bích Khê ở trong trạng thái tĩnh lặng nhất, lòng lắm nỗi bất an, nhiều băn khoăn bởi những nỗi buồn mông lung, xa vắng:
Nơi đây: làng cũ buồn thu quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Giòng sông biếc
Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa.
(Làng em)
Song nỗi buồn ấy cũng không giam cầm được tâm hồn nhà thơ mà trong những bước chuyển của mùa thu cô quạnh vẫn hừng sáng ánh biếc của dòng sông bí ẩn, mênh mang, lan tỏa... Hai câu thơ: “Ngày đi chậm lắm. Giồng sông biếc - Hừng sáng trong trời sợi sợi mưa” là những câu thơ tả cảnh tả tình tuyệt bút của đóa hoa thần diệu thơ Bích Khê. Đó chính bởi Bích Khê luôn hướng thơ mình về phía ánh sáng - thứ ánh sáng khởi nguồn của sự sống.Thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê không chỉ đa dạng, phong phú về sắc màu mà điều quan trọng là cái thế giới muôn vàn sắc màu đó ngào ngạt hương thơm.
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
Nhựa đương lên: sức mạnh của lòng thương;
Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa;
Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương;
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa;
Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương.
(Mộng cầm ca)
Những bài thơ như Nàng bước tới, Nhạc, Xuân tượng trưng, Châu… tràn ngập những hình ảnh nhạc thơm, nắng thơm, khí trời thơm, hoa thơm, cỏ thơm, nụ cười:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương
Là nơi đây đoàn tụ nhạc mười phương
Ứ thành xuân cho niên hoa bất tuyệt.
(Nàng bước tới)
Trăng gây vàng, vàng gây nên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ…
(Mộng cầm ca)
Một mùi hương rất đặc biệt là Hương thơm của da thịt của người con gái “Nàng là hương hay nhan sắc lên hương”, “Hương da thịt còn thơm hơn chất xạ” (Lõa thể), một mùi thơm quyến rũ: “Tôi uống trọn cặp môi hường thơm phức” (Chân):
Có cặp lông mày phớt ráng đêm
Dậy như men rượu gợi mơ thèm
Có gì uyển chuyển trên da thịt
Nức một đường thơm một điệu êm
(Châu)
Hay:
Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa
Thơm tho da thịt bắt say ngà
(Hiện hình)
Những cặp môi cười gươm sắc lẹm
Chóa lên không khí dội hương vang.
(Mộng lạ)
Điều đặc biệt là, mùi hương ấy vang xa chứ không bay xa: “dội hương vang”. Đây lại là một kiểu tư duy lạ của Bích Khê. Không chỉ có vậy, lời nói cũng “nức ra hơi hương”, mỗi cái “liếc yêu” cũng “phảng phất mùi hương”, đến cả “hồn tôi” cũng “như đỉnh hương”… Có thể nói, thiên nhiên, vũ trụ mở ra trước mắt Bích Khê, đâu đâu cũng ngây ngất mùi hương. Tại sao lại như vậy? Bởi nhà thơ đã thu được linh khí của đất trời, nhựa sống của vạn vật. Song, cái chết cũng có mùi thơm thì quả là chỉ có ở thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê: thế giới của Sọ người, Nấm mộ…
Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.
(Sọ người)
Một đêm vàng - một đêm vàng âm điệu
Đầy nhựa thơm, xanh mịt ngàn phi lau
Mộng ngời lên bay đến một bến tàu -
Biển ngọc bích, thuyền buồm say sóng dịu;
Hương ngọt ngào, ánh sáng chớp mau mau.
(Nấm mộ)
Nhạc điệu du dương
Đặc điểm nổi bật của thơ tượng trưng là đề cao tính nhạc. Baudelaire - người mở đầu cho thơ tượng trưng gọi vũ trụ là “Rừng biểu tượng”, là những tương ứng theo trục dọc và trục ngang: “Hương thơm, màu sắc, thanh âm tương ứng nhau”. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể (Verlaine). Nghĩa là thơ không cần có hình tượng rõ nét, và được quan niệm như một bản hòa âm huyền ảo. Mỗi từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Mỗi bài thơ phải là một bản nhạc. Với Bích Khê, điệu nhạc của những vần thơ, những “lời ca man dại” được thi sĩ rút tỉa ra từ chính thiên nhiên:
Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
(Xuân tượng trưng)
Hồn thơ Bích Khê đã thăng hoa bởi Tình yêu cuộc sống, yêu tới mức nhà thơ muốn thu vào mình mọi sắc hương, thanh âm của thiên nhiên, vũ trụ. Vì thế, mọi sắc hương, âm thanh của cuộc sống bước vào thế giới thơ Bích Khê đều trở nên lung linh, huyền diệu, đặc biệt là “Điệu nhạc thở hơi rừng”. Bích Khê đặc biệt đam mê âm nhạc và âm nhạc đã trở thành nét chủ đạo trong bản giao hưởng thơ tuyệt vời của ông. Âm nhạc với những biến tấu kỳ ảo của nó đã tạo nên một giọng điệu riêng trong thơ Bích Khê. Âm nhạc, với Bích Khê, không chỉ nghe bằng thính giác mà còn có thể cảm nhận bằng mọi giác quan. Sự tương giao cảm giác này là một sáng tạo độc đáo của thơ Bích Khê. Bằng thơ, Bích Khê đã đưa người đọc đến với một không gian âm nhạc giàu có với những giai điệu lung linh, với những biến hóa kỳ ảo. Giai điệu ấy có thể là hương thơm, là màu sắc:
Ô! Nắng vàng thơm… rung rinh điệu ngọc,
Những cánh hồng đơm, - những cánh hồng đơm
…
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! - hớp nhạc đầy hương.
(Nhạc)
Là đường nét với những “điệu ca thần diệu vẳng đưa lên” qua hình ảnh “cung thiềm vắt vẻo cài lên mây” (Nghê thường) bay bổng, lãng mạn và tình tứ với cái hé môi quyến rũ của người con gái có đôi môi mọng ngọt:
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân và ngọt tợ hương.
(Hiện hình)
Đó là giai điệu của tình yêu với những cung bậc khác nhau của cảm giác được diễn tả thật tinh tế:
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
(Tỳ bà)
Tại sao hầu như bài thơ nào của Bích Khê cũng có tiếng nhạc? Bởi cả thiên nhiên đầy ắp nhạc: “Nhạc thiên nhiên nhạc đầy pha lê” (Lên Kim Tinh). Giai điệu của âm nhạc là hơi thở, là nhịp đập của con tim nhà thơ Bích Khê và với sự nhạy cảm tuyệt vời, nhà thơ đã sáng tạo nên những giai điệu đẹp cho thơ, làm nên những hình ảnh mới lạ độc đáo, làm nên âm nhạc - thơ mang tên Bích Khê:
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người họa điệu với thiên nhiên ân ái
(Duy tân)
Cái độc đáo trong tư duy nghệ thuật của Bích Khê là khi ông lấy một hình ảnh vừa cụ thể vừa trừu tượng “lòng trai ấp mái” nói về một hình ảnh cũng vừa cụ thể vừa trừu tượng là âm nhạc, để rồi từ đó đọc ra bản hòa ca tuyệt diệu của cuộc sống: “Người họa điệu vớithiên nhiên ân ái”:
Thơ bay; thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà say! thơ ngà ngà say!
Nàng ơi đừng động... có nhạc trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trong mây,
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy hương
(Nhạc)
Về nguyên tắc mỹ học, thơ tượng trưng biểu hiện mối quan hệ giữa con người và sự vật trong mối tương hợp. Mỹ học tượng trưng cũng quan niệm giữa vũ trụ và con người có một mối tương quan bí ẩn. Mối tương giao, tương hợp này diễn ra trên nhiều mặt. Có sự tương giao về ý niệm: hư - thực, có sự tương giao về cảm giác: ánh sáng - bóng tối, có sự tương giao về không gian: ngang - dọc, có sự tương giao về màu sắc: đen - trắng, có sự tương giao về mùi vị: trong - ngọt... Giữa vũ trụ và con người có sự tương ứng huyền bí (Baudelaire).
Những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được thể hiện ở những vật liệu được nhận biết bằng ngũ quan thể hiện rõ ở những câu thơ tương hợp. Câu thơ tương hợp là loại hình câu thơ hàm chứa nhiều phạm trù khác nhau của cuộc sống. Loại hình câu thơ này là kết quả của quá trình ảnh hưởng thuyết tương hợp của chủ nghĩa tượng trưng. Trước hết là câu thơ thể hiện sự tương hợp giữa các giác quan, chẳng hạn như trong câu thơ: Cây du dương lâu đài song sóng. Để viết được câu thơ này, Bích Khê đã sử dụng cả thị giác và thính giác: vừa thấy lại vừa nghe, thấy cây giống lâu đài song sóng, nghe cây phát nhạc du dương. Vì vậy mà cái được biểu đạt của khái niệm “cây” có khả năng đánh thức cùng một lúc thị giác và thính giác người đọc.
Trong bài thơ Tranh lõa thể, Bích Khê viết:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố Nữ,
Ô tiên nương! nàng lại ngự nơi nầy?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
(Tranh lõa thể)
Đó là sự tương hợp giữa các giác quan - cả thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác - cũng chính là sự tương hợp giữa các đối tượng của chúng. Do đó mà âm thanh, màu sắc, hương thơm, cơ thể… có thể hòa hợp trong một thực thể. Đối tượng phản ảnh của thơ ca được hiện lên nhiều chiều, nhiều sắc thái, câu thơ lúc đó trở nên sống động và quá trình tri giác nghệ thuật cũng trở nên phong phú và hấp dẫn.
Thuyết tương hợp mở ra một hướng nhìn nhận đa diện về sự vật, số những trực quan sinh động do ngũ quan đưa lại về một sự vật hiện tượng sẽ cho ra một phán đoán chính xác hơn của một giác quan đem lại. Thuyết tương hợp không chỉ là một cố gắng tâm linh mà còn là một thực tiễn lý luận khoa học giúp con người khắc phục được sự đơn điệu và phiến diện trong việc khám phá mọi lĩnh vực đời sống.
Trong phần tìm hiểu những vật liệu kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được nhận biết bằng ngũ quan, luận văn có chia ra làm hai mục sắc màu - âm thanh và nhạc điệu, song sự phân chia đó chỉ là tương đối bởi cả ba vật liệu kiến tạo nên thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê được nhận biết bằng ngũ quan đó luôn quấn quýt, đan xen, kết hợp với nhau, thậm chí hòa tan vào nhau mà thành hình tượng thơ tượng trưng của Bích Khê:
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương.
- Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
(Hiện hình)
Hầu như các nhà nghiên cứu đều nhận xét, tính nhạc là điểm nổi bật trong thơ Bích Khê, ở khắp các trang thơ Bích Khê đều vang lên những giai điệu phong phú đến không ngờ. Về tính nhạc trong thơ Bích Khê, luận văn sẽ trở lại ở mục 1 của chương 3 với sự tìm hiểu kỹ hơn về một quan niệm mới của Bích Khê về nhạc của thơ, trong thơ.
Tiềm năng tượng trưng của vật liệu
Bằng cái nhìn của mỹ cảm tượng trưng và có cả siêu thực, Bích Khê nhìn cuộc đời, con người và thi ca ở phía không hiện hữu - cái phía luôn bị che khuất, cái phía mà người ta dễ bỏ qua vì phải công phu tìm kiếm - và ở đó Bích Khê đã gặp Nàng Thơ của mình. Hình tượng cuộc đời “thơm như sữa lúa” với “muôn sắc màu khoái lạc” và “những hương thơm thanh khiết”, con người “chứa một trời thương” với tình yêu cuộc sống và tình yêu nghệ thuật, thi ca “những rung động truyền thần” với “đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới” và “những lời thơ lóng đẹp hạt châu trong” hiện lên lung linh, kỳ ảo qua tư duy nghệ thuật tinh tế và giàu sức tưởng tượng của nhà thơ. Có được như vậy là bởi Bích Khê đã tích hợp được những tinh túy của tư duy nghệ thuật phương Tây hiện đại và nền tảng tư duy nghệ thuật phương Đông truyền thống “Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!”.
Ở một khía cạnh khác, Bích Khê sử dụng thuyết tương hợp để đi đến việc thống nhất của các hoạt động nghệ thuật lại với nhau. Bích Khê chủ động mở rộng biên độ của thơ, đưa cả âm nhạc, hội họa, kiến trúc, vũ điệu… vào trong thơ, khiến thơ ông không chỉ là thơ mà còn là nhạc điệu, bức tranh, lâu đài…; ngôn ngữ không chỉ là ngôn ngữ, mà còn là âm thanh, màu sắc đường nét của hội họa:
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mát
Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong…
Những lời thơ lóng đẹp hạt châu trong đó có lúc được nhận biết bằng từng giác quan, có lúc được cảm nhận đồng thời nhiều giác quan:
“Gió đi chới với trong khung trắng
Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca”
“Nàng hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương”,
“Rào rạt như nỗi cảm thương
Tiếng nhạc màu trăng quấn quýt nường”
“Nàng tan ra nhạc? Tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường”...
Ngôn ngữ lúc này không chỉ là một phương tiện mà trở thành cứu cánh của thơ nhờ vẻ đẹp của sự giao thoa của các loại hình nghệ thuật. Như vậy, có thể nói, tiềm năng tượng trưng của những vật liệu được nhận biết bằng ngũ quan để kiến tạo thế giới tượng trưng trong thơ Bích Khê là vô cùng rộng mở, có thể tới vô hạn.
(Còn tiếp) Nguồn: Nhavantphcm.com.vn