THỜI HIỆN TẠI CỦA NHỮNG NHÀ THƠ TRẺ
Đột nhiên gặp trang của nhà phê bình văn học - TS Văn Giá giới thiệu thơ Nguyễn Thúy Hạnh. Trước đó không lâu trên facebook của Viet Ha Tran đã nói về tác giả này. Tôi đọc kỹ chùm 5 bài của Nguyễn Thúy Hạnh, lòng mừng thầm, vì sự thay đổi trong bút pháp sáng tạo của thế hệ trẻ. Nhưng đọc một số lời bình ở trang này, tôi vừa buồn vừa vui. Buồn vì thơ Hạnh đưa đến bầu không khí khác hẳn lệ thường. Vậy mà nhiều người không thừa nhận hay là chưa nhận ra? Thơ Hạnh trong trẻo sâu kín từng chữ, mới từng chữ. Đừng nghĩ Hạnh đưa ra một mớ hành vi cuộc sống là hỗn độn. Cái trật tự ngôn ngữ được sắp xếp trong ý tưởng, chứ đâu soi trên mặt bằng bài thơ.
Tôi nghĩ thơ có vẻ đang chông chênh, vì cái cũ ngự trị lâu quá chưa được phá vỡ, hoặc không dám phá vỡ. Nhưng hiện tại thơ đang trong tư thế mở. Lớp trẻ tìm tòi và đã thành công. Tôi đề nghị Văn Giá tìm đọc cháu Hoàng Thúy ở Quảng Bình, cũng một hiện tượng lạ, chẳng khác gì Hạnh. Hoàng Thúy viết rất nhiều, hay in ở VNQĐ, Sông Hương, Người Hà Nội. Tôi gửi 10 bài cho Hữu Thỉnh, khi ông đã hoàn tất nhân sự Hội nghị Viết văn trẻ toàn quốc đầu năm 2016. Ông đọc và đánh giá thơ Thúy mới, có nhiều ý tưởng. Hữu Thỉnh đồng ý ngay, đồng thời viết giấy triệu tập ra dự, khi ban tổ chức không thể họp lại nữa. Quay lại thơ Hạnh. Cái mới là vậy, khó đọc, khó hiểu. Người làm thơ, người phê bình và bạn đọc phải biết trân trọng, nâng niu, chứ đạp đổ thì dễ quá. Thí dụ Hạnh viết “Hà Nội em/ môi hồng như vết thương he hé” (Hà Nội). Bởi Hà Nội đẹp rất đáng tự hào mà lắm đau thương. Hình tượng ấy chưa thể có ở thời suy tư của chúng ta.
Không lâu, tôi gặp cái tên mới nữa, Đời Cỏ Dại, cũng trên facebook qua bài thơ “Trong buổi chiều nhảm nhí này”. Liên tiếp những câu thơ làm tôi sững sờ: Từng đám mây lao xuống dòng sông. Tuẫn nạn; Hay: Sau làn áo mỏng, những núm vú buồn/ Níu chút tàn tuổi xuân bằng nhịp thở. Hoặc: Đến những giọt nắng tàn cũng đượm mùi suy tưởng/ Bạn mặc niệm giấc mơ ban trưa. Rồi nữa: Đêm muôn đời như cuốn sách/ Viết về hành trình của nhân loại/ Bạn đọc hoài chẳng hết... Đời Cỏ Dại là ai, người đã viết những câu thơ trên? Đó là Trương Đình Phượng. Phượng trả lời tôi: Cám ơn chú, cháu sinh năm 1984, quê Nghệ An. Công việc chính của cháu, làm nhân viên phục vụ quán cafe. Trương Đình Phượng học cao đẳng Du lịch. Phượng viết theo cảm hứng, ưa gì viết đó, tản văn, truyện ngắn cũng không ngán. Hình như Phượng không có thì giờ để viết, ngày kiếm sống, đêm vật ra viết. Như có người đang hối thúc trong Phượng, mà cũng không ai kiểm soát Phượng. Viết và viết, viết về thời hiện tại Phượng đang đối mặt. Câu thơ “Sau làn áo mỏng, những núm vú buồn” gợi, tạo được thân phận chua xót của người phụ nữ. Tính thơ không gợi sự nhục cảm, trái lại hình ảnh ảm đạm, xót xa, tài hoa hiếm thấy.
Cái gì đối với Phượng cũng rất lạ. Thực tại quanh mình là môi trường cho Phượng “chiêm quan”, chiêm quan về mặt trái cuộc đời.
Tại sao người ta lại đem chôn những giấc mơ
Sáng nay trước khi mùa đông ập đến
Lũ chim còn kịp cất giấu tiếng hót mình
dưới mái hiên
Ngôi nhà cũ kỹ
Như ký hiệu đánh dấu lãnh thổ để quay về
Sau chuyến di cư
Một câu hỏi không thể trả lời, nó cứa vào lòng ta nghiệt ngã cay đắng của thế giới hiện hữu. Con người điềm nhiên không hay biết sự tàn phá của chính bàn tay mình: Nhưng con người lại cứ hả hê/ Trước những con phố dài bị hãm hiếp/ Và họ sợ hãi lấy tay che khi nhìn thấy mặt trời (Sến khúc 1 - Tang lễ)
Hình tượng thơ trùng điệp, nối dài như một bức tranh gam nóng phả vào mặt chúng ta. Và cũng những câu hỏi không để trả lời ấy lại vang lên: Tại sao càng ngày hành tinh này càng nhiều sa mạc/ Sa mạc trên đất liền sa mạc ngoài biển khơi/ Và sa mạc ngay cả trong trái tim mỗi con người (Sến Khúc 4 - Xếp hàng). Văn học từ lâu đã gánh trên vai tính dự báo. Phượng đã rung lên hồi chuông cảnh tỉnh. Một sự cảnh tỉnh vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia. Càng đọc, lòng thẩn thờ, tôi muốn quay mặt đi để khỏi đối diện với những câu thơ rùng mình, buốt lạnh: Những người đàn bà tự lót ổ/ Và tự đỡ đẻ cho mình/ Những đứa trẻ được sinh ra trên nền đất lạnh/ Những đứa trẻ được cắt rốn bằng chiếc răng của mẹ (Sến khúc 11 - Tiếng khóc). Điều gì đã giúp Phượng có cái nhìn nhân văn, tương phản về người đàn bà chửa hoang đầu thế kỷ văn minh 21?
Phượng không có ý niệm thao tác ngôn ngữ. Ngôn ngữ của Phượng chính là để trình bày cái biểu cảm. Thí dụ ở bài Sến khúc 19 - Tự vấn, Phượng viết: Này ngôn từ/ Đã đến lúc chúng ta cởi bỏ/ Những y phục lòe loẹt trên người/ Và khoác vào tấm áo/ Đẫm mồ hôi nước mắt/ Con Người!
Phượng bảo tôi: Cháu không hiểu gì một chút gọi là hiện đại, thủ pháp văn chương... Cháu viết cái quanh mình, như hơi thở, thức ăn nước uống hàng ngày, thiếu nó không thể được chú ạ.
Lớp trẻ hội nhau trước đó và dưới mái nhà facebook bây giờ khá đông: Lãng Thanh (Giải thưởng Hội Nhà văn 2004, đã mất), Lê Vĩnh Tài, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Hoa Níp (Giải thưởng Hội Nhà văn TP. HCM, cũng đã mất), Đời Cỏ Dại (Trương Đình Phượng), Lưu Mêlan, Chiêu Anh Nguyễn, Hoàng Thúy, Chíp Chíp (Hoàng Thụy Anh), Nguyễn Thúy Hạnh... Trong đó, Trương Đình Phượng là con chim đang bay đầu mũi hình chữ V, giữa bầu trời mặc gió mưa, nắng táp. Chúng ta sẽ không hổ thẹn với ai cả. Nhưng chúng ta phải biết tìm vàng trong cát, chắt lọc lấy hạt quý. Coi lớp trẻ non nớt là tâm thái không đáng có. Đọc họ, tôi không lý giải được vì sao họ nhìn cuộc sống tinh tường bằng ngôn ngữ trí tuệ, giàu biểu tượng như vậy? Câu trả lời chỉ có thể là: Thời thế sinh ra thế.
Cuối cùng tôi muốn dành riêng cho Phượng một lời nhắn nhủ chân thành. Chú không hề tâng bốc cháu, Phượng ạ. Tâng để làm gì, nhưng cháu phải nghe chú, mình càng khiêm tốn bao nhiêu ngày mai cao lớn bấy nhiêu, như cháu đã làm và nghĩ hơn mười năm nay. Cháu viết, sống an lành, chăm sức khỏe mẹ cho tốt, bởi bố đã mất. Tôi nhất trí với Phượng cái biểu đạt mà cháu đeo đuổi, như phép mầu nhiệm đầy ma lực của thơ:
Mọi lời hứa
Mọi sự ngợi ca
Rồi sẽ thành vô nghĩa
Chỉ tình yêu chân thành là vĩnh hằng
Bài thơ vĩ đại nhất
Là bài thơ được viết nên bởi những kẻ khốn cùng.
(Sến khúc 14 - Bài thơ vĩ đại).
Nguồn Văn nghệ số 19/2017