LÊ VĂN VỴ, NHÀ BÁO THI SĨ
Nhà thơ Lê Văn Vỵ, ủy viên Hội đồng thơ Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh
Để nhìn thấu tận đáy những khổ đau được mất, nhà thơ như vắt mình đến cạn kiệt tình yêu thương và niềm khao khát. Thơ anh luôn truyền đến người đọc những cảm xúc mạnh, những sẻ chia đắng đót về nhân tình thế thái mà chính anh đã từng nếm trải:
Giá mà ta được khóc
Ta đã nuốt đá, ngậm sỏi, trừng mắt xuyên đêm tối
Cõng con băng qua bãi tha ma
Cả núi đá đè lên lưng, lên ngực.
Ta tru lên như sói rừng hoang
Hát khúc ca lá ngón
Liếm vết thương bằng nước bọt chính mình
Đam mê bước qua nỗi buồn
Sóng thời gian khỏa lấp
Những câu thơ như thác, như sóng nối tiếp nhau nhập vào biển cả ý tưởng mạnh mẽ đến quyết liệt. Nó luôn hối thúc về sự nổ tung, phá vỡ những kìm kẹp bảo thủ bao đời để làm nên cuộc “đảo chính cô đơn” của phận người:
Trời đất mây mưa nổi loạn rồi
Trăng rơi xuống đáy, cỏ lên ngôi
Có người thiếu phụ tim nổi lửa
Đảo chính cô đơn, rạng mặt Người
Với góc nhìn thế sự là mặt mạnh của một nhà báo, Lê Văn Vỵ xuyên chiếu qua chất thơ trong sự hàm súc của ngôn ngữ và cảm xúc. Và anh đã tao dựng được nhiều tứ thơ ấn tượng. Anh “ngồi chống đỡ từng kỷ niệm” mà xót thương cho những bông hồng dập nát trong cơn BÃO. Anh trở lại cánh đồng tuổi thơ gặp “người đàn bà bắt cua đồng” để nhận ra một không gian thanh sạch khi mà hiện tại ngày ngày đang bị nhiễm độc: “Còn tôi loi nhoi đi về phía người đàn bà khấp khởi hiện hình cánh đồng tuổi thơ chưa ngộ độc. Nghe tôm cá lóc bóc trong lòng và lúc nhúc cua béo ngậy ẩn dưới gốc rạ; lăn lóc lưỡi nhủi xé nước. Nghe khai khai mùi bùn, mùi da thịt đất đai đang hồi sinh tôm cua không chỉ cho người đàn bà, cho tôi mà cho cháu con ngàn đời kế tiếp…”. Anh nhìn “hoa bưởi rụng trắng vườn” mà nhận ra điều hiển hiện: “không phải ra hoa là kết quả”. Để rồi trước nhiều nghịch lý của đời sống hỗn độn, anh phải thốt lên chua chát: “Ta chán mớ đời luôn luôn đúng/ Giữa cõi dối gian của kiếp người”. “Chán” ở đây vừa là một thái độ, nhưng cũng là một cách nói của Lê Văn Vỵ nhằm phê phán những gian dối ở đời.
Lê Văn Vỵ gắn bó sâu sắc với thôn quê mà đặc biệt là thôn quê miền trung, một vùng đất nghèo khó. Nhờ thế mà thơ anh thường mang đến những sắc thái lạ trong dòng thơ chung về thôn quê hiện nay với những phát hiện ấm áp tình người:
Hai nhà chung một bờ cây
Bên kia: Mẹ mất; Bên này: Cưới dâu
Bên kia nén lại nỗi đau
Nước mắt lặn xuống đáy sâu tim mình
Bên này tắt nhạc xập xình
Nụ cười lắng lại, ân tình sẻ chia...
Và mang tới nhiều ấn tượng mạnh về cuộc sống giàu vất vả hy sinh của người quê. Bài thơ “Cắt móng chân cho mẹ” là một bài thơ đặc sắc. Chỉ nói về những cái móng chân nhỏ bé của mẹ mà ta thấy hiện lên cả một cuộc đời gian khó, chịu đựng, hy sinh của người mẹ miền trung từ bao đời nay, đó là cái “móng chân số phận” nhắc nhở những đứa con:
Móng: Điếc thời còn bé
Móng: Nứt nẻ trên đồng
Móng: Chiều có, tối không
Thời dân công hỏa tuyến
Móng: Bay vèo theo máu
Khi bom Mỹ sát thương
Móng: Rơi ở dọc đường
Lần cháy nhà cứu nạn
Ôi móng chân số phận
Xa xót những mất còn
Ngay cả khi nghĩ về Ngựa, Lê Văn Vỵ cũng thấy cả những con ngựa của ruộng nương chung sức cùng người vượt qua nghèo khó: “Thời loạn thương ngựa cái / Sinh con ngoài chiến trường/ Thời bình thương kỵ mã/ Nhọc nhằn với ruộng nương”. Và anh xót xa về phận người trong cơn lũ: “Chết chìm cả bãi tha ma/ Đám tang ngày lũ xót xa trên thuyền”. Sự đa cảm của tâm hồn anh khiến người đọc cũng đa cảm theo: “Ta ngồi vá víu mười phương/ Để lành chiếc áo yêu thương cõi Người”…
Một người thơ đa cảm, đa nghĩ, đa sự như Lê Văn Vỵ lại đôi khi bỗng hồn nhiên tươi trẻ trước tình yêu, và những câu thơ của anh bỗng bay bổng phóng túng một cách thơ hiện đại: “Mình thít vào nhau/ Da thịt, xương cốt, hồn vía này/ Thương người/ Buộc chỉ cổ tay”. Và anh như tung tăng hoà vào biển cả của tình yêu trẻ trung, bát ngát:
Biển 14, 15, cát trắng đang rằm, ngực sóng nhu nhú trăng non bí ẩn
Anh áo phao đeo kính viễn vọng, nằm lên rốn biển khám phá ngọc trai và muôn vàn báu vật từ đại dương em dâng hiến
Em mới vừa đầu sóng, đã cuối chân mây, thả tóc xanh thẳm, cười tung bọt nước, chợt ẩn chợt hiện, chợt có chợt không.
Với tâm hồn trẻ trung đó, Lê Văn Vỵ đã đẩy thơ anh sát gần với cảm xúc của thời đại mới. Đúng vậy, người ta không thể làm mới thơ bằng cảm xúc cũ kỹ, mà phải bắt đầu bằng sự đổi mới của tâm hồn. Đó là một tâm hồn hoà nhập với đương thời, hoà nhập với tuổi trẻ - những con người đại diện cho thời đại mới. Chính vì thế mà anh đã tạo ra được những câu thơ hiện đại, nhiều ẩn dụ đa nghĩa như “Trời xanh gặt mẹ khi lúa đang thì con gái bán non”, “Những chú cua tí tẹo đồng tiền giương mắt được lôi từ trong hang ngơ ngác trời xanh bỏ giỏ”, “Hôn vào lưỡi sóng, rúc vào ngực sóng, ôm choàng eo sóng, thả mình trên sóng để được trôi về miên viễn cực lạc”,v.v… Và anh đã có những câu thơ hay thật đáng nhớ: “Đem trải mùi em lên chiếu chăn/ Cho tan đi mùa đông cô độc”, Ta như than cháy lăn xuống biển/ Trời ơi mát lạnh đến thế này/ Ta thả trần gian vào tiên phật/ Tôm cá tang bồng khúc dô... huây”…
Thú thực, trước khi viết những dòng này, tôi chưa được gặp Lê Văn Vỵ. Nhưng khi đọc thơ anh, tôi như thấy anh rất gần gũi, thân quen, như đã từng tâm sự, giãi bày. Đó là một người thơ tưng tửng mà đau đớn, đa cảm mà nghĩa hiệp, cả nghĩ mà quyết đoán, hào phóng mà hàm ơn… Để kết thúc bài viết ngắn này, tôi xin mượn lời anh để nói về anh:
Những vết thương lòng
Lên sẹo đất đai
Cảm ơn Thơ đã chở ta về tuổi thơ lãng quên ở quê mà hồn đau xa xứ
Cảm ơn mẹ mỗi chiều phên liếp chở che…
THƠ LÊ VĂN VỴ
ĐÊM CUỐI NĂM
Đêm mở mắt thao láo
tai nghe những giọt buồn
nổi da gà ớn lạnh
gối hiểu lòng cô đơn
Hạnh phúc có thật không?
đời chỉ là bể khổ
và cả tình yêu nữa
sao chỉ là "dây oan"?
Ta hoang phí thời gian
vào những trò vô bổ?
ta hoang phí nồng nàn
để rồi bao lầm lỡ?
Ta đã quá tham lam?
cho nên đeo đẳng nợ
ta đã quá dại khờ
cho nên lòng tan vỡ?
Có còn chi để nhớ?
sau ngày tháng lòng vòng
có còn chi để gỡ
sau những nụ hôn nồng?
Đêm cuối năm trăn trở
thương tâm hồn long đong
biết về đâu trú ngụ?
đang cháy như than lòng
NHỮNG BÔNG CÚC VÀNG
Hoa cúc vàng
bố đặt lên mộ con những bông cúc vàng
những bông cúc vàng gom từ nắng vàng ngày mặt trời rụng
đêm vầng trăng định mệnh sóng soài trên đất
bố ngả vạt áo lượm những ánh vàng rơi vãi
rồi gieo niềm hy vọng vào đất
đất mọc lên hoa cúc
Hoa cúc vàng
có màu vàng cây thu lá rụng
có leo lét vàng ánh nến trên bàn thờ lãng đãng khói hương
và vàng mắt, vàng da chong mắt nỗi cô đơn
Những bông cúc vàng nở ra từ tiếc nuối, yêu thương
đơm hoa từ nước mắt
chắt ra từ câu thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến
với biệt ly không mùa
Nhưng con ơi!
khi đặt những bông cúc vàng lên mồ con xanh cỏ
bố muốn nhắc nhở
những cơn gió heo may lạnh lẽo đã về
khăn len ở đâu, con nhớ quàng ấm cổ
những cơn đau xoang hành hạ con thật khổ
đêm con ho buốt ngực bố đến tận bây giờ
Những bông cúc vàng hun hút hư vô
PHẬT VỀ
Tìm Phật nào ở đâu xa
ở ngay trong cõi Ta Bà đấy thôi
Phật đâu xa tít trên trời
mà nay độ thế tâm Người từ bi
Bao nhiêu tham vọng sân si
buông tay xả hết là khi Phật về
Nẻo lầm, bến Lạc, bờ Mê
lên thuyền Giác Ngộ đề huề an vui
Ở đâu lửa tắt bếp vùi
ở đâu nước cạn, đất trôi mỡ màng
Ở đâu lắm cảnh cơ hàn
ở đâu máu đổ, dân oan tội tình
Phật về cứu khổ chúng sinh
giang tay bác ái, đức tin lại về
Hương Sơn hòa quyện sơn khê
bến Rồng thanh tịnh Phật về Hoa đăng
Tượng Sơn trăng khuyết lại rằm
gieo lành gặt phúc tháng năm luân hồi
Phật hiện diện khắp muôn nơi
tâm Phật hạnh ngộ tâm người từ bi.
NIỀM TIN
Anh có một Niềm tin
ngày khổ đau. Đá khóc
Anh có một Niềm tin
gian lao và khó nhọc
Sông trong vắt hết mình
sau bão giông, ngầu đục
Niềm tin cỏ lại mọc
sau lửa cháy tàn tro
Trời xanh thắm ngây thơ
sau mây đen u ám
Sau thác ghềnh hoạn nạn
thuyền cập bến bình yên
Sau đổ vỡ ưu phiền
tim nguyên lành trọn vẹn
Anh có một đức tin
vào Tình yêu sức mạnh
Đưa anh từ cõi chết
về sự sống hồi sinh
Ôi Niềm tin! Niềm tin
phải bắt đầu từ mình
Rồi tin yêu người khác
GIẤC MƠ NƯỚC
Tôi như con cá phồng mang, ngoi lên giữa dòng sông
thoi thóp mùi tử khí
thức hay ngủ
mơ hay thực
giấc mơ kinh dị…
Giấc mơ nước
chẳng phải ngày thủy thần quét sạch sành sanh làng mạc, bờ bãi, ruộng đồng trôi sông xuống bể
chẳng phải đêm đen thui, bị cuốn vào thác gầm gừ tan tành thân thể
giấc mơ dòng sông chết
quả báo hiện về, bức tử dòng trong
Khát! khát! khát!
cổ họng há hốc núi lửa đỏ ngòm
bờ bãi, núi rừng, ruộng đồng hóa thành sa mạc
cát
và cát
người- lạc đà hay lạc đà- người
khật khừ bốn chân u bướu
giành giật nhau từng mẩu xương rồng
chút màu xanh sót lại giữa mênh mông
Ôi, những linh hồn sông hóa rắn khổng lồ, phì phì thở đen ngòm miệng cống, quằn quại bên đập ngăn thủy điện, ngập ngụa trong rác thối bao đời, đông cứng lại nhựa đường hắc ín, há hốc mồm chờ giọt nước rơi
Rùng rùng vô tận, vô cùng những binh đoàn thùng, phuy, chum, vò, bình, vại…
trên trời ném xuống
dưới đất phụt lên
bốn phương, tám hướng
hỗn độn
mang mang
hạ bá
ma cụt đầu
châm lửa chiến tranh
những dòng sông máu đổ
khốc liệt hơn cả thời chiến tranh giành giật dầu lửa
Đàn bà, đàn ông, người già, con nít (1) ôm nhau khóc hu hu
những giọt nước mang dáng hình giọt lệ
(1) Con nít: Trẻ con
HÀNG MÃ
Bây giờ hàng mã lên ngôi
tiếc thương giấy điệp một thời vàng son
Mộc bản mối mọt gặm mòn
hứng dừa, cưới chuột* chỉ còn trong mơ
Đồ âm phủ với tiền đô
như cơn lốc cuốn làng Hồ bay theo
…………………
* Hứng dừa: tranh hứng dừa; Cưới chuột: Tranh Đám cưới chuột
NÒI TÌNH
Phải chăng hôn phối trăng sao
chuyện ngoài trái đất ở đâu mịt mù?
Hay là một cõi riêng tư
tao nhân, mặc khách đến từ xứ Yêu?
Rượu liêu xiêu
thơ liêu xiêu
hút hồn người Đẹp
rất nhiều Mộng Mơ....
Nòi Tình
gen trội
ngây thơ
đi mây
về gió
lơ ngơ giữa đời
Nhập đồng
đòi bán cả trời
trái tim mẫn cảm
khóc cười
người dưng
Yêu tới bến mến tận cùng
tửng tưng lạc giữa muôn trùng bến mơ
Men Tình đã rạn chiếu thơ
hồn tom chát đến ơ hờ tóc râu
Chẳng đi đâu
chẳng về đâu
chết rồi
vẫn mãi
yêu nhau
dưới mồ.
HƯƠNG NGÔ
Vỗ cánh trong tôi những chú cào cào ngược gió về đượng ngô*
Chú dế vểnh râu xoay cần ăng ten bắt sóng
Bờ bãi ven sông hiu hiu khói mỏng
Lũ trẻ chăn trâu thùi thụt nướng ngô
Nhem nhẻm thơm hau háu tận bây giờ.
Ký ức ừng ực trong tôi đâu chỉ là những chiều nhóp nhép ch thòm thèm bắp ngô luộc, bát ngô bung mà còn là tai tái xanh nhớt nhát mất mùa, kinh hãi nhìnthủy thần lè lưỡi khổng lồ liếm bờ bãi, nuốt vào ruột sông mùa màng hoa trái…
Cha tôi lên rừng mắc mưa gặp lũ
mẹ khắc khoải bồn chồn nhìn phía rừng xa
nghiêng chum vét những nắm ngô còn sót lại
đâm giã dần sàng quấy loãng chia đều cho chúng tôi
những đứa con thơ dại mắt hõm rốn lồi đói khát kinh niên
Chúng tôi đã đi dọc bờ sông triền bãi, xanh theo lúa, lớn theo ngô, khi tóc bạc râu ngô mới ngộ ra điều bất ngờ là hoa ngô thơm nao lòng, ban tặng cho chúng tôi, những đứa con nhà nông, những ban mai trong lành, những trưa nắng thơm nồng, những đêm an lạc thơm miên man ngọt ngào lăn tròn như chó con quây ổ trên nền nhà thiêm thiếp ngủ.
Gió đưa hương ngô gội vào tóc tai ướp lên da thịt.
Tôi chìm đắm trong hương đồng để tận hưởng khoái lạc của làng quê
Cho tôi nguồn sinh lực tràn trề
Để đi qua những tháng năm gian lao, khó nhọc
Bây giờ, trời ơi, làm sao tôi giữ được
Cho cháu con ngàn đời thân thuộc
Những cánh đồng những bờ bãi ven sông
Những nương ngô thơm đến nao lòng?
……………………
*đượng:bãi
LÀNG CÙ LẦN
Bỏ nơi phố thị phồn hoa
ngược đời, ngược lối, rừng xa tìm về
Dừng chân heo hút sơn khê
với thông xanh, với bốn bề cỏ hoa
Thiên nhiên hoang dã là nhà
giường cây, nệm cỏ suối ca nhạc rừng
Gió nguyên thủy, trăng rưng rưng
bướm ong dìu dặt, tưng bừng hân hoan
Bàn tay gieo Giấc mơ Vàng
ươm cây, dắt suối dựng làng từ đây
Bắc cầu gỗ rẽ vào mây
mở con đường đến Bồng Lai diệu huyền
Viết huyền thoại giữa thiên nhiên
thả vầng trăng sáng giữa miền thung xa
Phải tình yêu bản tình ca
cháy lên ngọn lửa sáng lòa yêu tin?
Dấn thân cùng tận ý mình
lập làng dâng tặng người tình trăm năm
Cù Lần người gọi tên chàng
ghi ơn công đức tên làng từ đây
Làng mơ mộng trong thung mây
không đau ngọn cỏ nhành cây bao giờ
Làng như thực, làng như mơ
vẫn còn hoang dã nguyên sơ thuở nào
NGÔI NHÀ MÙA THU
Ngôi nhà mùa thu lợp bằng ánh trăng
ánh trăng vàng mười sáu
ngôi nhà lợp bằng gió heo may
gió heo may mang về hương ổi
nồng nàn hương bưởi
đánh thức ký ức tuổi thơ ngủ vùi sau tán lá
là tiếng chim gù
là tiếng lich tích của bầy sẻ nâu nhặt cọng rơm lót ổ
bầu trời trong vắt qua cửa sổ
em đã sống những tháng ngày vô tư
Ngôi nhà mùa thu
nằm giữa trung tâm nhưng khuất nẻo thị thành
hàng xóm là bác xích lô, anh thợ khóa
là chị bán hàng rau, mớ cá
những người lao động cần lao
Ngôi nhà thức dậy bởi tiếng máy cưa
ngủ vùi sau một ngày vất vả
ngôi nhà của người đàn bà vắng bóng đàn ông
thiếu mùi rượu bia
không cằn nhằn cãi vã
những bữa cơm giản đơn không tôm cá
những chăn mền thiếu hơi ấm đàn ông
Em đã ngủ quên trong những mùa đông
liệm kín niêm phong khát vọng đáy lòng
đi qua mùa xuân rực rỡ sắc màu hương hoa ngây ngất
đi qua mùa hè nồng nàn rót mật
đi qua cám dỗ ái ân của Trời và Đất
đi qua những trận bão cuồng phong
ma Qủy đội lốt những chàng trai ngoan hiền vạm vỡ chân thật
đi qua nõn nà chính mình
để đến được Tình yêu
Ngôi nhà mùa thu bé nhỏ như tổ chim
mỏng manh hơi thở của em
Anh đã bình yên trong ngôi nhà mùa thu
đọc sách
lắng nghe trái tim mình thổn thức
anh đã ở trong ngôi nhà mùa thu
uống ly rượu nồng nàn
ăn bát cơm từ tay em đơm còn bốc khói
và ánh mắt nhìn của trời thu trong leo lẻo
và ngát hương hoa
hương đêm
hương thu
hương em
tận cùng dâng hiến
tan thành hơi thu
sương khói đất trời...
NGƯỜI ĐÀN BÀ XAY LÚA
Đêm đông bốc hỏa
nỗi nhớ chồng xa
người đàn bà xõa
bỏ thóc vào xay
Xay rớt hoàng hôn
cối chày năm tháng
xay bay tro trấu
khát thèm lãng mạn
Xay cái sự đời
rưng rức thịt da
xay đêm vụn cám
xay ngày vỡ òa
Xay rã thớt trên
nghiến mòn thớt dưới
xay cho gạo tới
trinh trắng đàn bà
XIN EM NHỐT LẠI THỊT DA
Lãng đãng gần
lãng đãng xa
Ô hay nguyệt quế
trước nhà
thả hương
Nõn nà
em
những khác thường
Chao ôi, chăn gối
ghét
thương
nồng nàn
Gào lên hỡi chú mèo hoang
tru lên con sói đại ngàn rừng xanh
Đêm hôm thức giấc
trong anh
Nhe răng, giơ vuốt
tanh bành
xác hoa
Xin em nhốt lại thịt da
đừng đem nhử trước hiên nhà tội anh.