CHÙM TRUYỆN NGẮN DỰ THI “LÀNG VIỆT THỜI HỘI NHẬP”
Truyện dự thi: Biến đổi khí hậu
Trần Chiến
Chỗ làm việc vốn là cái hội trường, giờ ngăn ra thành các cabin với bàn tủ, máy tính, ghế lăn. Dù nội quy bảo đi nhẹ, nói khẽ, vui không hô hố, bực đừng văng tục, nhưng vẫn giống cái chợ. Cho nên sáng nào ngồi vào “hang” của mình, Ngôn cũng sướng âm ỉ. Được riêng tư hơn đã đành, càng sướng khi cảm giác an ổn bò lại rất chậm, chỉ chục ngày sau khi gã đã “chấp nhận số phận”.
Trung tâm Tư vấn - Giám sát dự án của Ngôn và phòng Tư vấn - Giám sát dự án cùng một viện, tên tuổi suýt soát, nhiệm vụ ghi trên hồ sơ y như đúc, nhưng cáng đáng những chức năng xa nhau thăm thẳm. Phòng khai sinh trước, sếp viện, vì nợ quan hệ trên đường tiến thủ, phải nhận tinh người đâu đó gửi gắm, gọi là “vườn trẻ”. Cái giống được chăm bẵm, không thạc sĩ tâm lý cũng tiến sĩ ngôn ngữ, đâm lợi khẩu mà cớm ròn, dễ gãy.
Thế là trung tâm tòi ra, rặt kỹ sư nhưng miệng nói tay làm chân chạy rất thiện chiến. Từ cấp Nhà nước, bộ đến tổng cục, dự án rơi xuống, tới tấp và đủ loại, phải có người nhòm thầu, theo dõi thi công, tăm tia ra cái gì không can ngăn được thì huýt còi, lập biên bản... Chả đã có ca dao phản động 'bên Bê là chùm khế ngọt, bên A trèo hái suốt đời' là gì, vắng tay đứng giữa cảnh giác cách mạng thì thuế dân vẫy vùng vào túi riêng ngay ấy chứ. Thời buổi toàn dân làm kinh tế, cánh thi công lại quả chủ đầu tư thường “khiêm tốn”, chẳng rượu tây tranh đẹp mà chỉ phong bì “nói ít hiểu nhiều”.
Nhưng cuộc đời đâu chỉ A và Bê. Vô số Xê đứng giữa, chập chờn đánh võng, thoắt ẩn thoắt hiện đúng lúc đúng chỗ. Tư vấn giám sát nằm trong đó, ngày trời đẹp mà họ không “vui” thì đừng nghĩ đến nghiệm thu công trình, tỷ tỷ đã nuốt mắc trong họng hóa ung thư. Bởi thế hôm ra mắt, sếp lớn bé cỡ nào cũng giao nhiệm vụ “Các đồng chí là tai mắt của lãnh đạo, giúp ngân sách khỏi thất thoát, giữ lòng dân khỏi mất lòng tin”.
Chuyện, bên ta người thực việc thực, còn “vườn trẻ” chỉ lo êm ấm cho hậu phương người chuyên công to việc lớn. Chục mống trẻ đẹp sang trọng ấy nếu lấy thời gian làm lãi, cần cù dưỡng lão đều đều lên lương, mười lăm năm cầm chắc cái chuyên viên. Còn bên này phải tác chiến tận nơi, mắt cú diều soi từ thanh sắt móng đến núi đất đào lên đáng bao khối, mũi đánh hơi ra mùi lạ là hạch hỏi. Bèn được gọi là “trung tâm Vấn Sát”, hỏi trước giết sau hay giết trước hỏi sau rất tùy vào “hoàn cảnh”. Dự án thì trên trời đã định rồi, bao nhiêu gỉ gì gi mới được từng nấy chữ ký thông qua, xuống đến đây khảo đả dã man hay khoan dung nhân đạo, thuộc cấp phải nhìn ra những luồng lạch chả bao giờ có hình thù, để mà khả dĩ tồn tại.
Hơn nữa, là mới được miếng. Trung tâm tự dưng chia đôi trận tuyến, hai phó cầm đầu. Mỗi bên lại tụm lại thành khối trong phòng lớn, gọi “thầm” là “tay phải” “tay trái”. Sếp cả, luôn luôn bay lượn trên cùng, phương hướng chả biết đằng nào mà lần, phân phối những đường chuyền có thể ghi bàn ngoạn mục hoặc bị vặn lưng để “bóng” trôi mất rồi cắn răng nghe chửi. Dự án cỡ nghìn tỷ, kỹ sư giám sát chả cần bặm môi trợn mắt, chỉ “nghía” và đánh rơi những lửng lơ: “Khối lượng san nền lớn quá phải đo đạc cẩn trọng”. “Chúng ta thống nhất nguyên tắc làm việc là nghiêm túc nhá, tình riêng gác lại đừng trách tôi giám sát chi li”. Thế thôi, đủ để “khế ngọt”, thi thoảng cả bên “trèo hái” nữa - khắc “lễ độ”. Khoản lại quả bao giờ cũng bí mật nhưng ăn chia rất có nguyên tắc: Kỹ sư nộp cả cho sếp phó trực tiếp, nhận lại phần mình, còn lại “lên” đến đâu, theo kiểu cách nào thì đừng thắc mắc. Vả, người làm trực tiếp, tại hiện trường đầy gian khổ cũng chả đi đâu mà thiệt. “Bên em rất quý anh, tác phong sâu sát lắm, mời anh chị đi du lịch một chuyến”. Được quá đi chứ, chú, dù là Bê phẩy phẩy, có lòng sao anh phụ được.
Lại không ít xương xẩu, gọi là “hẻo”, đều rơi vào những dự án mang tên sang trọng. Đề tài khoa học “Tính toán tối ưu để mở tuyến giao thông”, hội thảo quốc tế “Về sự khác biệt (thực ra là vênh nhau) giữa quy hoạch và thực tiễn”... bay lượn trên truyền hình rất chi hoành tráng nhưng chỉ vài trăm triệu. Bao giờ cũng là một nhóm giảng viên tiến sĩ làm, miếng đến miệng chả còn là mấy, mà cách lũ trí thức lại quả mới ngạo mạn chứ. Nên chỉ được phân loại “bóng” này, “phải” “trái” phải biết đường lật cánh ngay. Mỗi lần có đợt dự án bổ về là một đại chiến, hai sếp phó chỉ huy nhóm mình mưu mô, chạy đi chạy lại phần phật. Trung tâm như con tàu trong cơn biển động, sếp cả ngồi cabin lái cười hiền hậu.
* * *
Ngôn, chả biết may hay chó cắn áo rách, chả thuộc phe nào. Lớn đầu vào loại nhất trung tâm nhưng kém hẳn đường khôn, gã cứ đơ đơ, “điếc” đặc khi có chiến sự. Sếp thượng đỉnh, cấp trung gian đã đành, các sếp trực tiếp chả mong gì được gã thăm viếng dịp tết nhất, sinh nhật. “Đến nụ cười nó còn tiếc”, có câu mát mẻ vậy. Mà “cơ sở” cũng đến là thính, với gã giám sát chỉ biết có nguyên tắc này đều bỏ qua, chạy phát đến cửa cần thiết. Được cái Ngôn rất biết phận, ra mù với điếc hẳn khi họ “quên” mất mình, có “lễ độ” cũng rất gọi là.
Dầu gì, Ngôn có vai trò của mình. Chuyên môn đủ mạnh để nhìn ra khuất tất, thường hiện lên dưới dạng “non kém”, đặng “người liên quan” biết đường tránh. Gọi ra những khoản chi quá vô lý dễ đưa ai đó vào lao lý, rồi dừng lại không đọc vị. Dù vậy, gã chỉ được chia những dự án đã nát bét ra rồi, kiểu bọn báo chí đánh hơi có mùi, cần thằng tư vấn có bản mặt “tin được”. Khôn sống mống chết, đến giờ gã chưa chết là phải có miếng. Chúa nào cũng thế, ngoài nịnh cũng cần trung chứ, gai mắt nhưng bỏ nó đi thì giang sơn vững bền thế nào. Như vài tên “chẳng trái đéo phải”, Ngôn không được chọn chỗ trong “thuyền”. Cabin gã ngồi khuất nẻo, xa hẳn điều hòa tổng, nóng hay lạnh quá là lãnh đủ. Ban đầu gã căm hờn sự biến đổi khí hậu trên Trái đất, dần lại thích: Yên tĩnh, xa hẳn chiến sự, đỡ thị phi. Chả trách Tôn đại thánh khi bị nhốt vào lò bát quái đã chọn cung Tốn, ngập ngụa khói đỏ cả mắt nhưng đỡ hẳn xì-chét.
Tuần trước, nhân viên mới về, tên Mai, mắt mũi trong veo hồn nhiên như cô tiên, khai mới ra trường xin các anh chị chỉ bảo. “Thế em con ai trên ấy, hay được ông nào giúp?”, thì: “Bố em nông dân trên Thái, nhà còn mấy sào chè các cụ muốn giao nhưng em bảo con chịu thôi”. “Nông dân như em thì đi Mẹc hay Bi (1)?”. “Em Uây-tầu (2) ạ. Trên em có nhà cưỡi E-bờ-lết (3) đi lĩnh tiêu chuẩn hộ nghèo đấy”. Những đối đáp ngộ nghĩnh biến cô gái thành Mai “ngơ”, để phân biệt với Mai “ba sáu”, đặt theo biển số xe tỉnh quê nhà. “Ngơ đáng phải sang “vườn trẻ” chứ”. Lại có người bảo “Khôn dóc tổ, giả chết bắt quạ đấy”. Kinh nhất là câu “Biết đâu vừa tốt nghiệp trường công an đi giám sát bọn giám sát”. Chung cuộc, sếp cả và hai sếp phó nhất trí xếp Mai vào phe lơ lửng con cá vàng, ngồi gần Ngôn. Đơ đơ chung chiến tuyến với non tơ, chả biết bao lâu và có hợp nhưng tha hồ chơi game và rì rầm “buôn” những giời ơi đất hỡi.
* * *
Sáng nay oi bức, lại thêm độ ẩm cao (đài bảo thế), ai ai đều nhơm nhớp. Điều hòa tổng chạy hết mức mà phòng lớn dễ tới trăm độ. Không khí đầy điện đụng nhẹ có khi tóe lả. Có con cá lớn rơi xuống, dự án khu tái định cư thủy điện ở Miên Du, riêng phần nền móng, đường sá..., gọi là “hạ tầng” đã cả trăm tỷ. “Trái” hay “phải”, phe nào được làm, ngoài phần cúng lễ lên trên, còn lại chia nhau là có thể tổng kết “thầm” thu nhập bằng 200% so cùng kỳ năm ngoái rồi. Chiều thì họp toàn trung tâm để quyết định việc ấy, nên khí hậu càng quay quắt, xộc mùi binh đao.
“Lân ai trực nhật, ấm chén còn bã thế này?”. “Con Mai ạ”. “Đứa nào kho cá đây, không nhận tao vứt toa-lét”. “Mai “ba sáu” hay Mai “ngơ”?”. “Ơ sao lại em. Con kia mới về phải làm chứ”. “Thôi thôi để tôi đem ra chỗ hút thuốc”. “Mai “ngơ” nó ngồi trong góc điếc rồi, mày ra mà bảo”.
Mai “ngơ” giờ mới đến, chả biết đường nhận lỗi còn toe toe “Đường kinh quá, chỗ gì tắc như lùa cả đàn trâu qua”. Lúc sau, cả căn phòng lan tỏa mùi chua thanh thanh, rất nhẹ nhưng đủ để dìu dịu nước dãi. Bàn to ở giữa có bịch nylon lớn hở miệng, “phó” của phó “phải” đến nhòm nhòm ngửi ngửi. “Quả gì đây, của đứa nào?”, truy một lúc thì Mai chạy ra nhận. “Cái gì cơ, quả chay á, tên quái gì tao chưa biết nhỉ”. Đến khi đống quả tãi ra thì cả chục người quây lại. Xanh vàng lốm đốm, có chỗ hồng ưng ửng, mắt mấu lồi lõm bóp nhẹ đã vỡ, ruột phơi ra trong trong nhìn thấy hột, tỏa mùi càng mạnh. “Ô, cả chùm này, có lá nhá, để thắp hương”. “Nhưng biết ăn được không mà mời các cụ”. Rút cục thì các cụ được ăn. Phòng điều hòa khói nghi ngút, “trái” “phải” - hai phó đứng ngang hàng, nghiêm trang khấn như đội vệ binh danh dự. Chắc chắn rồi, bên nào cũng xin được làm, “cá” chỉ mỗi, các cụ xơi khéo hóc hạt chay. Biết vậy mà đố đứa nào dám cười, xong cùng phớ lớ hưởng lộc.
“Eo ôi nó có lông lại mọc bướu ghê ghê là”. “Nhưng mà ăn được đấy, đây quả này ưng ửng như má em là ngọt lên rồi”. “Ừ chua chua thanh thanh nhưng lại có hột”. “Thế nhè ra đây”... Một đôi câu nhau được dịp đây nũng nịu đấy dỗ dành.
“Chay tê-e-rờ hay xê-hát nhỉ? Mà chả biết cây với hoa thế nào”. Mai “ba sáu”, vốn bên “trái”, thắc mắc, liền được sếp “phải” thân thiện bài thực vật học: “Cây này giờ ít người biết chứ trước đây ối, sau nhà tớ mọc cả đồi. Cao đến 10m, bóng rậm mà to. Hoa ra tháng mấy không nhớ, quả mới đầu xanh rồi sang vàng vàng đo đỏ, nấu canh chua rất mát. Bà tớ hay ngâm nước gạo, phơi khô rồi thái lát ăn dần. Nhưng cái tác dụng nổi tiếng nhất của chay, khéo đây chỉ có bố này biết”. Sếp “trái” bị chuyền “quả đểu” không chút lúng túng: “Dào, vỏ cây để ăn trầu, trầu cau trầu vỏ ấy. Ngoài chợ thường bán từng khúc rễ chay, không có thì rễ chạch, cả quế nữa, các cụ mua về, thêm miếng cau, tý thuốc lào, vôi tôi, lấy cái lá trầu không gói lại, gọi là têm, ngày đông nhai nóng sực cả người, thế đúng chưa cụ?”. Lạ chưa, hai đầu chiến tuyến trước giờ nổ súng lại tung hứng tưng bừng, khéo hòa hợp hòa giải dân tộc rồi ôm nhau chùn chụt được.
Nhưng “quần chúng” vô tư chả để ý đến sự tình này, dẫn câu chuyện sang những nẻo tít tắp. “Thế môi ăn giầu cắn chỉ là thế nào?”. “Các cụ nhà sang thì có cái ống nhổ đồng, để trong xó vẫn hôi, không thì cứ bạ đâu nhổ đó, quết đỏ hoen hoét như đàn bà có tháng”. Thơ ca cũng được lôi ra “Thản nhiên chị vứt bã trầu, thản nhiên em nhặt bã trầu lên ăn”, cho thấy đời sống tinh thần phong phú nhường nào. Rồi dào dạt hoài niệm về cội nguồn, các cụ sống đơn giản, chân phác thế mới là sống chứ, đâu như ta bị dốt trong nhà bêtông, đi làm hít khói bẩn, đến cơ quan nào được thở không khí tươi.
“Trung tâm mình thương nhớ đồng quê vui ghê. Chả mấy khi. Đi ăn cơm niêu đập nhá, chạch đang mùa béo, kho tiêu” - một giọng nữ vút lên. Hưởng ứng nhất loạt. Người khác bổ sung nhưng mà “căm-pu-chia” hoặc “lệ quyên” đấy, nghĩa là giả tiền đều để khỏi nợ nhau mà còn có những lần sau. Nhất trí cao vòi vọi. Sáng kiến này đáng nhận Nô-ben hòa bình, dù hòa bình giờ cơm trưa thôi. Các cô chạy vội vào toa-lét, lúc ra sột soạt, thơm phức. Phó “trái” và “phải” không nhìn nhau nhưng đều nghiến răng thế này là phù thủy không trị được âm binh rồi.
* * *
Ngôn không đi. Chả thích cái vui này, không đến nỗi giả tạo quá nhưng không thể hết mình trước cuộc sát phạt. Chiều nay, mở đầu thể nào sếp cả, có thể là cả của cả, sẽ ca nửa tiếng về mục đích ý nghĩa công trình ở Miên Du. Cái tên lãng mạn thế này là hứa hẹn lắm. Là một bước tiến lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa cho nước nhà. Đồng bào các dân tộc ở đây rất tốt, trong chiến tranh đã đùm bọc một chiến khu giờ lại sẵn sàng hy sinh nơi cư trú cho con hồ sắp lên, đóng góp vào dòng điện của tổ quốc. Và thế cho nên..., do đó mà...
Rồi “trái” sẽ bảo “phải” có kinh nghiệm gì về công trình miền núi đâu. Chiều ngược lại: “Thì các anh tính cái thủy điện kia giỏi quá giờ mùa lũ không có nước chạy tua-bin”. Nhưng gì thì gì “cầu dao tổng” chưa phát nổ. Sẽ có “diễn biến hòa bình”, hai phe thăm hỏi sức khỏe các cấp tại nhà, chạm nhau chưa biết chừng. Dân xứ ta ham công tiếc việc là thường, nhưng điều này chả thấy ghi trong truyền thống bao giờ: Cứ phải xin việc trong âm thầm, lấy bí mật làm chìa khóa thành công.
Đi lấy nước sạch chỗ máy lọc cuối phòng, Ngôn thấy còn người nữa. “Ơ Mai không đi à. Ăn chung vui thế kìa...”. Cô gái hết sức lúng túng, miếng nhai như nghẹn lại, một lúc mới “Em chả có tiền. “Cam-pu-chia” nhỡ ra có ai gọi bia hay thêm món”.
- Tưởng gì. Lệ là ai gọi thêm nấy giả. Mà không có túi chay của em thì lấy đâu ra cuộc vui này.
- Thực ra..., mới lại..., em ngại thế nào. Em biết đùa đâu, nhỡ đang ăn lại bị tương “Mai “ngơ”. Không phải chỗ của mình.
Ngôn sững lại. Chả “ngơ” tý nào. Nhạy cảm là đằng khác. Ơ hay tự nhiên chảy nước mắt là sao, cô này...
“Nhà em chính ở Miên Du, đúng vùng di dời thủy điện. Chả ai muốn đi đâu nhưng tỉnh, huyện, xã rồi đủ mọi đoàn thể xúm vào. Cái khu tái định cư, nơi trung tâm mình sắp làm tư vấn ấy, chả biết sẽ đẹp đẽ thế nào, nhưng làm gì có nước. Đồi trọc lóc cây bụi không lên nổi mà họ bảo trồng cây lúa thì tuyệt vời. Bố em đi tiền trạm phát biểu các anh xây thử cái bể trên đầu thôn mới nếu có nước thì tôi làm con chó ăn cứt, xong mất luôn đảng viên với trưởng thôn”.
“Làng giờ như tổ kiến bị dội nước. Có tiền đền bù, xây nhà mua xe đấy nhưng hút hít với xuống phố làm cave nhiều lắm. Vẫn phải giữ ruộng chỗ cũ, về chỗ mới làm gì ra cái ăn. Cây chay này lớn lắm, em đi về từ xa đã nhìn thấy, bố bảo mộ ông bà còn phải bỏ, thì tiếc mà làm gì, nhưng mang ít quả đi cho các anh chị trong phòng nếm chơi chơi”.
“Ối ối em nói gì thế này. Anh bỏ qua đừng phô ai kẻo em thành con phá hoại rồi mất việc em gái em phải xuống phố trăm lậy, nghìn lậy anh”. Đoạn cuối bỗng diễn ra như phim sến khiến Ngôn bỏ đi. Vẫn phải quay lại: “Em cứ yên tâm, anh nói ra nó cũng thành chuyện bịa. Chuyện người ta sắp bịa ra mới là thực kìa”. Đằng sau gã, Mai rũ ra như con chim ướt cánh, sinh mệnh thế mà lại có thể mỏng manh nhỉ. Đằng sau nữa rộn ràng cười nói. “Ăn trưa đại đoàn kết” đã thành công. Chiều giương cung bạt kiếm, Ngôn sẽ im phắc ra điều nhất trí cao như mọi cuộc, hay là làm gì hay là chẳng làm gì?
Truyện dự thi: Vòng tay của biển
Nguyễn Văn Thọ
Hơn 40 năm, hắn mới quay lại Phú Yên. Khi máy bay hạ cánh, hành khách đều rảo chân xuống thang, ùa vào nhà ga trốn nắng, hắn, một mình đứng lại giữa đường băng chói chang nắng tháng 5, bàng hoàng nhận ra, vẫn cái tháp nước cũ kỹ năm xưa nổi lên trên triền cát trắng.
Trừ cái nhà ga cao to lộng lẫy mới xây, lối ra vào chỉnh chu vừa đủ cho sân bay nội địa một tỉnh, còn đường băng và tháp nước không thay đổi. Hắn bất giác di chân trên đường băng cứng, muốn tìm lại cảm giác của lần thứ nhất đến nơi đây, khi hắn cùng đồng đội truy kích địch từ Cheo Reo xuống Tuy Hoà. Hơi nóng tháng 5 hầm hập. Những hạt cát cứng và trắng kêu lạo xạo dưới gót giày làm hắn trào lên xúc động. Cô tiếp viên trẻ trung người Phú Yên trên máy bay chẳng đã nói với hắn rằng: “Con lộ Bẩy bây giờ đổi tên thành đường Hai Nhăm rồi, nhưng chú vẫn có thể nhận ra vì nó không thay đổi nhiều”.
Còn cái xóm nghèo ven biển hắn và bạn hắn từng nghỉ lại trong chuyến đi phép sau giải phóng liệu có tìm thấy không? Vâng, cái xóm nghèo tên Lương, hơn dăm chục nóc nhà ấy trên doi cát nằm kề biển. Hắn quay ra cửa sân bay. Quanh sân bay cơ man hoa giấy. Trong ánh sáng chói chang, những trảng hoa lớn rực rỡ một mầu hồng phấn khích. Hồng là Hường. Ừ, tên cô gái ấy là Hường. Bất giác hắn nhớ tới khuôn mặt đẹp và mớ tóc đen như mun của cô.
* * *
Tháng 9 năm 1975.
Mưa bão miền Nam Trung Bộ về dữ hơn mọi năm. Đoàn xe đò đưa những người lính đi phép đầu tiên sau cuộc chiến dằng dặc vừa qua đèo, vào đến Tuy Hoà thì không thể chạy được nữa. Nước từ đâu giội về cuộn sôi lên, tứ bề như biển. Binh trạm buộc phải sơ tán bộ đội rời xe đò vào trú quanh vài xóm cồn. 5 sĩ quan Hà Nội được phiên chế thành một tổ, về một xóm nhỏ. “Các đồng chí Dương, Long, Quân... về nhà ông Ba Sự” - cán bộ binh trạm gọi tên.
Nhà cho 5 người lính trú là ba gian cũ kỹ, chia ra bằng mấy hàng cột gỗ mầu nâu sẫm, bốn phía xây tường gạch. Gian giữa rộng thênh thang đặt ban thờ gia tiên bằng gỗ cũ kỹ. Kế hai bên có hai cái phản gỗ màu đen thẫm. Giữa nhà có cái bàn uống nước, bụi mờ trên mặt bàn, chừng lâu chẳng có ai ngồi.
Chủ nhà ra đón cửa là người đàn ông già. Anh lính giao liên giới thiệu, ông tên là Ba Sự.
Ba Sự hơn sáu chục, tóc bạc lởm chởm, người gầy sắt, sạm đen như khúc cây bần táp qua lửa, lại chỉ có một mắt. Mắt bên kia bị một vết chém kéo từ trán xuống, để lại một hốc sâu đen ngòm. Chủ nhà chân cà nhắc ra ngõ đón 5 anh bộ đội giải phóng, chỉ cho họ hai cái phản để khách nghỉ, rồi lại im lặng ngồi vào góc phòng, trên cái ghế ngựa dài.
Mới giải phóng, bom đạn triền miên khắp nơi nên cả thị xã vẫn không có điện. Cái đèn dầu lạp leo lét cháy trên ban thờ không đủ toả sáng. Ba Sự ngồi như hoà vào bóng tối. Bóng đen không nói một lời, chả thèm quan sát khách lính quét nhà, lau bàn ghế, dọn phản, quét mảnh vườn có ba cái lu nước nằm bên gốc cau và một cây lêkima cạnh hàng dừa đang trĩu trịt trái, ngọn đu đưa trong gió biển thổi vào. Con mắt còn lại của người đàn ông, ai đi ngang qua thấy nó vô hồn, như đang tìm gì ở cõi vô định!
Nắng xói vào nhà, vọng từ sân tiếng quét ràn rạt. Chủ nhà xuất hiện ngay ở hàng xương rồng trước cửa nói vóng ra:
- Kệ đó. Các chú không biết quét đâu. Vườn cát không quét như sân gạch. Để em về nó dọn - Nói rồi ông già lại chìm thỏm trong ngôi nhà trống chếnh.
Đúng khi ấy một cô gái dáng rất thon thả, ngực đầy đặn căng tràn sức trẻ, xuất hiện ở cửa ngõ đi nhanh vào nhà. Đôi quang gánh với hai thúng sơn tòng teng trên vai. Mớ tóc đen như mun buộc tó, nổi rõ cái gáy cao, nền bờ da trắng hồng. Trên đầu cài cái lược ngà ánh lên trong nắng. Khuôn mặt trái xoan hồng hào như trăng vẽ, lộ đôi mắt đen huyền lấp lánh tự tin. Chừng hơi ngạc nhiên nhìn người lạ ở đâu nhiều thế đến ở nhà mình, đôi môi trái tim hồng chúm chím cất tiếng:
- Chào các ông giải phóng! - Cô gái vào nhà, bưng cái rổ rau theo, chắc là thức ăn mua chợ về rồi nhanh nhẹn cất quang gánh ra hàng hiên, khuất xuống gian bếp kề nhà. Lát sau vọng ra tiếng hai cha con chủ nhà nói chuyện. Tiếng địa phương nặng trịch lại quá nhỏ nên đám lính không hề biết họ nói gì.
Long, hắn, người Hà Nội, dân phố Huế, nhanh nhẹn bấm tay người lính tên Dương, đẹp trai nhất tốp, mắt sáng lên:
- Ẻm! Trời, mày thấy không, Tiên nữ miệt vườn!
Dương bạn hắn, 27 tuổi, người ngõ phố Hai Bà Trưng, mũi cao. Bao năm lính chiến mà khuôn mặt anh ta vẫn nom như học sinh, có cái miệng với đôi môi rất nét, nhìn đứa bạn cùng trạc lứa, nói bâng quơ:
- Mắt cú vọ nhỉ. Mỡ đấy, húp đi!...
- Trời đất. Mày nhìn xem cánh tay ẻm đẹp chưa? Như ngọc ngà thế kia mà choàng ôm lấy mình nhỉ?
Người sĩ quan thứ ba tên Quân, cứng tuổi nhất bọn, bước vào nhà nói với cô gái:
- Năm anh em chúng tôi nghỉ lại nhà tránh lụt, nhờ gia đình vài hôm. Tôi tên là Quân. Nói đến đấy, người lính chìa tay ra định bắt tay cô gái như một thói quen bấy nay. Cô gái không đưa tay ra bắt: “Dạ, em tên Hường”. Cô không nhìn Quân, rồi đi ngay xuống bếp.
* * *
Một ngày, hai ngày trôi qua mà nước vẫn không rút. Nước từ đâu vẫn đổ về ngầu bọt như muốn ngập phăng cả thành phố Tuy Hoà nhỏ bé.
Xóm nằm gẫn bãi cát ven biển, khoảng cách sấp xỉ bảy tám chục mét. Nằm trong nhà nghe rõ tiếng ì oằm biển thở. Tiếng sóng vỗ êm êm rì rào, đều đều như nhịp hát, như ai nói, nhưng có lúc về đêm, tiếng sóng vỗ vào bờ nghe nặng nhọc, có khi tựa như tiếng nghẹn thở của kẻ đang đau đớn, dội lên từng đợt, âm âm khào khào, khan đục, vang vào cái xóm nhỏ năm bảy chục nóc nhà ngư dân và nông dân.
Bao nhiêu năm chiến đấu trong rừng, nay vừa được về phép thăm nhà, lại nằm ứ cả ở nơi đây, đêm đêm nghe sóng biển thật não nề, ai nấy lòng thêm như lửa đốt.
Mọi sự trên cái xóm nhỏ ấy vẫn diễn ra như không có trận lụt xảy ra. Ông chủ nhà và cô gái trẻ ngày ngày vẫn dậy từ 3 giờ. Hình như mặt trời ở đây mọc sớm hơn. Cô gái rời nhà khi ông bố từ chái nhà ra ngồi thu lu trong cái ghế ở góc nhà, người vẫn như hoà vào bóng tối. Đôi mắt duy nhất của ông thi thoảng loé sáng để người ta nhận biết nơi đó còn có một sinh linh. Và rồi những người lính ở tạm cũng biết cô gái không phải là con gái ông chủ nhà. Cô Hường là con dâu. Sớm sớm cô đi đón cá trên bến rồi đem bán lẻ trên một cái chợ xép ngay đầu lộ Một.
Mấy người lính đã sốt ruột, lại khi lũ lụt nên bữa ăn thức uống chẳng ra gì. Ngày ngày trạm giao liên nấu cho họ ba bữa cơm, quanh đi quẩn lại là nồi canh tanh ngòm và mấy con cá vụn, mắm ruốc chưng lơ phơ mấy sợi thịt hộp. Bữa ăn đạm bạc như thời chống Mỹ, hoàn toàn không có rau dưa. Tuy nhiên, mỗi khi lĩnh cơm về, Quân - anh lính già nhất bọn đều đon đả mời chủ nhà Ba Sự ra xơi cơm đúng theo phong tục ngoài Bắc. Ba Sự dỏng tai nghe, thoáng nhìn, vẫn ngồi như trời trồng ở góc nhà, nói nhẩn nha:
- Các chú ăn tự nhiên đi! Mà hậu cần gì lo cơm nước kỳ quá. Giải phóng rồi mà ăn uống hổng khác chi ở rừng.
- Cô Hường nghe bố nói từ chái nhà đi ra, thoáng nhìn vào mâm cơm của lính. Im lặng.
Đám lính không ai nói, lặng lẽ ăn.
Sau chiều ấy, bữa ăn nào cô Hường cũng mang ra mâm cơm khách thêm vài món ăn, cho bữa ăn của năm người lính không còn nhạt thếch. Hôm thì bát cá kho, bữa đĩa tôm, cá rán, lại có hôm cả vài khúc cá thu om quả chua và thịt mỡ rất đậm đà. Có hôm cô còn đặt lên mâm cơm thêm cả cút rượu nhỏ.
Ba Sự thì vẫn chẳng nói một lời, vẫn thu lu như cái gốc bần già cháy đen trong góc tối.
Sớm nữa, cô Hường về sớm hơn mọi ngày. Ngoài bếp nghe rõ tiếng gà quang quác, rồi thấy tiếng xèo xèo hành tỏi phi, tỏa mùi thơm điếc mũi. Khoảng chín, mười giờ thấy Ba Sự và cô con dâu bưng một mâm cơm đặt lên bàn thờ. Những món nấu tỏa thơm ngào ngạt.
- Chắc nhà có giỗ ai - hắn, người lính tên Long nghĩ thầm.
- Hôm nay giỗ vợ ông Ba Sự - Dương ghé vào tai hắn.
Ba sự cùng con dâu đứng trước bàn thờ rì rầm khấn. Tiếng người đàn ông già đục, trầm lại khấn rất nhỏ, đủ để thần linh, người trần có kề bên không thể nghe thấy. Có tiếng cô chủ khóc rấm rứt.
Vừa khi ấy thấy hai người đàn ông trạc tuổi như Ba Sự lục tục tới. Một người mặc quân phục đeo khẩu súng rulo nòng dài trễ hông. Nghe thấy tiếng họ thì thào trong góc phòng với Ba Sự:
- Anh có mời mấy ảnh?
Im lặng một lát rồi có tiếng Ba Sự:
- Tui sợ con Hường nhà tui nó đau!
- Ừ, cũng phải. Tội! Chồng nó thiệt mạng, vừa giỗ trăm ngày! Thôi. Anh gọi nó vô đây, chớ giỗ chị mà không mời mấy anh giải phóng nghe kỳ quá. Nẫu (1) xa nhà bao năm. Thêm bát đũa mà.
Thấy tiếng Ba Sự gọi con dâu. Tiếng Hường dưới bếp vọng lên:
- Con lên ngay.
Lại rì rầm. Chỉ nghe thấy tiếng “dạ, dạ” rất nhỏ của cô Hường. Im lặng một lát. Thấy cô Hường trải cái chiếu cói ra giữa nhà, sắp ra chồng bát sứ cao ngất, cả chục đôi đũa. Bấy giờ Ba Sự mới nói với Quân - người sĩ quan già nhất bọn:
- Bữa nay giỗ má con Hường. Có ly rượu gạo mời các anh vô nhậu chơi.
Người đeo súng rulo sáu phát cũng bước ra tươi cười tự giới thiệu: “Tui là Tư Quang, bộ đội miền 202 đặc công Phú Yên. Chỗ Ba Sự đây là bà con đã có lời mời các đồng chí cùng ăn bữa cơm cúng vợ ảnh”.
Sao mà từ chối được! Khách chủ lục tục ngồi xuống chung một chiếu. Rượu vào thì lời ra.
Hóa ra cả hai vợ chồng Ba Sự vốn từng là cán bộ địa phương không tập kết, ở lại Phú Yên sau Hiệp định Geneve 1954. Người đeo súng ngắn vốn là đồng chí cũ, bạn nằm vùng của Ba Sự. “Năm Diệm tố cộng, chúng bắt cả hai vợ chồng ảnh. Nhưng tụi tui vẫn không bị lộ. Nhà Ba Sự không khai. Hơn năm, cô Ba Sự chết trong tù. Địch thả Ba Sự ra khi chân trái bị tra tấn đến gãy, lại đánh đến mù con mắt. Trước giải phóng năm, ba tháng địch càn, bắt đứa con duy nhất của Ba Sự vừa lấy con Hường đây vào lính địa phương quân gác trên đèo Cả và tháng 4 năm 1975, thằng chồng con Hường không may trúng đạn chết. Nhưng tui nói rồi, cái tội này của thằng Mỹ và thằng Thiệu, không ai muốn chồng con Hường chết oan uổng vậy. Ai lại anh em con cháu trong nhà lại giết nhau! Cái xóm này nhiều nhà, ta địch có hết, đau thương lắm”. Người cán bộ địa phương thản nhiên kể.
Câu chuyện oái oăm làm bữa ăn chùng xuống. Trong tốp bộ đội ngồi đây có ba người thuộc F320 đã tham chiến ở Tuy Hòa. Đơn vị hắn và cả Dương đều đánh qua đèo Cả nơi chồng Hường trấn ngự. Chiến tranh đạn bom có kiêng ai?
Nhưng cái khuôn mặt xinh đẹp mà buồn như ma ám thì ai có thể thờ ơ được? “Tội quá, người ta son trẻ thế. Chắc khóc hết nước mắt. Mà tiếng khóc của những người cha, người mẹ, người vợ thì dù phía nào có khác nhau đâu mà phân biệt!”. Dương nghĩ, thì thào nói với hắn đêm ấy lại rủ: “Này sớm mai hai thằng mình ra bãi biển xem cô ấy buôn bán ra sao đi!”.
Sớm sau họ canh giờ lúc Hường dậy, hai người lính cũng dậy theo, họ âm thầm bám sau cô chủ nhà xinh đẹp ra bãi cá.
Đêm về sáng. Biển lấp lánh trăm ngàn ánh lân tinh. Hai ba chục cái thuyền từ khơi về cập vào bến đổ cá xuống. Biển hực mùi cá, mùi muối. Đôi thúng cô Hường một lát đã đầy ăm ắp đủ loại cá, tôm tươi. Dương và hắn không nói không rằng, cứ lăn vào bưng bê giúp cô chủ nhà, lại bảo, có tụi tôi đây đỡ cho một tay, cô cứ mua thêm nhiều mà bán cho thêm lời. Có người đỡ tay, rõ ràng cô Hường thuận lợi hơn. Thoắt, đã mua đầy hai thúng cá. Hai người lính còn hăng hái giúp cô chuyển đỡ hàng ra tận khu chợ sớm tấp nập họp ngay nơi đường lớn giáp đường Một.
Hắn thấy đôi khi cô Hường nhíu lông mày rồi tươi hơn một chút. Những khi ấy hắn càng thấy cô chủ nhà đẹp lạ thường. Khuôn mặt cô có lúc ngời lên trong ánh sáng mặt biển phản lên. Cái bóng cô với những đường nét tuyệt vời căng đầy thanh xuân hiện rõ trên nền tím bình minh đang lên của trời biển. Nhìn bước chân thoăn thoắt của Hường làm hắn vui hơn khi được giúp đỡ một cô gái trẻ có chuyện quá buồn.
Chơi với nhau, cùng cánh lính Hà Nội, hắn biết rõ Dương lắm. Hai đứa đều là học sinh tình nguyện vào chiến trường biền biệt hơn chục năm. Dương rất đẹp trai, đóng quân ở Củ Chi khối cô du kích mê mệt mà nó chả yêu ai. Xem ra đến đây, cu cậu có vẻ mến cô Hường, oái oăm mê cái cô gái chồng vừa chết trận?
- Mày có thích Hường không? Chiều ấy hắn hỏi bạn.
Dương, bạn hắn nhìn lên trời, im lặng một lát, nhẩn nha nói:
- Người ta vừa mất chồng. Thương quá!
- Ở cái mảnh đất eo miền Trung này bao nhiêu gia đình như Ba Sự? Hắn đăm chiêu nói như hiểu biết lắm. Suốt bao nhiêu năm chia cắt, chiến tranh và loạn lạc. Không biết Dương có suy nghĩ như hắn không mà bất giác cả hai cùng thở dài bên cái bờ biển vẫn đang rì rào như thẽ thọt với bờ.
- Mày tán cô ấy được đấy. Cô ta đẹp, mày lại chưa từng yêu ai - hắn nói. Người ta rồi cũng phải bứt qua đau khổ mà đi tiếp chứ, cô ấy còn trẻ quá.
Dương vẫn không nói gì. Khuôn mặt điển trai của bạn hắn rất đăm chiêu. Nhưng rõ ràng là thằng bạn hắn thích cô Hường. Bởi một đêm sau đó, Dương đưa cho hắn chiếc đồng hồ nữ Longin gắn mấy hạt xoàn nói: “Khi nào ta đi, tao tặng cô ấy cái này. Mày xem có được không?”, “Được quá chứ. Cũng là lời cám ơn bấy nay cô ấy chăm sóc cơm nước cho tụi mình” - hắn nói.
Rõ ràng chiến tranh là cái địa ngục khổng lồ chả tránh ai. Trong hơn 10 năm binh lửa của hắn và Dương, đã bao người bạn đã hy sinh bên họ. Từ Cheo Reo xuống đây truy kích lính quân đoàn II của địch, đánh vào sân bay, khi vượt qua cái tháp nước khỉ gió, có khẩu 12,8 ly địch cắm ở chân tháp, thằng Đón - bạn thân của Dương và hắn, đã mãi mãi nằm xuống. Hắn không bao giờ quên, những tia máu Đón phụt ra nhuốm đỏ cả một khoảng cát trắng. Để tiến lên, hắn đã dùng B41 tiêu diệt toàn bộ tốp lính rằn ri.
* * *
Suốt hơn tuần tham quan trên Phú Yên, đi khắp mọi nơi hắn vẫn không sao xác định nổi cái xóm mà hắn đã trú quân. Ở đây có bao nhiêu xóm chài như thế? Cô phóng viên xinh đẹp của Đài Truyền hình Tuy Hòa đưa hắn lên hải đăng Mũi Điện, nơi mặt trời mọc sớm nhất đất nước để ngắm bình minh. Cô đi trước, nhón chân leo lên những bậc thang đá, thân hình mới óng ả tuyệt mỹ làm sao, cũng mớ tóc đen như mun, đôi mắt đắm say lay láy như hạt nhãn càng làm cho hắn nhớ tới cô gái biển tên Hường nhiều hơn. Bây giờ cô Hường sống ra sao? Biển bao la trước mắt ôm cái doi cát trắng phau bên trái ngọn hải đăng. Hắn đôi lời kể về cuộc tìm kiếm cái xóm chài từng ở.
- Anh có nhớ thêm một đặc tính nào của cái xóm ấy không?
Cái doi cát trắng phau như thân trần của người con gái cởi nửa xiêm y làm hắn nhớ lại cái sáng còn tờ mờ mà hắn, Dương và cô gái ngồi chờ thuyền cá về.
- Cái xóm chài ấy tên có từ “Lương”. Cạnh xóm có một cái nghĩa địa và một ngôi chùa nhỏ.
- Ở đây có một xóm chài tên Ma Liên chứ không phải Ma Lương như anh nói – cô phóng viên mở to đôi mắt đẹp nói với hắn, phát âm hai ba lần từ “Liên” cho hắn rõ.
Hơn 40 năm, trí nhớ nhạt nhòa của hắn bỗng bừng lên để hiểu rõ một từ xa lắc! Mà có thể xóm ấy là Liên, vì người xứ Phú Yên phát âm từ Liên và Lương, hắn có phân biệt được đâu, nghe giống nhau lắm. Nghĩ thế, hắn kể:
- Cô Hường đã dẫn chúng tôi tới một nghĩa địa sát làng, nơi có một ngôi chùa rất nhỏ kề cận. Cô ấy bảo rằng, vụng biển xóm chài của cô là nơi biển thường cuốn tất cả mọi thứ trôi nổi trên biển cả xô vào bờ. “Bãi nghĩa địa, dân làng đã vớt cả lên làm phúc, chôn cất tất cả những linh hồn xấu số trôi dạt vào bờ. Người ta phải được nằm trong đất chớ không để linh hồn lênh đênh mãi trên biển. Nghĩa địa này cũng chấp nhận tất cả binh sĩ hai bên, không phân biệt. Cả lính VNCH và lính Việt Cộng các anh!”. Hường đã nói vậy. Cô còn kể rằng, nghĩa địa như thế nên tương truyền rất nhiều ma. Người làng không ai tới đó vào nửa đêm về sáng cả. Những linh hồn oan khuất hiện lên to như cái nia, sáng bừng, bay la đà từng tốp trên bãi hoang. Có lúc tụ đứng cả trên ngọn cây bồ đề ven chùa. Người làng còn nghe thấy cả tiếng kêu rên, tiếng ỉ ôi như than khóc vào những đêm mưa lớn. Những đêm như thế, biển cũng vỗ vào bờ khác lạ. Lời kể của cô ấy làm tôi nhớ lại những đêm nằm trong nhà nghe biển vỗ vào bờ chả còn êm dịu.
“Nặng nhọc như tiếng nghẹn thở của kẻ đang đau đớn, dội lên từng đợt, âm âm khào khào, khan đục, dữ dội” – hắn nghĩ.
- Ngày mai em dẫn anh đến xóm Ma Liên ấy. Ở đấy có một ngôi chùa thiêng lắm - cô phóng viên nói. Biết đâu đấy là cái xóm anh đã ở. Chuyện là, cách đây dăm năm, từ đâu trôi quẩn về vụng biển Ma Liên một tượng Phật. Tượng chỉ nặng chừng hơn 70 cân, song không sao kéo được lên thuyền. Dân làng cử một đạo tràng cao tuổi nhất xóm ra cầu kinh niệm Phật. Và kỳ lạ thay, cũng ngần ấy người mà lại đưa được tượng lên, rước về chùa nhỏ của làng. Người ta xác định rằng, pho tượng có tuổi bốn thế kỷ, nom tựa vóc dáng Quan Thế Âm. Dăm năm nay từ ngày có tượng cổ ấy, khách thập phương đua nhau tới cung tiến phát tâm để xây thành một ngôi chùa rất lớn, không còn là chùa nhỏ thuộc về làng Ma Liên ấy nữa. Nếu đúng là cái xóm anh ở, thì nghĩa địa ấy cũng không còn ma nữa. Tất cả những linh hồn chết lênh đênh đều được Phật độ. Dân làng kể rằng, từ ngày có Phật Bà từ bi về, không ai còn trông thấy những bóng ma lập lòe bay lượn trên những nấm mồ hay trên ngọn cây bồ đề quanh đó nữa.
* * *
Đêm đó hắn ngủ chập chờn. Nằm trong khu nghỉ dưỡng Sao Mai yên tĩnh như thế mà hắn cứ lơ mơ nghe tiếng biển thì thào thở, vỗ vào bờ. Bật dậy rồi lại nằm xuống thiếp đi, hắn lại mơ thấy Dương về.
- Mày đã tìm thấy Hường chưa? - Rõ ràng Dương hỏi hắn! Mà sao có thể là Dương được, bạn hắn đã hy sinh bên Campuchia rồi cơ mà! Hắn lại nhìn rõ một bãi biển rì rào, Dương và Hường chạy trên đó. Biển dập dờn bên họ và bóng Dương cứ đuổi mãi chả kịp bước chân Hường. Tỉnh dậy, hắn không thể ngủ được nữa. Gần sáng khu Sao Mai đầy tiếng chim líu lo hót. Không khí trong vắt như ngày nào hắn ở rừng. Dĩ vãng ùa về.
Hai cha con ngồi bên cái bàn nước, cái bộ bàn nước trước khi họ đến phủ đầy bụi. Họ không hề biết những người lính đi chơi quanh xóm cũng đã trở về. Ngoài hiên, hắn nghe rõ giọng Ba Sự:
- Nó thích con. Thằng đó nó mến con. Tụi lính Hà Nội này, đứa nào cũng hiền khô, thằng Dương mê mày cũng được lắm. Con đồng ý rồi theo nó ra ngoải (2) đi! Ở đây con sẽ buồn chết. Cha mong con không khổ nữa, ở đây với cha làm gì!
Im lặng một lúc rồi thấy rõ tiếng thút thít, lát sau nghe rõ giọng cô Hường, tiếng lẫn trong tiếng khóc:
- Không! Chồng con vừa mất. Với lại con không muốn góa bụa lần nữa. Thời buổi này biết sao mà tính. Mấy ảnh thiệt tốt, nhưng nẫu là lính. Con không đi theo ai nữa!
- Tùy con đó - giọng Ba Sự trầm đục.
Hắn choàng tỉnh, nhớ ngày nước rút, tụi nó lên xe ra Bắc. Ba Sự không tiễn cửa. Chỉ có cô Hường đứng ngay bên hàng dậu dầy cây xương rồng bên nhà nhìn theo bóng họ đi. Dương bước đi sau cùng, đứng lại bên cô Hường. Hắn ngoái đầu lại nhìn, thấy Dương nắm lấy tay cô gái. Tích tắc cô gái vùng ra, vụt chạy về sau nhà.
Cả chuyến ra Bắc, Dương rất ít nói. Rồi Dương bảo, nó sẽ quay lại Phú Yên! “Người ta cầm súng để cho những người như cô Hường và ông Ba Sự thật sự hạnh phúc chứ đâu chỉ gặt hái sự đau khổ!” - Dương đã nói thế.
Đúng, Dương giữ lời hứa, vài tháng sau, bạn hắn đã quay lại xóm chài tìm cô Hường nơi xóm ấy, rồi anh lại đi ngay mặt trận biên giới Campuchia, để mãi không bao giờ trở về. Và, không bao giờ bạn hắn được đôi cánh tay ngà ngọc ấy choàng lên như mơ ước!
* * *
Sáng hôm sau hắn bàng hoàng nhận ra xóm chài năm nào bên bờ biển. Hắn nhận ra khu nhà lớn làm binh trạm cũ đóng, giờ đây đã trở thành trường tiểu học của làng Ma Liên.
Hơn 40 năm! Những con đường vẫn nhận ra rẽ vào các xóm chài nhỏ ven biển. Cái ngõ nhỏ có hàng rào xương rồng thâm thấp có những nụ hoa bé xíu, bao nếp nhà rêu cũ, lợp lá dừa năm xưa, bây giờ là cái xóm chi chít nhà hai ba tầng ngói đỏ, đứng bên những hàng dừa xanh cao vút đang đong đưa trong gió biển êm êm thổi về.
Người ta nói với hắn, ở đây có hai cô Hường trạc tuổi mà hắn kể. Một cô là giáo viên, cô nữa là chủ doanh nghiệp, người tổ chức một công ty trách nhiệm hữu hạn buôn bán nông ngư nghiệp, đã có công biến hàng ngàn công đất, bỏ vốn giúp nông dân trồng giống dưa hấu ngọt lịm Phú Yên quả nhỏ ngọt như đường phèn mọc lên từ cát trắng, xuất đi các nơi. Hôm nay cô Hường này bận công chuyện đi thành phố Hồ Chí Minh chưa về. “Tôi tìm cô Hường con dâu ông Ba Sự” - hắn bảo. “Ông Ba Sự thì đã mất rồi!” - một cán bộ xã trẻ nói với hắn như vậy.
Hắn và cô phóng viên xinh đẹp thăm ngôi chùa Ma Liên có bức tượng thiêng giờ thành một ngôi chùa lớn đẹp uy nghi đứng trên nền đất cũ. Tượng Quan Âm tay cầm bình nước Cam Lồ trầm mặc tưới bình an cho muôn chúng sinh...
Hắn cùng cô phóng viên đi ra bờ biển cong cong một vòng tay cát trắng phau miên man dọc biển cũ. Vòng cát trắng tinh lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, và biển vẫn xanh trong như xưa nay, êm dịu một vòng tay rộng bao la suốt đêm ngày đang ôm trọn lấy dải đất, thì thào vỗ đều đều vào bờ.
Chính khi ấy hắn thấy rõ ràng khuôn mặt Dương - bạn hắn, hiện ra trong lòng biển xanh vợi kia. Khuôn mặt Dương ưu tư như ngày nào nói về Hường. Hắn tưởng tượng thấy Dương đã từng quay lại nơi đây, bước chân anh đi, thong thả dạo trên bờ biển này cùng Hường. Hắn nghe cát trắng lạo xạo dưới từng bước chân, nghe tiếng vỗ êm dịu đến vô cùng sớm sớm của biển, đang như một cánh tay ngọc ngà nõn trắng choàng ôm xiết mãi lấy xóm chài Ma Liên, cả ngôi chùa, cả đôi trai gái, chàng trai Hà Nội và cô gái Phú Yên, từng đau khổ...
Ngọc Hà 13/8/2019
Truyện dự thi: Chuyện làng chưa cũ
Nguyễn Thế Hùng
Bây giờ thì lão Sự lẫn thật rồi, hàng ngày, lão thường đi dọc theo hành lang chung cư nơi mình ở và nói chuyện một mình. Thỉnh thoảng lão lại gõ cửa nhà một ai đó. Khi chủ nhà ra mở cửa, lão thường hỏi: “Miếng ruộng trên Đồng Léc năm nay ông tính gieo giống lúa gì?
Năm nay vào tiết Tiểu Mạn có lũ to đấy, tôi thì gieo giống ngắn ngày, xanh nhà hơn già đồng”, hay: “Cái vườn chuối sát bờ sông nghe bảo vào quy hoạch thành phố ven sông đấy, các ông các bà phải có ý kiến đi chứ, đó là hồn làng mình, tôi được tượng hình ở đó đấy, và làng mình cũng có biết bao người như thế, trăng thanh gió mát, tàu chuối nẫy đành đạch, toàn ra những đứa khôn”.
Biết là lão bị lẫn, người ta chỉ nói qua loa dăm ba câu rồi đóng cửa, nhưng cũng có những gia đình vợ chồng trẻ mới về đây mua nhà, họ bực bội thực sự vì thỉnh thoảng giữa trưa, lão gõ cửa mời họ sang uống nước chè xanh, có khi thì sáng sớm tinh mơ, vợ chồng đang êm giấc hay làm dở tiếp cú chót trước khi đến công sở để ngủ thì bị tiếng gõ cửa của lão quấy rầy.
Không nói được với lão, người ta gọi con lão là ông Hách ra nói chuyện. Chẳng còn cách nào khác, anh Hách phải nhốt cha ở trong nhà, không cho đi lang thang ngoài hành lang nữa. Bị nhốt trong nhà, lão lại càng nhớ làng hơn, lão thường than thở: “Chẳng biết lão Khúng - bạn nối khố của lão - dạo này bận rộn gì mà chẳng thấy đến chơi”; “Tháng Tám này là giỗ bà chúng mày đấy. Khổ! Làng đã có nước giếng, nhưng cứ nhớ mãi bờ sông với vườn chuối nên cứ gánh vò ra lấy nước, trượt chân… cả đời bà chúng mày ăn gió nằm sương, làm giỗ cho nó tươm tươm các con nhé”. Biết lão lẫn nên con cháu chỉ cười.
Không ngờ lão Sự lẫn nhanh thế, mới ngày nào khi còn ở quê, da dẻ lão còn đỏ au au, đồng trên ruộng dưới lão vẫn cày bừa phăng phăng như thanh niên, trong lúc những thửa ruộng xung quanh người ta cày bằng máy, riêng lão và lão Khúng thì cứ con trâu đi trước, cái cày theo sau như ngàn đời nay dân quê lão vẫn làm. Người làng bảo hai lão hâm. Kệ! Hâm mà được như hai lão cũng khối người thèm. Hâm mà lão Khúng có cả một cơ ngơi vườn ao chuồng như thế này à? Hâm mà lão Sự có đứa con giàu có sống trên thành phố à? Hâm mà được ngồi xe hơi mát lạnh, lên phố thì được ở nhà lầu à? Hỏi cả cái làng này ai đã được như hai lão?
Lão Sự được sinh ra trong cái lò gạch cũ đứng chơ vơ giữa đồng. Lớn lên không biết mặt cha, nhưng những câu chuyện kể về cha thì lão nghe thuộc đến nằm lòng. Chuyện về cha gã chủ yếu là những chuyện không hay, như là thói nghiện rượu; càn quấy; trộm chó; bắt mèo; chửi làng; phá xóm; vặt râu văn nghệ sĩ… chuyện gì cha lão cũng dám làm và làm được cả. Ngày còn nhỏ, lão sống trong sự ghẻ lạnh của xóm làng. Lớn lên đi học lại bị lũ bạn học trêu chọc là thằng không cha, con của đứa dở người. Lão căm, lão tức. Thừa hưởng máu liều của cha, lão lao vào đánh chúng nó, thế là bị đuổi học. Đuổi thì ở nhà, có sao đâu, cha mẹ lão cũng có học hành gì đâu thế mà vẫn sống.
Dù bị ghẻ lạnh và xa lánh, nhưng trong thâm tâm, lão vẫn nghĩ, nói gì thì nói, cha lão cũng là một anh hùng hảo hán của làng. Với thế lực của bọn quan làng như thế, tầng tầng áp bức như thế, mà cha lão dám chửi vung tí mẹt lên, lại còn dám xách dao đi xin tiền, cần thiết thì xin tí tiết bọn cường hào. Hỏi rằng đời nay đã mấy ai dám. Anh hùng là biết vượt qua nỗi sợ hãi để làm những việc phi thường, chiếu vào đó thì cha lão là anh hùng quá đi chứ. Việc phi thường cuối đời của ông là dám đâm một nhát chí tử vào cái cường quyền, đâm một nhát chí tử vào cái mà gọi là vùng an toàn, vùng cấm. Vẫn biết rằng bạo lực sẽ gọi bạo lực đến, nhưng hỏi rằng nếu không có cái chết của quan làng và của cha lão, thì người làng có chịu thức tỉnh không? Hay vẫn cứ u mê làm con cừu cho người ta xén lông? Làm con trâu cho người ta dễ dàng cài cái ách lên cổ, suốt đời cần mẫn cúi đầu kéo cày làm ra hạt lúa củ khoai cho người ta hưởng, còn bản thân mình chỉ được ăn rơm, ăn rễ mà thôi ?
Lớn lên, tính lão ngang tàng nên cũng ít bạn chơi, chỉ có lão Khúng là thân thiết. Lão Khúng là người vùng khác đến làng lão lập nghiệp, không đất đai ruộng vườn nên ban đầu ở ngụ cư gần nhà của mẹ lão sát bờ đê. Dân ngụ cư bị khinh ghét, lão Sự cũng bị khinh ghét nên hai lão chơi thân với nhau. Rồi đến thời đình chiến, đơn vị bộ đội rút đi khỏi cái lò gạch cũ nơi lão được sinh ra, chỗ ấy thành đất vô chủ, hoang hóa, chỗ thấp chỗ cao, ao đầm ngút ngàn lau lách và cỏ dại. Chắc nhờ trăng thanh gió mát nên vợ chồng lão Khúng có nhiều con, cha con rủ nhau ra đất lò gạch khai hoang phục hóa. Đất đai màu mỡ đã bị người ta đào lên lấy nung gạch hết, khu lò gạch chẳng khác gì một vùng đất chết, chẳng ai nhòm ngó tới. Lão Khúng rủ lão Sự cùng ra đó khai hoang. Khi nghe lão Khúng rủ, lão Sự đã cười nửa miệng mà rằng: “Cả đời tôi muốn quên đi cái chốn ô nhục đó mà không được, ông còn rủ tôi ra đó để gắn bó suốt đời à?”.
Không rủ được bạn, lão Khúng vận động vợ con ra làm. Chỉ bằng cây cuốc và bàn tay đầy chai sạn, cha con lão Khúng chẳng kể ngày đêm, biến vùng đất hoang thành lúa, thành cá. Chỗ sâu không thể cải tạo thành ruộng, lão Khúng cho chặt hết lau lách rồi cải tạo thành ao nuôi cá, chỗ vừa thì xe đất trên núi về lấp để làm vườn, chỗ nông cha con kéo cày thục cho đất nhuyễn để cấy lúa. Ngày còn hợp tác xã, cũng đã mấy lần người ta vận động cha con lão Khúng vào hợp tác, nhưng lão nghĩ rằng, chỗ đất đai ruộng vườn lão khai hoang phục hóa cũng đủ nuôi sống cả nhà, nên chẳng vào hợp tác để làm gì, con cái lão đã phương trưởng cả, nhân lực dồi dào, cứ tự sản tự tiêu, tự do mà hưởng trăng thanh gió mát là tốt nhất, nghĩa vụ với đất nước cứ đóng đủ là được. Lão không vào hợp tác, tách khỏi tổ chức, người ta coi gia đình lão như những người thừa. Tính lão gàn, kiên quyết không vào hợp tác, nhưng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lão cũng đóng góp cho nước nhà hai liệt sĩ. Còn đứa con một của lão Sự thì được lên tỉnh học.
Tuy không ra khai hoang cùng lão Khúng, nhưng những đêm trăng thanh gió mát, lão Sự và lão Khúng vẫn thường cùng nhau ra bờ ao ngồi nhâm nhi chén rượu nhạt trong tiếng cá quẫy đớp trăng. Cũng đã không ít lần, lão Khúng tính gả đứa con gái út của mình cho con trai lão Sự là anh cu Hách đang theo học trên tỉnh. Biết ý đó, lão Sự thấy mừng vì gia cảnh nhà lão vốn đơn chiếc, lão sinh ra đã không biết mặt cha, bước vào tuổi thanh niên thì mẹ mất, vợ chồng lão cũng chỉ có được một mụn con nối dõi, nếu có được đứa con dâu ở làng lại là con của lão Khúng thì còn gì bằng.
Nhưng trời chẳng chiều theo lòng người, anh cu Hách sau khi tốt nghiệp kỹ sư xây dựng, đã ở lại trên tỉnh, đã mấy lần lão Sự nài nỉ con về quê lập nghiệp nhưng anh cười mà rằng: “Không lẽ mất bốn năm học Đại học Xây dựng, con lại về làng để xây chuồng trâu, nhà cấp bốn và… lò gạch à?”. Lời anh Hách nói, nhất là mấy chữ cuối câu anh nói vóng lên, như một nhát dao đâm xuyên tim lão Sự. Lão biết, con lão rất dị ứng với thành phần xuất thân, nên ngay từ nhỏ tự nó đã cắm mặt xuống mà học, nó học trong sự tức tối và học để đổi thay, để rũ bỏ cái quá khứ lò gạch mà cha ông để lại.
Ra trường được mấy năm, trúng được mấy cái hợp đồng tốt, anh Hách phất lên nhanh chóng và điều may mắn hơn là anh lấy được cô vợ con nhà thầu khoán quyền thế trên tỉnh, cuộc đời anh cơ bản đã sang trang. Anh ít về làng hơn, thỉnh thoảng thương cha nhớ mẹ thì cho người về mời cha mẹ lên thành phố chơi. Khi mẹ anh không may cảm mất đột ngột, sau khi lo ma chay chu toàn, một đêm hè tàu chuối nây nẩy hứng tình, anh Hách đã châm lửa đốt ngôi nhà tranh của cha mẹ rồi sau đó rước cha lên thành phố nuôi. Đoạn tuyệt hẳn với quá khứ, với xóm, với làng. Mảnh đất chó nằm thừa đuôi của lão Sự sau một thời gian bỏ hoang, làng cho xây lên đó một ngôi trường mẫu giáo nho nhỏ, ít cô ít trò.
* * *
Giờ lão Sự lại bị lẫn, nhưng kể cả khi không lẫn, khác với ngày còn trẻ là muốn chối bỏ quá khứ, gốc gác của mình. Giờ đây khi đã về già, mọi câu chuyện của lão đều gắn với làng, đã nhiều lần lão xin với con cho lão được trở về làng để sống, lão không muốn làm người tù giam lỏng ở chốn thị thành, lão muốn con lão mua lại mảnh đất mà người mẹ khốn khổ của lão đã từng ở, nếu không mua lại được miếng đất ấy, thì về thương lượng với lão Khúng xin mua lại một mảnh đất nhỏ trên nền lò gạch cũ, xây lên đó một ngôi nhà nhỏ để lão sống nốt những ngày cuối đời.
Những ngày đầu khi nghe cha nói ra nguyện vọng của mình, anh Hách đã không thể kìm nén được sự tức giận, đã không ít lần anh to tiếng với cha, nhưng càng ngày, khi tuổi đời và sự từng trải đã đủ, anh không còn thấy tức giận nữa. Đặc biệt là khi mấy đứa con anh đã khôn lớn, chúng nó cũng hùa vào với ông nội, muốn có một chốn neo quê để đi về. Nhưng với những ký ức ngày xưa, những câu chuyện kể về ông nội luôn ám ảnh anh Hách, cả một đời anh chỉ muốn giũ sạch cho hết mọi quá khứ, cắt đứt sợi dây kết nối với quê hương. Anh đã mua đất ở công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng rồi về quê chuyển mộ ông bà nội cùng mẹ anh lên đó. Dự kiến là sau này khi bố mất, anh cũng đưa lên công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng để được nằm cùng những nhân vật tai to mặt lớn, những con người lắm bạc nhiều tiền.
Khi còn sống, ông bà nội anh một đời khốn khó, nhưng giờ đây, ở chốn ấy, ông bà nội sẽ là cư dân của những người danh giá. Khi còn sống, đất đai nhà cửa của ông bà nội anh có bán đi tất cả thì cũng không đủ mua một mét vuông đất ở nghĩa trang Vĩnh Hằng, nhưng giờ đây ông bà và mẹ anh đã là cư dân của khu nghĩa trang Vĩnh Hằng, cũng mộ xây, cũng lát đá hoa cương, cũng tiêu chuẩn đất đều chằn chặn như nhau, cùng nhìn về một hướng. Hướng đó có đức Phật, có những điều thiện lành, cho dù những người nằm dưới mộ đã không ít lần phạm phải những điều ác, cả vô tình cả cố tình, cả vì ngu muội, cả vì quá khôn ngoan lọc lõi và cơ hội. Nhưng tất cả giờ về nằm đây, chẳng biết họ đang nghĩ gì, nhưng người sống bắt họ phải nghĩ về đức Phật, cho dù họ không muốn và bản thân những người còn sống nhiều khi cũng chẳng mấy tin vào đức Phật.
Với khả năng tài chính của anh Hách hiện thời thì anh có thể làm cho ông nội cái mả to như trái núi cũng được, nhưng anh vẫn còn biết sợ, với quá khứ của ông nội anh như thế, mả càng to thì bị người đời chửi càng nhiều chứ báu gì, vậy nên anh chọn công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng là hợp lý nhất. Khi đất đai, phần mộ đã xong xuôi, điều nan giải nhất với anh Hách là không thể kiếm đâu ra ảnh của ông bà nội để khảm lên trên bia đá, cuối cùng anh đành phải lấy ảnh của diễn viên đã từng thủ vai ông bà nội anh, đem đến cho họa sĩ vẽ hai bức truyền thần để khảm vào bia mộ. Ảnh thật mà giả, giả mà thật, âu rằng ông bà nội cũng ngậm cười nơi chín suối.
Cứ tưởng làm thế là đã cắt được mọi mối dây ràng buộc với quê hương lam lũ xưa, cái sợi dây vô hình mà lại bền chặt vô cùng, càng về già thì người ta lại càng muốn về, lại càng nhớ quê, dù quê không còn cái gì là cụ thể. Làng là thế, hạnh phúc cũng nhớ về mà đau khổ càng muốn về. Với anh Hách, làng có khi rất cụ thể, đó là những buổi trưa hè nằm trong vườn chuối ngắm sáo diều bay, nghe ngư ông gõ mạn thuyền đuổi cá dưới bến trong bóng cây sung già tỏa bóng xuống mặt sông mát rười rượi. Làng là những chiều ra đê ngóng mẹ về từ cánh đồng nơi chân núi, là con cà cuống, con muồm muỗm được mẹ ngắt cánh buộc vào trong chiếc nón mê đội đầu, là mùi bùn, mùi nắng, mùi hương chanh, hương sả từ người, từ tóc mẹ tỏa ra ướp cả trời tình thương. Nhưng làng đôi khi cũng thật mơ hồ, đó là những ánh mắt khinh bỉ của người làng mỗi khi thấy Hách chơi chung cùng con cái họ. Là tiếng chửi đổng của một nhà nào đó mất gà đang chĩa sang phía nhà anh, là câu nói đầu môi của người làng: “Nòi nào thì giống nấy, đầu đã trộm thì đuôi sẽ là cướp”… Làng càng nhớ lại càng đau.
Cứ tưởng khi đã làm xong được những chuyện tâm linh đó, thì cha anh sẽ yên tâm mà ở lại thành phố và sau đó là về yên vị ở nghĩa trang Vĩnh Hằng, nhưng không phải thế, càng về già, tần suất của những lần muốn về lại quê của lão Sự lại càng tăng lên, lúc lẫn cũng như lúc tỉnh, lão đều muốn được trở về lại làng. Trước sự thúc giục của cha và những đứa con, anh Hách đâm khó nghĩ, chuyện về làng mua một miếng đất cũng không phải là khó. Tập đoàn của anh đã có biết bao mảnh đất vàng đất bạc, nếu mà đem ghép lại thì còn lớn hơn cả cái xã quê hương anh, nhưng ngặt nỗi quá khứ dòng tộc còn đó, anh sợ khi phải về đối mặt, anh sợ khi vô tình bắt gặp một người nào đó say rượu chửi làng, sợ gặp một người đàn bà xấu xí ngớ ngẩn có chửa bụng vượt mặt, sợ nhìn thấy cái lò gạch cũ, sợ cả mùi cháo hành và anh sợ nhất phải nghe câu nói: “Nòi nào thì giống nấy, đầu đã trộm thì đuôi sẽ là cướp”… thứ đến là đất nhà anh xưa giờ xã hội đã làm nhà trẻ, còn đất trên nền lò gạch cũ thì đã thuộc quyền sở hữu của cha con nhà lão Khúng.
Anh biết với tình yêu đất đai ruộng vườn của lão Khúng thì sẽ không bao giờ lão chịu bán. Với lại đã không làm thì thôi, làm thì phải to, không chỉ là một ngôi nhà nhỏ trên nền cái lò gạch cũ. Làm như thế thì khác gì là xây lại cái lò gạch. Anh phải xây dựng lên đó một tòa chung cư, sẽ là những người dân văn minh nơi khác đến ở. Họ sẽ thay đổi nếp làng, họ sẽ cưỡng bức văn hóa để người làng bớt đi u mê. Mai nay khi khu vườn chuối trở thành thành phố ven sông, cơ bản sẽ xóa đi không gian sống của ông bà anh ngày xưa. Những câu chuyện xưa nếu không còn không gian sống cụ thể, thì nó sẽ mơ mơ hồ hồ, chuyện của ông bà anh rồi cũng sẽ phai nhạt theo nếp sống hối hả của đô thị. Nhưng nếu mua cả, đuổi lão Khúng đi chỗ khác thì chắc chắn không đời nào lão chịu vì ở đó giờ đây không phải là đất, là ao, là vườn… mà là toàn bộ máu thịt, tâm huyết của cha con nhà lão Khúng. Nước ao nhà lão Khúng là do mồ hôi, và nước mắt đọng lại mà thành. Từ khu đất chết thành khu trang trại đẹp mê hồn như hiện nay, cha con lão phải đổ bằng chính máu của mình.
Thực ra, nếu muốn lấy lại thì cũng không khó gì, điều này anh đã làm và đã thành công ở nhiều địa phương khác. Trong tâm niệm của anh luôn nhớ câu nói nằm lòng: “Những gì mua được bằng tiền thì đều rẻ”. Anh biết với khả năng tài chính hiện nay của mình, anh sẽ “mua” được rất nhiều thứ để có cả một khu đất rộng, nhưng đây lại là làng quê anh, làng quê đã một thời kinh hoàng và khốn khó vì những người như ông nội anh. Anh không muốn thấy thêm máu và nước mắt lại rơi, nhất là máu và nước mắt của người làng. Anh không muốn thêm một lần nữa, người làng lại khinh bỉ, oán hận, hãi hùng và lại chửi. “Nòi nào thì giống nấy, đầu đã trộm thì đuôi sẽ là cướp”.
Vậy nên, nếu có trở lại làng, thì điều đầu tiên phải làm sao để thay đổi cái nhìn của người làng đối với gia đình anh. Điều này cực kỳ khó làm bởi khi những gì đã ăn đậm vào trong tiềm thức của người làng thì rất khó mà thay đổi. Đối với người làng, mọi tốt xấu, sang hèn… hình như đã được định hình từ lâu, định hình từ ngày mới được lập làng. Và hình như cái tốt thì sẽ có ngày xấu đi, còn cái xấu thì không thể một ngày lại thành tốt được. Như các dòng họ trong làng cũng thế, truyền đời rồi cứ thoái hóa, biến chất đi, còn những dòng họ thấp kém, ăn mày ăn xin, trộm cướp, đĩ điếm thì mãi mãi chỉ là thế, không thể khác được, điều đó đã nằm trong nếp nghĩ của người làng, không phải ngày một ngày hai mà gỡ được. Chính vì thế mà người làng đều muốn ai cũng phải có cách nghĩ, cách làm giống mình, nghĩ khác, làm khác là trật đường ray, là loài dị giống.
Ngã ở đâu thì đứng dậy ở đó! Nghĩ được thế nên anh Hách cùng lão Sự quyết định làm một chuyến về làng, anh mượn trang trại nhà lão Khúng và mua hẳn một con trâu của lão Khúng mổ để mời làng, mời một số vị quan chức trên xã, trên huyện, trên tỉnh và hơn chục nhà báo, nhà văn về cùng. Người đến dự không quá đông, nhưng người cần đến thì đều đã đến. Trong những bữa tiệc thân ái tương tự thế, người ta thường nhắc đến người quá cố, và thường là nhắc những nết đẹp chứ cũng chả ai nỡ nhắc cái quá khứ rạch mặt ăn vạ mà làm gì, rượu ngon, thịt béo người ta mời, không mất tiền thì cũng chẳng mất gì lời nói hay, lời nói tốt cho người đã khuất. Trước khi vào tiệc, vợ anh Hách đã rảo đi một vòng gọi là “nhà cháu có chút quà biếu ông bà ăn giầu”. Tiệc vui khi rượu mềm môi, quan khách ai cũng góp đôi ba lời, người ta khi sống ở đời, còn nhiều uẩn khúc ai người hiểu cho, khen ai sao khéo bày trò, rượu uống vào miệng nỗi lo nằm lòng, đời ai đục đời ai trong, cũng không thoát khỏi cái vòng… nhân gian.
Mâm quan trọng được bố trí cho những người quan trọng ngồi, trong đó thành phần không thể thiếu là một vài vị quan khách trên tỉnh xuống, cùng mấy vị bô lão trong làng và một số nhà văn, nhà báo. Khi rượu đã đủ tầm, một vị bô lão gợi chuyện:
- Nói thật chứ khi còn mồ ma cụ Chí, làng cũng vui lắm đấy, thấy thế chứ cụ Chí cũng hiền mà, biết thương người nghèo, không hề bắt nạt ai đâu, người ta là cứ nói vống lên thế thôi.
Một cụ khác tiếp lời:
- Có chuyện này, để trong lòng thì ấm ức, nhưng nói ra thì sợ sai. Chuyện là ngày còn mồ ma cụ Chí, đã không ít lần tôi đi đánh dậm qua nẻo vườn chuối, thấy cụ ngồi uống rượu với mấy người lạ mặt đấy.
- Cụ nói thế thì tôi mới dám nói, tôi cũng đã một đôi lần thấy thế nhưng không dám ho he, một là sợ cụ Chí, hai là sợ chính những người lạ mặt ấy, mình chịu hèn, mình ngậm miệng ăn tiền thôi. Ấy quên, chỉ ngậm miệng thôi, còn làm dân đen thì có tiền đâu mà ăn – vừa nói cụ vừa liếc sang nhìn anh quan xã cố trệu trạo nhai miếng thịt trâu dai.
- Có thật thế à? - một nhà văn hỏi - ngày đó người lạ vào làng thì một là mật thám, hai là du kích thôi, mà cụ Chí thì không thể ngồi với bọn mật thám được rồi. Mấy lần ở trong bót, chắc bị đánh đập nhiều, cụ đã căm bọn mật thám, bọn cai ngục đến tận xương tủy ấy chứ.
- Ừ nhỉ, có khi nào cụ được… “giác ngộ” để tiêu diệt bọn tay sai, cường hào ác bá, bán nước hại dân không nhỉ? - một nhà báo lên tiếng.
- Cũng chả biết chừng, nhân dân cần lao ta thường căm ghét bọn tay sai cho giặc – ông quan chức trên tỉnh thêm vào câu chuyện.
- Các cuộc chiến tranh của nhân dân ta là chiến tranh… nhân dân, nên cũng chả biết chừng cụ Chí giả làm người say để hoạt động thì sao? Chiến tranh qua lâu rồi nhưng khuất lấp thì còn nhiều lắm - một nhà văn khác đế vào.
Mọi người đang trò chuyện xôm tụ thì bỗng nghe đánh “rầm” một tiếng. Ai nấy đều đổ dồn mắt sang nhìn. Cụ Đa Thượng tuổi đã trên trăm, mặt đỏ phừng phừng như gà chọi tiếp tục giơ tay lên và vỗ tiếp cái nữa xuống mặt bàn làm cho cốc chén nẩy lên tanh tách, ngã nghiêng rơi. Vỗ bàn xong cụ đứng lên hằm hằm:
- Láo toét, lão toét, cái lũ láo toét… tao về.
- Ấy chết, có gì chúng con không nên không phải mong cụ chỉ giáo cho, xin cụ đừng giận - anh Hách vội vàng chạy lại dìu cụ Đa Thượng.
- Tưởng cho miếng ăn mà bịt được mồm thiên hạ à. Thằng Chí là du kích thì hóa ra chúng tôi là Việt Gian bán nước à? Có lần tôi dẫn anh em vào làng tính thịt thằng Bá Kiến, bị thằng Chí nó phát hiện, nó xin tiền uống rượu, tôi không có tiền mà cho nó, thế là nó đi báo với thằng Bá Kiến lùng bắt chúng tôi đấy. Đừng có mà mong đổi trắng thay đen. Tao về.
Tất cả mọi người đều ngơ ngác, hoảng hốt đổ dồn nhìn về phía cụ Đa Thượng. Nhưng với bản lĩnh thương trường của mình, anh Hách nhanh nhảu ra lệnh cho mấy anh nhân viên đi cùng:
- Các em nhanh đưa cụ về.
Khi hai cậu nhân viên của anh Hách chạy lại tính dìu cụ về thì bị cụ hất tay ra, cụ đứng dậy và phăm phăm bước ra khỏi bàn tiệc. Lão Khúng cũng rời bàn bước theo cụ ra ngoài. Khi hai người đã khuất lưng, anh Hách nói:
- Thật tội, cụ lẫn rồi, có chén rượu nên nhớ nhớ quên quên, chúng ta đừng giận cụ làm gì, người sống trên trăm tuổi, mọi đúng sai đều tương đối. Nào, xin mời các quý vị chúng ta cùng nâng ly nào.
Mọi người đang lục tục trở lại bàn tiệc thì ngoài ngõ lại xuất hiện một người say chân đăm chân chiêu, nách cắp chai rượu đi vào, miệng lè nhè: “Ăn uống đông đủ thế này mà không mời ông nhỉ”. Thấy thế, anh Hách sầm mặt lại, nói nhỏ trong miệng: “Tiên sư bố nó, cái loại này thời nào cũng có”. Nói rồi anh đi vào nhà bếp, lấy một cục thịt trâu luộc bằng nắm tay và một chai rượu đưa cho người say rượu nói: “Nhà cháu cũng đang tính bảo người đưa sang kính cụ, không ngờ cụ đã đến, vậy thì kính cụ ạ”. Người say cầm cục thịt và chai rượu đi ra khỏi ngõ.
Anh Hách cùng mọi người trở lại bàn tiệc, nhưng không khí thì trầm lắng hẳn. Mấy quan khách trên tỉnh, trên huyện cũng ngồi xã giao thêm một lúc nữa rồi đứng dậy ra về. Nhưng như thế cũng đã thành công rồi,- anh Hách nghĩ – công việc còn lại là của cánh nhà văn, nhà báo.
Đúng là sau đó, đã có những bài viết lật lại nhân vật Chí Phèo.
* * *
Khi gạ lão Khúng bán đất không được, anh Hách nghiến răng: “Thân lừa ưa nặng, không mua được thì… cướp”. Một khi đã phải cướp rồi thì phải cướp hết, anh sẽ cho xây lên đó một tòa nhà chung cư cao chọc trời. Tòa chung cư xây trên nền cái lò gạch cũ năm ấy, sẽ mãi mãi xua đi trong đầu người dân nơi đây về một ám ảnh của quá khứ. Muốn thành công, muốn dựng xây thì phải can tâm đập phá và xóa bỏ.
Sáng ấy, không như mọi sáng bình thường, lão Khúng cùng mấy đưa con nai nịt gọn gàng, mỗi góc nhà đều để sẵn những chiếc mác dài. Sau khi sai đứa con cả tiếp tục cầm đơn đi kêu cứu, lão Khúng áo dài khăn đóng chỉnh tề thắp hương trước bàn thờ gia tiên, lão nhìn vào hai tấm ảnh của hai đứa con liệt sĩ mà khấn rằng: “…Nhà nước muốn giữ nước thì phải giữ được lòng dân, còn dân muốn giữ nước thì phải giữ được đất. Các con đã hy sinh thân mình để giữ đất, giữ nước. Giờ cha còn sống đây, nếu cha không giữ được miếng đất nhỏ nhoi nhưng là xương máu của nhà mình thì mong gì giữ được đất đai bờ cõi Tổ quốc. Cha tin là việc làm của cha hôm nay không sai, mong các con sống khôn, thác thiêng thì hãy cùng cha chung tay mà giữ lấy đất. Cha thà nhà tan chứ không thể để nước mất, tấm lòng của cha có trời xanh soi xét”.
Khi lão khấn xong thì ngoài kia có một đoàn người đang rùng rùng kéo đến. Trên cao xanh bỗng có tiếng sấm ì ầm vọng về. Trời quang nhưng có tiếng sấm như báo hiệu một cơn dông. Sau cơn dông thì trời lại sáng, đó là quy luật muôn thuở của đất trời.
Truyện dự thi: Tóc rối
Châu Hoài Thanh
Vụ thu hoạch cận kề, lác đác trên đồng xa là những bóng nón trắng. Chắc giờ này mẹ tôi cũng đang còng lưng trên 5 sào ruộng. Một mình mẹ đã tảo tần nuôi hai chị em tôi. Vậy mà… Tôi bỏ mẹ, bỏ làng quê yên bình để đi tìm một bóng hình xa ngái.
Hoan gọi điện cho tôi và hỏi:
- Bà có đi làm tóc với tui không?
Tôi trả lời là còn bận. Nó nói như quát trong điện thoại:
- Bận gì! Lại xuề xòa! Tết này, bà phải sửa soạn đẹp lên!
Tôi ừ vì biết, Hoan đang quyết tâm làm thay đổi diện mạo của mình.
Nó đến đón tôi. Hai đứa chạy một đoạn và dừng xe trước cửa tiệm làm tóc Lan Anh. Cô chủ tiệm còn khá trẻ chạy ra đon đả:
- Mời hai chị vô trong ni!
Giọng Huế ngọt ngào đến thú vị. Lúc này, trong tiệm có hai người khách. Một cô nằm dài trên ghế nệm, mặt phủ một lớp da mặt nạ màu trắng. Cô kia ngồi ở chiếc ghế, đang được tỉa tót móng chân. Hoan kéo tay tôi rồi ấn vào chiếc ghế trước tấm gương lớn:
- Em làm cho chị này đi!
Lan Anh dạ rồi rời chỗ đi lấy miếng da có in hình một bàn tay nắm chặt, có ngón cái đưa lên ra vẻ: “Duy nhất! Số một!” và phủ quanh cổ tôi:
- Chị làm kiểu mô? Bob kiểu Thùy Linh, xoăn dập kiểu Hà Hồ hay xoăn lọn kiểu Diễm Hương?
Vừa nói, cô vừa đưa tôi cuốn tạp chí thời trang. Tôi lật mở vài trang. Đó là hình ảnh của các cô nổi tiếng, xinh đẹp với muôn vàn kiểu tóc. Suôn thẳng, lượn sóng, xoăn tít, xoăn vừa, xoăn to, xoăn nhỏ…
Hoan quay sang giật tờ tạp chí từ tay tôi:
- Bà đưa đây, tui chọn cho!
Nó lật từng trang rồi chỉ vào một bức hình mẫu và quả quyết:
- Tui thấy mặt bà làm kiểu này là hợp nhất.
Tôi nhìn qua và lắc đầu, nó giở tiếp mấy trang nữa:
- Này! Này! Hay là này đi!
Tôi chối đẩy rồi quay qua Lan Anh:
- Thôi, em cứ duỗi thẳng cho chị đi.
Hoan giãy đành đạch, giọng chua chát:
- Trời! Bà khùng à? Kiểu đó bây giờ… xưa… rồi!
Rồi nó giải thích một loạt về vẻ đẹp của người phụ nữ. Lan Anh ngắm nghía mái tóc của tôi rồi cầm chiếc lược. Nhưng không, nó không chỉ đơn giản là chiếc lược. Những nhát chải ngọt ngào, giòn rụm như kiểu quảng cáo “nhai giòn sật sật” đang chiếu liên tục trên tivi.
Những lọn tóc của tôi bắt đầu rơi xuống.
Tôi chợt nghĩ tới Toan. Ngày ấy, Toan thường lấy quạt nan và ngồi bên. Vừa quạt, Toan vừa ngắm nhìn tôi chải tóc.
Thế mà bây giờ… Tôi lại ngồi đây, ung dung ngắm nhìn những lọn tóc dài và đen mượt của mình rơi xuống. Không! Tôi chẳng ung dung tí nào! Nỗi luyến tiếc, bâng khuâng đang trào dâng. Nhưng rồi, tôi tự trấn an. Tiếc làm gì nữa! Bây giờ chẳng có Toan, tôi có để tóc dài cũng còn có ý nghĩa gì nữa đâu!
Trong lúc tôi còn vu vơ thì Hoan ngồi ghế sau, mắt không rời khỏi tờ tạp chí.
Không hiểu từ bao giờ, Hoan lại mê các kiểu tóc đến thế. Một năm, nó cũng đến tiệm dăm bảy lần và mỗi lần lại một kiểu tóc khác nhau. Lúc dài, lúc ngắn. Lúc xù lên như nhím, lúc lại thuổn đuột, ngay đơ. Lúc cong cong vài ba lọn, lúc quăn tít thò lò… Tiền lương của nó chẳng mấy mà cạn kiệt theo những kiểu tóc thời trang. Mỗi lần thấy tôi ra ngân hàng gửi tiền về cho mẹ là nó lại ngoa ngoắt:
- Đời mấy hột mà bà phải chắt chiu cho khổ!
Tôi chẳng biết đời mình “mấy hột” nhưng tôi biết chắc là mẹ tôi luôn phải vất vả mà trong túi bà không lúc nào có nổi mấy trăm nghìn đồng. Tôi tiết kiệm để gửi về cho mẹ. Mẹ đã rất buồn từ khi tôi bỏ quê lên thành phố rồi. Cũng may, mẹ còn có chị Tâm.
Bây giờ, trước mặt tôi. Những lọn tóc vẫn liên tiếp rơi xuống. Chùm nọ chồng lên chùm kia. Sợi nọ đan vào sợi kia…
Lan Anh bưng ra một khay đồ. Cô cuốn tóc tôi lên từng lọn nhỏ rồi bôi thuốc. Thứ thuốc có mùi như nước tiểu đang ngấm dần qua lớp tóc và đến lớp da đầu tôi. Cảm giác gờn gợn, lành lạnh. Xong. Một túi nylon được Lan Anh trùm lên đầu tôi:
- Chị ngồi qua kia đợi em hí!
Tôi hỏi:
- Bao lâu hả em?
- Hai tiếng chị ạ.
Tôi gật đầu. Trong thời gian đó, Lan Anh tiếp tục công việc với hai cô gái trẻ. Một lúc sau, hai cô gái trả tiền rồi bước ra xe. Chỉ còn lại tôi và Hoan. Tôi hỏi khi thấy Hoan vẫn chăm chú vào tờ tạp chí:
- Bà không làm tóc sao?
- Tui mới làm tuần trước!
Bỗng nó đứng dậy hốt hoảng:
- Chết cha! Chìa khóa nhà của tui?
Tôi nhìn ra dãy ghế nhựa và hỏi:
- Lúc nãy vào, bà để ở đâu?
Nó lắp bắp:
- Ở ghế… Mà không! Hình như… là trên bàn?
Lan Anh đang loay hoay với mớ tóc dưới chân tôi thì dừng lại:
- Chị kiểm tra lại đi! Thiệt tình là em không để ý!
Hoan hết đi ra lại đi vào, săm soi từng chỗ trên chiếc bàn bày bừa đủ thứ:
- Mất thật rồi! Chiếc nhẫn của tui!
Tôi giật mình hỏi:
- Bà vừa bảo chìa khóa mà?
Nó nói như mếu:
- Chìa khóa… Nhưng trong chiếc ví da treo cùng chìa khóa là chiếc nhẫn có gắn kim cương.
- Nhẫn kim cương nào? Sao lại cất ở đó?
Hoan mếu máo phân bua:
- Của Ngữ tặng...
Lan Anh nhìn chúng tôi với nét mặt lo lắng:
- Răng chị vô ý rứa?
Sau một lúc bới hết mọi thứ trên bàn thì Lan Anh thấy chùm chìa khóa. Hoan cười khi nhận từ tay Lan Anh:
- May quá! Mất nó… Có lẽ Ngữ… bỏ tao!
Hoan chơi thân với tôi kể từ ngày tôi mới chân ướt chân ráo vào thành phố. Hoan là con người mạnh mẽ và khảng khái. Dù đôi lúc nói năng hơi lỗ mãng nhưng sống lâu với Hoan, tôi nhận ra Hoan cũng tốt tính. Hoan đã từng yêu, từng lầm lỡ. Hoan đau khổ cả năm trời rồi đột ngột, Hoan quyết định yêu người đàn ông lớn tuổi tên Ngữ. Ngữ đã có gia đình và ba đứa con gái. Mỗi khi hai đứa nói về chuyện yêu đương, Hoan luôn so sánh Ngữ với Toan. Nó bảo, Toan yếu đuối như đàn bà nên chạy trốn tình yêu. Còn Ngữ - là người đàn ông đích thực. Ngữ luôn tôn trọng Hoan, yêu thích mọi cá tính, mọi thay đổi của nó! Chiếc nhẫn là giao kèo đầu tiên mà nó đặt ra với Ngữ. Tôi không đồng tình nhưng cũng không thể ngăn cản thứ tình cảm được gọi là tình yêu ấy của Hoan.
Lan Anh bắt đầu tháo túi nylon trùm đầu và xử lý mái tóc của tôi. Từ ngày vào thành phố, nói thật, tôi chưa đến tiệm làm tóc nên cảm giác được gội đầu thật dễ chịu và thư thái. Sau một lúc, Lan Anh bảo:
- Xong rồi! Chị ngắm thử xem!
Tôi sực tỉnh nhìn vào chiếc gương trước mặt. Một hình tôi với mái tóc ngắn xoăn tít, buông xòa. Một khuôn mặt tôi vừa quen, vừa lạ.
* * *
Một tháng sau. Hoan và Ngữ làm đám cưới.
Đám cưới nhỏ. Tình yêu lớn. Ngoài sự chứng giám của gia đình Hoan còn có sự chứng dám của gia đình nhà chồng. Cô dâu chú rể được tự do nắm tay nhau. Trong lòng tôi là sự lo lắng, cho dù nó không hiện hữu như cái bắt tay và nụ cười của cô dâu, chú rể và cũng không rõ ràng như cái nhìn hào hiệp của bà vợ cả mà nó lẩn khuất nhưng day dứt khôn nguôi.
Hoan theo Ngữ về nhà riêng. Nó nghỉ việc ở công ty tôi để chuyển qua công ty của chồng.
Từ khi đó, tôi thường hay suy nghĩ về Toan.
Một ngày, tôi nhận được tin Toan trở về. Mẹ cứ ngập ngừng mãi mới nói ra điều ấy qua điện thoại:
- Hôm qua nó đến nhà, lại chẻ cho mẹ một đống củi. Nó hỏi thăm mày… Mẹ biết, nó vẫn thương mày đấy con ạ?
Tôi im lặng.
Suốt đêm tôi không ngủ. Tôi nghĩ đến sự chia tay đột ngột của Toan ngày trước.
* * *
Thời gian là thứ gì đó mà tôi không định hình được. Hình như tôi bắt đầu nhiễm thói đam mê các kiểu tóc từ Hoan. Tôi gọi điện cho nó chừng tháng sau:
- Tụi mình đi Lan Anh nha?
Trả lời tôi là giọng nói ngái ngủ của Hoan:
- Thôi! Bà đi đi! Tui mệt!
Tôi nổi cáu:
- Này! Ngày xưa bà chẳng suốt ngày rủ tui đi làm tóc là gì?
- Nhưng… Tui đang mệt. Bà đi một mình đi…
Câu trả lời như một gáo nước lạnh khiến tôi nổi quạu.
- Này! Đồ quỷ… Bà vừa vừa thôi nha…
Tôi nói và dập máy. Và… Tôi chợt nhận ra, mình nhiễm cả cách nói chuyện bụi bặm của Hoan.
Tôi đến tiệm Lan Anh một mình. Thấy tôi, Lan Anh hỏi:
- Hôm nay chị đi một mình à? Chị Hoan mô?
Tôi trả lời buồn bã:
- Nó ở nhà và đóng cửa làm đẹp rồi…
Sau hai tiếng, tôi đã có mái tóc xoăn bồng bềnh màu hạt dẻ của nghệ sĩ Diễm Hương. Tôi nhìn mình qua gương. Hình như tôi đẹp hơn? Bất chợt, tôi lại nghĩ tới Toan. Toan đã về và đang ở nhà. Nếu tôi về…, Toan sẽ nghĩ gì khi gặp tôi với mái tóc này nhỉ? Mà cũng đã gần hai năm, tôi chưa về nhà rồi còn gì.
Trở về, tôi gọi điện cho Hoan khi đã mười giờ đêm. Hoan ngạc nhiên khi tôi nói rằng, tôi sẽ về quê:
- Sao bà bảo Tết bà mới về! Còn nhớ Toan à…
Tôi ngắt lời nó:
- Tui nhớ nhà!
- Thật không đó? Mà khi nào bà về?
- Thật chứ giỡn à? Sáu giờ sáng ngày mai tui lên xe.
Tưởng nó sẽ nói dài hơi một chút như thói quen nhưng thật không ngờ, nó cụt lủn:
- Bà đi một mình nha! Miễn tiễn!
- Biết rồi!
Tôi cúp máy mà lòng buồn như người mất của. Sự vắng mặt của Hoan trong đời sống hàng ngày khiến tôi hụt hẫng. Và tự nhiên, tôi thấy ghét lão Ngự. Chẳng biết lão có đem hạnh phúc đến cho Hoan như đã hứa?
* * *
Sau hơn hai mươi tiếng mệt mỏi trên chuyến xe giường nằm, tôi đã về gần đến nhà. Ngã ba Cầu Ngang đây rồi! Tôi xuống xe, vào quán nghỉ tạm. Vừa rót nước, chị chủ quán vừa trả lời khi tôi hỏi về giờ xe đến:
- Em đi đã lâu không về hả? Hơn năm nay chẳng có tuyến xe chạy về các xã nữa. Họ dẹp tiệm rồi! Lỗ vốn mà…
Tôi chợt thấy lòng man mác buồn. Phải! Mới đó mà tôi xa quê cũng gần hai năm. Ngần ấy thời gian. Nỗi nhớ dai dẳng kéo tôi qua những giấc mơ hoang hoải có bóng hình cây cầu nhỏ và giọng nói thô mộc của Toan.
Bây giờ về, tôi thấy mình như kẻ có lỗi trước những đổi thay lạ lùng ấy.
Cánh đồng lúa trước mặt tôi đã chuyển sang màu vàng ươm. Vụ thu hoạch cận kề, lác đác trên đồng xa là những bóng nón trắng. Chắc giờ này mẹ tôi cũng đang còng lưng trên 5 sào ruộng. Một mình mẹ đã tảo tần nuôi hai chị em tôi. Vậy mà… Tôi bỏ mẹ, bỏ làng quê yên bình để đi tìm một bóng hình xa ngái.
Chị chủ quán lại rót thêm nước vào cốc:
- Nếu em có người nhà thì gọi điện đến đón, còn không thì đợi. Lát nữa, anh nhà chị sẽ chở em về.
- Dạ! Nhà em chẳng có ai chị ạ!
Tranh thủ lúc chờ chồng chị chủ quán, tôi để hành lý bên chiếc bàn con rồi ra phía sau nhà.
Từ đây, nhìn về phía làng xã tôi, con đường nhỏ vừa mới đổ nhựa quết một vệt đen thẫm ngoằn ngoèo chạy qua cánh đồng lúa rồi hun hút tầm mắt. Quê tôi thật đẹp. Đẹp như một bức tranh. Vậy mà đến giờ này tôi mới nhận ra điều ấy.
Từ xa có chiếc xe máy đang chạy về phía tôi. Trên xe là một người đàn ông. Chiếc xe rẽ vào cổng quán nước. Tôi tò mò trở vào sân. Tôi đứng sững. Tim tôi rộn lên. Đó chính là Toan. Toan già dặn, phong trần trong chiếc áo thun màu cánh gián và chiếc quần zin đã cũ. Thấy tôi, Toan chững lại một chút rồi nở nụ cười thật tươi:
- Anh xin lỗi vì đến trễ… Hành lý em đâu để anh đưa ra xe…
Tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng rồi nghĩ lại, tôi chợt hiểu ra. Tôi thấy mình như kẻ lạ nên nhấm nhẳng:
- Ai cần mà anh đi đón?
Giọng Toan mềm đi:
- Thôi mà! Tính lên xe. Anh chở về kẻo mẹ mong.
Tôi xách giỏ quyết định đi bộ. Toan chèo kéo dắt xe theo sau. Cả một cây số, Toan cứ vừa đi, vừa năn nỉ, còn tôi, muốn tỏ rõ sự cứng rắn. Tôi còn ngồi bệt xuống vệ đường. Nhưng rồi, cuối cùng, tôi cũng chịu lên xe để Toan chở về. Toan chẳng có vẻ bực tức, cứ líu lo hỏi chuyện suốt!
Mẹ đón tôi ở cổng nhà. Không kịp hỏi gì, tôi nhảy từ trên xe xuống, lao đến ôm lưng mẹ. Tôi khóc hu hu như đứa trẻ mà quên cả Toan lúc đó đứng lặng nhìn. Khi tỉnh lại thì Toan đã bỏ về tự bao giờ. Mẹ mắng khi lau nước mắt cho tôi:
- Cha mẹ cô. Nó lại về rồi đấy!
- Mẹ cứ mặc kệ anh ấy.
Tôi nhìn sang nhà chị Tâm và hỏi:
- Chị Tâm đi làm rồi hả mẹ?
- Nó vừa ra đồng.
Nói rồi mẹ thở dài.
Tôi chợt nhớ tới cha ngày còn nằm viện. Năm đó, tôi đang học lớp mười. Chị Tâm vừa nghỉ học. Toan ngày nào cũng đèo mẹ tôi từ nhà lên bệnh viện để chăm cha, rồi sáng hôm sau lại đèo chị tôi lên thay mẹ. Giờ thì cha tôi đã về với ông bà tổ tiên…
Tôi rửa tay chân rồi sau đó, quỳ gối trước bàn thờ cha, nước mắt rơi lã chã. Cha nhìn tôi, bao dung độ lượng.
* * *
Tôi theo mẹ từ đồng về nhà cũng đã chập tối. Mẹ vào bếp lo bữa cơm tối. Tôi định gội đầu, sau đó sẽ sang nhà chị Tâm. Tôi múc mấy gàu nước đổ vào chậu rồi xõa tóc. Những lọn tóc xoăn của tôi bị rối bù lên vì gió. Vừa gỡ tôi vừa nhìn sang phía bên kia hàng rào. Nhà Toan cách đó không xa.
Một bóng người lấp ló sau bụi dâm bụt được cha tôi đan kết thành dãy hàng rào từ mấy năm trước. Dù nhìn chưa rõ nhưng tôi đoán chắc là Toan.
Đã hai hôm mà Toan cũng chưa dám gặp và nói chuyện cùng tôi. Tự nhiên, tôi nhìn sang đống củi đã vơi đi gần hết và nghĩ, thế nào chiều mai, Toan cũng sang để xin mẹ được chẻ củi giúp.
Trong chuyện của chúng tôi, Toan là người có lỗi. Toan bỏ đi với một lý do đơn giản: “Tính ở lại chờ. Anh đi làm ăn. Một thời gian anh sẽ trở về...”.
Tôi tự hỏi: Một thời gian là bao lâu? Một tháng. Một năm hay là mười năm?
Một tháng sau khi Toan ra đi, tôi cũng khăn gói theo mấy chị trong làng thực hiện cuộc trường chinh Nam tiến mặc cho chị tôi ngăn cản và mẹ cứ nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Những gáo nước mát lạnh làm tâm trí tôi như tỉnh hơn. Nước dầu gội làm mắt tôi cay xè. Tôi quờ tay về phía vại nước, mò mẫm tìm cái gáo. Tiếng bước chân, rồi một gáo nước giội lên đầu tôi, từ từ, nhẹ nhàng. Có lẽ mẹ từ bếp vừa ra tới. Tôi khoan khoái thụ hưởng cái mát lạnh chạy từ đỉnh đầu lan xuống mắt, xuống má, xuống cằm rồi hỏi bâng quơ:
- Củi đun cũng gần hết rồi mẹ nhỉ?
- Ừ… Em và mẹ cứ dùng thoải mái, mai anh lại sang chẻ tiếp.
Tôi giật mình vì đó là giọng của Toan.
- Tính làm tóc từ khi nào?
- Từ khi nào thì kệ người ta! Liên quan gì…
- Có chứ! Anh không phải bê ghế cao ra đầu hè cho ai đó ngồi nữa!
Vừa nói tôi vừa giành lấy cái gáo từ tay Toan. Toan cầm lấy cái gàu múc nước:
- Thôi được. Tính cứ việc! Anh sẽ múc tiếp…
Cứ thế, tôi múc ra còn Toan cứ đổ vào. Một chốc thì nước tràn khỏi vại, chảy ào ào dưới chân tôi. Toan buông gàu nước và ngồi xuống bên tôi.
Im lặng.
Đột ngột Toan hỏi:
- Tính! Bao giờ em mới chịu tha thứ cho anh?
Tôi im lặng thả gáo nước vào chậu rồi lao vào nhà. Toan chạy theo:
- Tính nói đi! Bao giờ?
Tôi ngoái đầu lại:
- Em đã thay đổi rồi!
Toan nói giọng buồn buồn:
- Tính! Em… có người khác rồi phải không?
Tôi vào buồng và đóng cửa mặc cho Toan ở ngoài gọi mãi.
Phải hai tuần tôi mới chịu nói chuyện với Toan. Toan vui lên trông thấy. Mỗi ngày anh đều sang nhà tôi, lúc thì giúp mẹ ôm củi vào bếp, lúc lại giúp tôi xách nước, tưới rau… Toan hỏi tôi, tại sao hôm trước tôi lại nói rằng tôi đã khác xưa, đã thay đổi? Tôi xù mái tóc của mình lên rồi bắt Toan nhìn mình. Đó! Anh thấy em khác xưa chưa? Em không còn là Tính tóc dài ngày xưa nữa! Toan cười ngặt ngẽo: Làm anh hết hồn! Dù có thay đổi thế nào thì em vẫn là cô bé của anh ngày trước. Thật không? Một ngón tay tôi đưa lên. Toan móc một ngón, kéo về phía mình và nói:
- Anh luôn thích em nhưng dù sao…
- Nhưng sao? Tôi cắt ngang.
Toan ghé vào tai tôi và nói nhỏ: Anh vẫn thích em để tóc dài hơn! Tôi nguýt dài và kéo tay anh…
Tôi còn định hành hạ anh thêm một thời gian nữa nhưng xem ra trái tim tôi không thể tiếp tục khi nhìn vào đôi mắt rực lửa như muốn thiêu đốt, đôi môi đang cháy niềm khát khao.
Tôi thèm được một mình bên anh. Và rồi… Tôi đã run rẩy trao cho anh nụ hôn đầu tiên sau gần hai năm xa cách.
Có thể ai đó sẽ không tin lời tôi nói, nhưng sự thật, lúc này tôi mới được nếm vị ngọt của tình yêu. Có lẽ vị ngọt ấy đã chín qua hai năm dài ấp ủ. Vì yêu Toan, tôi chẳng còn chất vấn anh về lý do mà anh ra đi.
Toan đưa cho tôi mười triệu, nói là tiền anh dành dụm để lo đám cưới. Tôi bảo:
- Em có cần tiền của anh đâu! Em chỉ cần có anh thôi!
Định bụng về nhà một thời gian rồi lại vào nơi làm việc nhưng giờ thì tôi đã thay đổi ý nghĩ. Tôi sẽ ở nhà với mẹ và Toan.
Tôi gọi điện cho Hoan và biết, Hoan đã sinh một chàng quý tử cho người đàn ông ấy. Chắc chắn là Hoan chẳng còn thời gian để dành niềm đam mê cho những kiểu tóc… Còn tôi, tôi cũng tự hứa với mình sẽ để tóc dài, dài đến đầu gối cũng được. Tôi chỉ muốn mình mãi là cô gái chân quê mộc mạc dễ thương trong mắt Toan mà thôi!
Truyện dự thi: Đường hoa
Nguyễn Hải Yến
Nghe tiếng con Lan Nhặt gào thất thanh từ đầu ngõ, Lợi quẳng bát cơm vừa đưa lên ngang mồm, chưa kịp quay đầu lại thì đã bị nó nhảy thốc qua hai bậc thềm vào giữa bếp, túm chặt lấy tay, lôi xềnh xệch ra ngoài, may mà vớ được cái cột nhà ngang, gồng người đu lại chứ không đã bị xách ra tận đầu ngõ. “Hượm đã! Có chuyện gì?”. “Anh ơi chết rồi…”. “Ai chết?”. “Anh Khởi…”.
Lợi nhũn cả hai chân, may có con Lan xốc nách chứ không đã tuột xuôi theo cột, nằm một đống dưới hè, ngắc mãi mới thành tiếng: “Cái gì? Chết lúc nào? Làm sao mà chết?”. “Ai cơ?”. “Thằng Khởi chứ ai…”. “Không phải! Anh không ra nhanh anh ấy mí chết…”.
Lan Nhặt là vợ thằng Khởi Tồ - bây giờ là Chủ tịch xã Đoàn Văn Khởi, thằng bạn nối khố của Lợi suốt từ năm bốn tuổi, tính từ ngày hai đứa cùng bị lôi đến lớp mẫu giáo xóm ngay đống Mả Da. Lên tận cấp III ngoài huyện, ngày nào Khởi Tồ to cao lừng lững cũng đèo Lợi Ròm như bố đèo con đến trường trên chiếc xe đạp cởi truồng, phanh bằng tông bánh trước.
Nhưng cũng có một thời gian dòng đời xô đẩy hai đứa xa nhau. Tốt nghiệp, Lợi theo lời bố thi đại học. Khởi cũng đi cùng cho nó oai. Sau chuyến lên thủ đô, Khởi vác về ba môn nhõn một điểm. Tháng 9 năm ấy, hai đứa chia tay. Lợi vác cái hòm tôn lên Hà Nội làm kiếp sinh viên cơm đường cháo chợ. Khởi nghe theo lời ông đại tá – bố nó - vác ba lô lên đường nhập ngũ. Thoát ách chữ nghĩa, nó đâm chững chạc, ăn nói đâu ra đấy: “Mày nhìn vụ 11 tháng 9 vừa rồi chưa? Chỉ nay mai là chiến tranh thế giới thứ 3. Làm thằng đàn ông mà không qua trận mạc, không biết cầm súng bảo vệ Tổ quốc thì còn ra con mẹ gì.”.
Nhưng chiến tranh thế giới thứ 3 chưa kịp nổ ra thì Khởi đã hoàn thành nghĩa vụ. Sẵn bằng B1 được học trong quân ngũ, nó đi phụ xe khách liên tỉnh. Một chiều vắng khách, xe về đến bến cuối mới phát hiện ra một đứa con gái vẫn ngủ lăn trên hai chiếc ghế trống. Gọi dậy, nó ngơ ngác nhìn quanh rồi giẫy lên đành đạch, tru tréo sao không gọi nó dậy. Nó đã dặn rồi cơ mờ. Nó phải xuống cách đây 40 cây mới bắt được xe về. Con bé ngồi uỵch xuống đường, cứ túm chặt ống quần Khởi mà khóc. Khởi phải dỗ mãi, bảo thôi tối rồi, giờ về nhà nó ở tạm, đừng sợ, bố nó là đại tá về hưu, mẹ là nông dân, sáng mai nó đưa lên bến sớm, mua vé cho mà về, cứ bình tĩnh, làm gì mà rộn…
Con bé ấy là con Lan. Tục gọi là Lan Nhặt.
Khi Lợi vác cái bằng tốt nghiệp chuyên ngành Quản lí xã hội đi quẹn gót khắp nơi không xin được việc phải quay về tiếp tục nghề ăn bám thì hai đứa ấy đã thành vợ chồng, đã có quán “Lan Khởi – Tiết canh cháo lòng” ngay trước cửa nhà, chỗ ngày xưa là cái hè với cái rãnh nước thải kiêm nhà vệ sinh công cộng của lũ chó thả rông và trẻ con hàng xóm. Ông đại tá bảo chúng mày làm tạm cho quen khách đã chứ công tác tổ chức và chiến lược phát triển phải giao cho thằng Lợi. Thằng ấy học giỏi. Lại đúng chuyên ngành. Thế là cái quán tạm bán mái có hai cánh cửa gỗ - hai cái chuồng nuôi mọt long như răng bà lão – và lũ bàn ghế gỗ tạp đen sì cáu mỡ với cứt ruồi bị phá bung ra mở sâu vào tận bên trong. Lợi bảo phải có quầy đứng, tủ kính đựng thức ăn cho hợp vệ sinh. Tủ thôi, không cần cánh, mở ra đóng vào khỏi bận tay. Bàn ghế inox tuốt nó mới sáng choang choang. Đã là quán ăn, phải đặt vệ sinh an toàn thực phẩm lên hàng đầu. Phải có khẩu hiệu hai bên tường. Phải đổi cả tên quán…
Lợi bảo gì Khởi nghe theo răm rắp, không bao giờ dám quyết một mình bởi cái gì Khởi làm một mình cũng hỏng. Tỉ như cái biển hiệu, hôm thợ xuống giao hàng, nhìn tên quán: “Tráo phải nòng” Lợi bắt đền, mày viết sai chính tả rồi. Nhưng thằng thợ ngoen ngoẻn cãi anh Khởi viết dư nào em làm y thế. Giấy em còn giữ đây thây. Gấp giờ khai trương, Lợi bảo thôi đành treo tạm. Ấy thế mà thành thương hiệu khiến khắp xa gần cũng đua nhau thay biển đổi tên. Khởi giao hẳn quán cho Lợi và con Lan quản lí để tập trung vào học. Làm gì cũng phải có bằng cấp. Chọn hẳn chương trình học cấp tốc cho tiết kiệm thời gian.
Vậy là chỉ sáu tháng sau, giữa tường nhà Khởi, qua bậc hè bước vào cửa chính ngước nhìn lên, đập vào mắt là hai tấm bằng tốt nghiệp ép dẻo, lồng khung kính mạ vàng. Bằng Trung cấp Thú y từ xa và Đại học tại chức chuyên ngành Quản lí xã hội. “Tôi tính, đợt tới ông giúp tôi làm thêm cái thạc sĩ. Cả vùng chưa ai có…” – Khởi nói với Lợi thế. “Nhưng phải qua đận này, bấn bíu quá! Vắng tôi một ngày nhẽ loạn. Thời buổi phải nhanh, phải thoáng chứ cứ như các bố nhà mình nông dân cò con năm xu một xèng thì bao giờ mới thành người.”.
Khởi nói đúng.
Không có Lợi và Khởi, Quyết Tiến còn lâu mới tiến hóa thành người.
Ấy là nguyên văn câu của đạo diễn Báttô Trần khi về thực địa làng Chè để chuẩn bị cho dự án xây dựng phim trường cổ trang lớn nhất Đông Nam Á.
***
Cách đây hơn năm, tại khách sạn Đồng Xanh trên thành phố, trong hội thảo “Cùng nhau bàn cách làm giàu”, Khởi đặc biệt chú ý đến một người, không trẻ lắm, mặc bộ comle body xanh cổ vịt, cổ khư khư khoác cái máy ảnh Nikon nòng đen sì lúc nào cũng giương lên như nòng đại bác, ngồi bàn khách VIP nhưng mắt cứ lộn rồng rồng, thỉnh thoảng vẫy tay, ngay lập tức, sau cánh gà, hai thỏi bột trắng lập tức xuất hiện, kính cẩn thưa anh cần gì. Đó là hai đại mĩ nhân, trên dưới đánh trần, khúc giữa lồng trong một ống vải màu, bó chịt vào người cho khỏi tụt.
Trong tiệc chiêu đãi, hắn xin phép ngồi cạnh Khởi và Lợi, giới thiệu tôi là Báttô Trần – đạo diễn – vừa bên Ý về. Rồi xuýt xoa tôi phục hai ngài sát đất. Tuổi trẻ tài cao. Chỉ mấy năm các ngài làm mà hôm nọ về Chè tôi tưởng đi nhầm. Các ngài đã nâng tầm vóc xã nhà lên sánh vai với các chòm xóm năm châu. Nhẽ ra Quyết Tiến phải đúc tượng hai ngài thờ làm Thành hoàng mới phải. Không có các ngài, nó cứ hố xí gio, cầu tõm thì còn lâu mới tiến hóa thành người.
Cũng trong bữa tiệc hôm ấy Lợi mới biết hai thỏi bột trắng không phải tự nhiên mà có. Kiều Anh và Kiều Trinh là hai nữ diễn viên điện ảnh đóng vai chính trong “Tình khúc Tần Vương” nói về mối tình giữa Tần Thủy Hoàng với một cô gái nước Việt. “Vơnidơ mùa này nước cạn, cảnh vừa bơi thuyền rồng vừa múa kiếm là cảnh đinh, không thể đóng bừa vậy nên tôi mới cho chúng nó tạm nghỉ, về qua nhà một tí. Không có phim trường cổ trang chuyên nghiệp khổ thế. Phải thuê tận bên ấy. Các ngài cứ lên mạng, gõ tên đạo diễn Trương Nghệ Mưu. Phim này tôi hợp tác với ngài ấy đấy. Đây, tôi cho các ngài đường link xem đoạn trailer. Hoàng tráng lắm. Mà không phải chỉ có Việt Nam mình, bọn châu Á muốn làm cổ trang tầm vóc đều phải sang đấy cả. Thấy tiền chảy đi mà xót. Giá kể nước mình cũng có một cái như thế thì dân ta chỉ cần ngồi xé vé với bán nước cũng giàu ngang với thằng Qatar. Nói thật, tôi đang tìm đất đầu tư xây phim trường cổ trang lớn nhất Đông Nam Á. Cứ hút bọn trong nước với Lào, Camphuchia cũng đếm tiền mờ mắt. Cái khó là tôi tuổi Mùi thuộc âm, phải tìm người tuổi Hợi mới “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Lại còn phải là người có trí tuệ thâm sâu, tính toán như thần. Phải tìm đất hợp phong thủy có sông mới hanh thông, có bãi mới phát hậu. Đợt này về phải đi xem mấy nơi. Tối nay nhẽ tôi bay vào Huế”…
Tim Khởi đập uỳnh uỵch. Khởi vừa há mồm định nói, bắt gặp cái lừ mắt của Lợi liền ngậm ngay vào, nuốt nước bọt đánh ực. Không hiểu thằng này nghĩ gì, món hời như thế mà dửng dưng như chó thấy chè. Quyết Tiến mà chộp được dự án này thì chẳng mấy chốc lên thành phố. Nhưng Lợi đã im thì phải có lí do. Ngày xưa, khi Khởi rủ “ra xã với tao”, Lợi bảo làm cán bộ phải tướng mạo hiên ngang, phải biết nói cho cua bò ngang quay sang bò dọc như mày chứ tao thì chỉ làm hậu phương yểm trợ… Rồi từ ngày ấy, ẩn hình gửi bóng dưới gốc đa ngã ba làng Chè là một cao nhân, cả ngày đứng sau quầy băm băm thái thái những mỡ với dồi mà vẫn giữ được dáng người tao nhã như con nhái bén nằm trong lò sấy. Tất cả các mệnh lệnh phát ra từ vị quân sư này đều trực tiếp làm thay đổi cục diện làng Chè như Khổng Minh làm thay đổi cục diện nước Tàu, hình thành thế chân vạc mấy nghìn năm về trước.
***
Hôm nay cũng thế.
Từ lúc về, Khởi ngồi chầu hẫu, dán mắt vào máy tính chờ Lợi. “Dự án tầm cỡ quốc gia như này không thể vội vàng. Phải tìm hiểu, kiểm tra kĩ mới quyết định được. Thời buổi nhiễu nhương... Để tôi gõ Trương Nghệ Mưu. Đúng đạo diễn nổi tiếng. Để xem Báttô Trần? LêvănBáttô chủ tịch hội đá gà đang ở trên phâybúc. Thuốc lá Báttô… Sao không thấy nhỉ? À! Tên thật Trần Bát. Đây rồi! Trẻ hơn ngoài đời nhỉ. Xem đoạn chailờ nào! Hoành tráng thật. Ông nhìn xem có phải con bé mặc váy đỏ bịt mặt đứng trên ngọn tre đánh kiếm kia là em Kiều Trinh không. Này! Dự án thật này. Để tôi đọc…
Im lặng…
Không nghe cả tiếng thở lẫn tiếng ruồi bay…
Cho đến khi: “Được đấy ông ạ. Cấp độ rủi ro bằng không”.
Khởi vồ lấy điện thoại. Năm hồi mười réo bên kia mới trả lời. Bảo đang làm thủ tục bay, ồn quá. Phim trường hả? Tôi đang vào Huế đây. Cái gì? Quyết Tiến kêu gọi đầu tư á? Điều kiện đáp ứng đủ hả? Thế để tôi về xem sao.
Đúng hai tiếng sau, vào lúc nhập nhoạng tối, một chiếc xe bảy chỗ xuất hiện ở ngã ba làng Chè. Cửa mở, đạo diễn kiêm chủ đầu tư Trần Bát bước ra kèm ba tùy viên hộ tống. Một áo dài âm dương bát quái đeo kính đít chai đen cầm theo cái la bàn và quyển sách tướp mép rặt chữ nho. Một sơ vin đóng thùng sơ mi trắng ôm khư khư đống giấy A0 đặc hình vẽ. Và cuối cùng là một hình nhân nhái bén, tóc xù tung như quạ đánh, xách theo cái laptop. Sau này mới biết đó là thầy phong thủy, kiến trúc sư và chuyên gia vi tính. Dân làm ăn chuyên nghiệp, đi đâu cũng khác người thường.
***
… Mới lửng buổi mà nắng đã om như trong lò nung. Mồ hôi chảy tòng tòng dọc rãnh sống lưng xuống tận cái cạp quần đùi chun màu tím cà của Lợi. Con Lan đã thôi kéo tay nhưng lại chuyển sang túm chặt cả vạt áo may ô lẫn cạp quần. Lợi bảo mày bỏ ra, đứt chun bây giờ, tao có bay mất đâu, nó nhất định không nghe, càng lôi tợn, gió cứ thông thống lùa từ trên rốn xuống tận dưới đầu gối. Rồi ngoắt một cái, nó rẽ vào cái lối mòn, ngày xưa dẫn vào dãy chuồng trâu nhà Minh Thẩn: “Tránh Đình Văn Hóa trung tâm. Mọi người tập trung ở đấy. Họ chặn lại bây giờ là chết…”.
… Đoàn khảo sát thực địa về Chè tối hôm trước, hôm sau đã cùng đại biểu các tầng lớp nhân dân họp phiên toàn thể. Từ thủa cha sinh mẹ đẻ, chưa bao giờ ở Chè lại có cuộc họp vừa nghiêm túc lại vừa hấp dẫn thế. Hôm ấy nhằm ngày hạ chí, bước qua khoảng sân bê tông nắng quật tối sầm cả mắt, mỗi đại biểu vừa thò đầu vào cửa Đình Văn Hóa đều được phát một tập dự thảo mang tên “Quyết Tiến cổ phim trường” kèm phong bì 200.000, gọi là nhuận đọc.
“Làm ăn với tổ chức chuyên nghiệp, ta tự khắc bỏ được thói nông dân lề mề – Khởi mở đầu bằng những lời gan ruột - Để có bản dự thảo này, chúng tôi đã thức trắng đêm qua. Tất cả những gì được nói sau đây đều là vì chúng ta. Vì những người nông dân làng Chè. Vì một Quyết Tiến đổi mới. Giờ tôi xin nhường lời cho chủ đầu tư đồng thời là nhà đạo diễn phim lừng danh thế giới - Ngài Báttô Trần!”.
Nhạc nổi lên, trầm hùng lời mới trên nền nhạc Huy Du cũ qua giọng hát Phong Ca – bí thư Đoàn kiêm thư kí riêng của Khởi: “Chè ta trên đường tới tương lai. Nghe gió nổi từ sông quê phơi phới. Nghe đất chuyển, toàn dân ta Quyết Tiến không lùi…”. Trên màn hình làng Chè hiện ra rõ như trưa tháng sáu lồng trong cảnh phim trường cổ trang 3D y như thật. “Trong quy hoạch, phim trường của chúng ta sẽ nằm ở những vị trí này. Xin cho tôi được dùng từ “chúng ta” vì từ bây giờ những gì chúng tôi làm là vì Quyết Tiến. Nó sẽ có một cơ sở hạ tầng mà tất cả các cái làng trên thế giới này nằm mơ cũng không thấy. Ngoài này, bãi sông sẽ thành bãi chiến trường. Lòng sông sẽ thành bãi cọc. Lau sậy sẽ quy hoạch mọc vào đúng vị trí. Các thuyền đánh cá sẽ nâng cấp thành thuyền chiến. Còn phía trong, chúng ta sẽ có từng khu với chức năng chuyên biệt. Đây là dãy chuồng trâu gần đống Mả Chằm nhưng vài tháng nữa sẽ thành bối cảnh làng quê thuần Việt với nhà gianh vách đất, cây rơm đụn rạ. Cạnh đó là kinh thành với phố xá ngựa xe, thành quách lâu đài… Về nhân lực tham gia xây dựng, chúng tôi ưu tiên người địa phương. Lương thỏa thuận. Chỉ một thời gian nữa thôi, các vị không ngồi trên ghế như này mà ngồi trên tiền. Kế hoạch cụ thể chúng tôi sẽ bàn với các ngài có thẩm quyền tham gia dự án.”.
Gọi là “các ngài” nhưng thực chất chỉ có Khởi và Lợi toàn quyền quyết định. Ngợi Chủ tịch chỉ còn vài tháng là về chế độ, bảo các chú cứ tùy mà quyết, tôi giờ giấy tờ viết lách thấy khó rồi, mở máy tính chỉ thấy mỗi chơi phây là dễ. Hay các chú cho tôi giữ chân quảng bá bằng hình ảnh. Tôi chụp điện thoại, tung lên, gắn bọn con Chi, thằng Khánh vào thế là ai cũng biết. Chúng nó lắm bạn bè, tuyền bọn trẻ. Có khi lại kéo về chụp hình thì càng nhanh nổi tiếng. Cái bãi đá sông Hồng đấy thôi, ngày xưa chả là cái bãi hoang là gì. Thế mờ giờ thu 50.000 một vé vào. Mờ có vài cái bông hoa. Làm gì mà rộn…
Lợi suýt nữa thì chồm dậy khi nghe đến cái bãi đá sông Hồng: “Tôi có ý này, giờ bàn rồi thống nhất để làm văn bản giấy tờ. Theo Ngài Báttô, chúng ta thành lập công ty “Quyết Tiến cổ phim trường”, Ngài là chủ đầu tư nhưng chỉ xin giữ chức Phó giám đốc phụ trách kinh tế…”. “Đúng thế! Giám đốc phải trực tiếp quản lí, điều hành. Tôi đi nước ngoài liên tục. Việt Nam mình vẫn còn lạc hậu, không thể điều hành qua mạng. Cứ phải người thật. Đây là trọng trách không phải ai cũng cáng nổi. Quản lí thay tôi còn ai hơn ngài chủ tịch đây. Nhất là khi sau ngài còn có một Khổng Minh tái thế…”.
Lợi trầm ngâm nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. Mãi mới ngẩng đầu lên: “Nếu công ti chúng ta không chỉ cho thuê phim trường mà kinh doanh thêm dịch vụ du lịch thì sao? Sẵn cơ sở vật chất thì tổ chức luôn những tour tham quan trải nghiệm. Nhiều nơi hoạt động cái này hiệu quả lắm. Chỗ Yên Đức, Đông Triều đấy! Chỉ quanh quẩn mấy cái ao, cái vườn mà ra tiền. Huống hồ mình có cả một phim trường… Ý mọi người thế nào?”.
Trong khi Khởi và tứ trụ triều đình xã vẫn đang há hốc mồm kinh ngạc thì Trần Bát hồi tỉnh nhanh nhất, ngay lập tức quỳ sụp xuống nền gạch, vái lấy vái để: “Ngài là thánh sống chứ không còn là người. Thế là ngày ngày, ngoài vé vào tính theo đầu người, dân ta chỉ cần làm dịch vụ thôi cũng hái ra tiền, xiên ra bạc. Hướng dẫn viên, cho thuê đạo cụ, trang phục, ăn uống, làm Hômsờtay. Khách xa, ngày đi chơi, tối đến ở lại, ăn ngủ với chủ nhà… Tiềm năng kinh khủng lắm. Tôi cũng không lường hết được…”.
Khởi ngạc nhiên: “Sao có kiểu du lịch hôm mới sờ tay, tối đã ngủ với chủ nhà? Còn gì là thuần phong mĩ tục?”. “Không phải thế! Hômsờtay là tiếng Anh, là kiểu khách đến tham quan rồi nghỉ lại nhà mình. Rồi mình thu tiền. Nhưng muốn thế, phải đầu tư, phải biến phim trường cổ trang thành mê cung làng Việt để du mải khách chơi không biết đường về”.
Khởi gật gù: “Thì mình bổ sung thêm dự án: “Du lịch tìm về nguồn cội”. Những gì làng Việt xưa có, giờ ta phục dựng lại hết. Sẽ đào ao thả cá sắm lưới vó te chài, làm chợ quê tuyền cột tre mái rạ, mua trâu bò về cho du khách chăn thả, cày bừa cấy hái, xay giã giần sàng, cuốc xới trồng trọt, nấu nướng bằng củi rơm rạ trấu …”. Thầy phong thủy giơ tay phát biểu: “Vậy nên có thêm dịch vụ trông cây, nuôi con hộ du khách. Nhân tiện có trâu bò chăn thả, mình cho thuê gầu hót mí lại túi ni lông để khách nhặt phân, rồi trồng cây. Mình bán con giống, gà vịt ngan ngỗng trâu bò mới nở, khách muốn nuôi con nào cứ chọn. Mình nuôi thuê, trồng thuê rồi hẹn ngày về thu hoạch. Đấy cũng là cách để khách quay trở lại”.
“Hay đấy! Nếu thế thì phục chế luôn cả hố xí gio và cầu tõm. Du khách vừa được tự tay khai thác phân bón hữu cơ, vừa được trải nghiệm một hình thức sinh hoạt dân dã, gần gũi với thiên nhiên đang có nguy cơ mai một. À mà làng mình có nghề cổ truyền nào không thưa ngài?”. “Nghề thợ xây. Làng tôi đàn ông con trai cứ học xong cấp hai là kéo nhau đi phụ vữa. Lâu ngày thành thợ xây hết lượt”. “Không. Ý tôi là nghề tổ tiên truyền lại, có giá trị văn hóa cơ!”. “Cái này có khi phải hỏi ông trưởng tộc nhà tôi. Mà sang tuần chúng tôi kị nhà Tổ. Mời ngài và các anh tham dự cho mọi người trong họ xa gần diện kiến”.
“Thế ta kết hợp luôn giỗ Tổ với lễ ra mắt Công ti phim trường và Hợp tác xã dDu lịch…”. “Sao lại chỉ là Hợp tác xã? Phải là Công ti chứ?”. “Cái này thì xin các ngài nghe tôi! Mình đang xây dựng nông thôn mới, Hợp tác xã du lịch là một tiêu chí ngoại hạng. Đề án này chắc chắn sẽ được ưu ái đặc biệt, làm gì cũng dễ, kể cả xin giấy phép thành lập hay vay vốn. Còn cái phim trường, chờ ông ủy ban tỉnh phê duyệt cứ phải ba tháng giở ra. Rồi các ngài xem! Vả lại, mình ở quê, gọi hợp tác xã, xã viên thấy nó bình dân, thấy cứ như ngôi nhà chung mà ai cũng là chủ, thế là trên dưới một lòng cùng nắm tay kéo nhau về phía trước…”.
***
Lễ ra mắt hôm ấy có cả nhân viên phục trang. Đúng sáu giờ không sai một khấc là có mặt ở sân Đình Văn Hóa. Rồi nhoáy một cái, ở nhà trưởng tộc, khi Ngợi Chủ tịch vừa tợp được hớp chè, mở phây cập nhật tình hình thời sự trong nước và quốc tế, đã thấy chình ình trên tường một đại mĩ nhân khoác triều phục Hoàng hậu, chễm chệ trên cái ghế có hai tay ngai chìa ra như ngai thờ, mặt mũi chân tay chỗ nào hở ra là trắng nõn như nhúng qua thuốc tẩy. Nhìn lòi mắt chả thấy nét nào quen liền bảo chú Khởi, xem con yêu tinh nào sáng sớm đã hiện hình. Khởi lướt lên lướt xuống một hồi rồi đập tay xuống đùi đánh bốp: “Úi giời ơi! Bác gái đấy thôi! Chụp ở phim trường nhà mình đây thây! Cập nhật trạng thái Đang cảm thấy thật phong cách đây thây!”. “Sao kinh thế! Không nhận ra nữa!”. “Thế mới gọi là cổ trang. Là trang điểm, ăn vận như người cổ đại. Mình có sống với người cổ đại đâu mà nhận ra. Nhỉ ông Lợi nhỉ?”.
Lợi chồm dậy ngó màn hình, chỉ đạo ngay: “Bây giờ bác phải vào thả tim, rồi konmeo khen đẹp, rồi sớt ở chế độ công khai cho mọi người cùng biết. Đây này, ảnh bọn kia cũng đang lên ầm ầm đây này! Ông Khởi gọi, bảo bọn con Chi thằng Khánh ngoài ấy đăng luôn vào các hội nhóm. Để chế độ công khai hết nhá! Bảo con Huyền nai chim luôn đi!”.
Giây phút xúc động nhất trong lễ ra mắt hôm ấy chính là bài phát biểu của Khởi Phó: “Kính thưa quan viên các họ! Thưa các vị đại biểu! Chúng ta đang tiến những bước dài sấm vang chớp giật. Bằng chứng là sân Đình Văn Hóa và khu đồng Mả Da bao nhiêu năm bỏ hoang cho chuột đẻ mà chỉ vài hôm đã sừng sững những thành quách lâu đài, cung son gác tía, sáng nay lên hình ngang ngửa với Tử Cấm Thành. Tầm này năm sau Quyết Tiến ta sẽ thành một cõi đi về của các công ti giải trí hàng đầu thế giới. Thay mặt toàn thể nhân dân xã nhà tôi xin cám ơn Ngài Bát tô!”.
“Ơn huệ gì! Đây chính là đầu tư đúng chỗ. Làng ta tên cổ là Hạ Bì, là quê hương của danh tướng Yết Kiêu. Phim trường xong, chúng tôi sẽ bấm máy khởi quay “Huyền thoại Hạ Bì” dài ít nhất 200 tập, đưa tên tuổi danh tướng cùng những người nông dân chân lấm tay bùn, đầu sương mặt gió lên màn ảnh. Toàn thể diễn viên sẽ là người địa phương. Và để chuẩn bị, ta xác định phải đầu tư. Phải theo học các khóa đào tạo diễn viên vì không chỉ đóng một phim này mà còn nhiều phim khác”.
“Đúng thế! Mấy hôm nay nhiều cuộc gọi, hẹn trao đổi, đặt lịch thuê phim trường… – Lợi gật đầu xác nhận – Cứ bảo cho chúng tôi xếp số trước. Rồi còn hỏi thuê diễn viên quần chúng, đặt trang phục...”. “Ấy chết! Các ngài đừng tự ý nhận hẹn với ai. Phải có luật sư. Hẹn rồi đến lúc chuyên cơ người ta đến, chưa có phim trường hoặc các phim chồng chéo lên nhau là họ kiện ra tòa án quốc tế đấy! Họ nhà mình có con cháu nhà ai học luật không? Không thì chọn ngay vài đứa để tôi chuyển đi đào tạo cấp tốc. Diễn viên cũng thế. Mình đầu tư dàn gạo cội, sau này còn cho các hãng phim nước ngoài thuê. Như hai con bé này này...”.
Nghe nhắc đến tên mình, Kiều Trang và Kiều Trinh vội đứng dậy, khoanh tay, lễ phép kể chúng cháu cùng quê bác Báttô, ngày xưa bác ấy về quê, thấy cháu đi chăn trâu còn bạn này cắt cỏ, thương tình bảo cho đi học diễn viên. Bố mẹ chúng cháu bảo không có tiền, bác bảo tôi cho vài chục triệu để chúng nó đi học là chuyện bình thường, nhưng các anh chị nghĩ kĩ đi, tiền của nó bỏ ra nó mới xót, mới cố học nên nghề chứ dựa vào mình là hỏng. Các anh chị cứ đầu tư, cho nó vay, sau này lấy lương mà trả, thế mới nên người. Bố mẹ chúng cháu nghe theo. Mấy chục triệu tưởng là to nhưng chỉ bằng hai tháng lương của cháu thôi ạ. Bạn này thì trả được ngay từ khi chưa ra trường vì bạn ấy có hợp đồng quảng cáo với nước ngoài. Bọn cháu giờ catse vài trăm triệu một phim, chưa kể lương hàng tháng…
Tiếng xuýt xoa bốn phía nổi lên xua tan cái im lặng trọng thể nãy giờ. Con Khánh rụt rè bảo các chị đẹp thế mới làm diễn viên được chứ bọn em như này… Phu nhân Ngợi Chủ tịch cũng gật đầu: “Phải đấy! Con Vi nhà tôi giống bố, tướng đàn ông lộ cốt…”. Kiều Trinh cười: “Cô không biết đâu. Cháu với bạn này ngày xưa vừa đen vừa xấu. Làm diễn viên nó đẹp ra. Các cô chỉ cần lên vai phụ là khác ngay…”.
Lợi im lặng suốt từ đầu buổi, bây giờ mới lấy khuỷu tay huých Khởi, gật đầu. Khởi thong thả đứng lên: “Tôi xin có đôi lời tâm huyết muốn thưa. Sắp tới, Quyết Tiến sẽ không chỉ có phim trường lớn nhất Đông Nam Á mà còn có cả một Hợp tác xã Du lịch. Là cơ hội việc làm cho tất cả mọi người với hàng trăm ngành nghề. Nhưng chúng ta không thể làm ăn tự phát manh mún tiểu nông mà phải có kế hoạch để phát triển bền vững cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau. Nghĩa là phải đầu tư. Phải học. Không chỉ diễn viên chính mà cả diễn viên quần chúng, hướng dẫn viên, cán bộ quản lí, nhà bếp, bồi bàn, bảo vệ, lao công đến các hộ chuẩn bị làm Hômsờtay… đều phải qua đào tạo chuyên môn và có chứng chỉ ngoại ngữ. Việc này sẽ do Ngài Báttô và ban cán sự đảm nhiệm. Tiền học tự túc. Học xong sẽ thành người của công ti nhưng chỉ khi lĩnh lương mới được cấp bù học phí, tránh trường hợp chúng tôi mất công đào tạo mà các vị lại bỏ đi làm nơi khác. Song song với chuẩn bị nhân lực là cấp tốc hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Nó chính là những bánh răng trong guồng máy phim trường, khi khởi động cứ thế là quay, là cả tỉnh, cả nước sẽ choáng ngợp ngay chứ không mất thời gian thử nghiệm… Còn cơ sở hạ tầng là gì? Xin thưa, đó là mặt bằng xây dựng phim trường, là đường, là chợ, là nhà hàng, là các hộ kinh doanh du lịch, là nơi ăn nghỉ cho những đoàn làm phim… Tất cả đều được đồng bộ cổ trang. Ví thử như xây đường lát gạch nghiêng, trồng tre, đào ao nuôi bèo ong rau muống... Lúc trước chúng ta đã bóc hết những con đường lát gạch nghiêng để đổ bê tông, nhằm về đích trước nhất trong cuộc chạy đua xây dựng nông thôn mới thì bây giờ cũng sẵn sàng lật bê tông, phục chế một số đoạn, đào lại một số ao đã lấp để nuôi bèo… Đây không phải là cái vòng luẩn quẩn mà là một bước tiến vĩ đại của nông thôn Việt Nam thời hội nhập. Nhưng Ban chủ nhiệm Hợp tác xã Du lịch chúng tôi xin nhấn mạnh lại: Dẫu phát triển đến đâu thì vẫn phải giữ nền tảng là truyền thống văn hóa. Làng ta thời cụ Yết Kiêu có nghề đan dậm kết lờ đánh cá, chúng ta sẽ tổ chức lớp học khôi phục làng nghề để sau này dạy cho du khách, sẽ mời một nghệ nhân của làng làm giảng viên. Phần trang trí các công trình xây dựng sẽ mời cụ Tưởng – chuyên gia ba đời đắp mặt hổ phù. Và đặc biệt, tất cả các con đường vào làng, lên huyện sẽ giao cho các cụ trong Hội phụ nữ trồng hoa mười giờ. Nói thật với các vị đại biểu, với các cụ các ông các bà, mấy đêm nay tôi cứ nằm mơ thấy mình đi lang thang trên con đường nở đầy hoa. Mà không phải mơ, tôi xin cam đoan với quý vị là đường hoa ngay dưới chân mình. Là con đường tương lai rực rỡ Quyết Tiến đang dấn bước. Cứ nghĩ đến là mừng rơi nước mắt…”.
Ngài Báttô quay đi hỉ mũi vào tay áo…
Đoàn tộc và các vị đại biểu cũng sụt sùi theo…
***
Tính từ chủ nhật toàn gia ngồi khóc ấy đến giờ mới có hơn năm…
Lợi thấy sống mũi cay xồng xộc, thẫn cả người, mặc con Lan dúi đầu đẩy qua lỗ hổng bụi tre sau dãy chuồng trâu rồi lại túm cạp quần lôi tiếp. Đến khi bị cái ba lô trên vai nó xệch xuống, đập vào vai mới hồi tỉnh, hỏi đến hai lần mày mang cái gì mà lắm thế kia nó vẫn im lặng, đầu cúi gằm, chân riu ríu bước. Chỗ này um xum bóng chuối tiêu nhưng cái rãnh nước thải liu riu chảy vẫn theo nắng thốc mùi lên lộng óc. Theo quy hoạch phim trường, đây sẽ là vườn thượng uyển nhưng mới dấp tạm được ít tre và hàng dâm bụt, phía sau tiêu bản lầu hóng gió vừa mới qua một mùa nồm mà ván ép đã bung từng mảng, lủng lẳng tấm biển sắp rụng ghi dòng chữ “Nghinh Hương Đình.”. Đến khi lọt vào trong đám cỏ cú lút đầu người con Lan mới buông Lợi ra. Chưa kịp hỏi mày dẫn tao vào đây làm gì, thằng Khởi đâu thì thấy đám cỏ khô động đậy. Rồi từ chỗ ấy trồi lên một cái đầu người… Con Lan nhào đến ôm lấy cái đầu tu tu khóc nhìn Lợi: “Anh Lợi ơi! Cứu chồng em với!”. Cái đầu cũng khóc, nước mắt nước mũi ròng ròng: “Bây giờ làm gì tiếp hả ông?”.
Lợi ngồi rũ dưới chân đám cỏ, đom đóm mắt bay như sao trong đêm mùa hè mây quang gió tạnh. Rồi từ cái nền đêm ấy, làng Chè chập chờn hiện ra với bãi sông khoét đào nham nhở như bãi chiến trường, với lòng sông giăng giăng dãy cọc xi măng quét sơn đen giả gỗ, dãy lều chợ lợp lá gồi, dãy tiêu bản thành quách lâu đài đứng vêu trong gió, và sân Đình Văn Hóa lù lù cái bạt khổng lồ phủ đống xiêm y, nón mũ, thanh la, chũm chọe, giáo mác, cung tên…
“Bây giờ làm gì tiếp hả ông?”.
Khởi lại hỏi…
Con Lan vẫn khóc. Lợi bảo mày im cho tao tĩnh trí. Thế việc kia sao rồi? Khởi bảo nó lừa mình thật. Mấy chục tỉ tiền nợ. Toàn tôi kí. Đây ông xem đi…
Con Lan vồ lấy bó giấy tờ, lại tu tu. Ối giời ơi… Diễn viên chính năm mươi triệu, phụ ba mươi, quần chúng năm. Kế toán, hướng dẫn viên, bảo vệ… Học tiếng Anh. Mấy chục cái sổ đỏ ngân hàng chuẩn bị tiền làm Hômsờtay. Thế chấp quỹ đất làm dự án… Mua đạo cụ, vũ khí mỗi loại năm nghìn bộ… Ối các anh ơi… Chết thật rồi…
“Thế bây giờ mày bẩu chúng tao phải làm sao?” – Lợi không khóc nhưng nước mắt nước mũi cứ tự nhiên mà chảy. Con Lan gạt nước mắt, đứng phắt dậy, lôi cái ba lô vẫn khoác trên vai tròng vào lưng Khởi: “Em vơ được cho anh mấy bộ quần áo. Anh trốn ngay! Mọi người đuổi đến nơi rồi! Từ đây ra cổng Diện Lợn sẵn xe. Có mấy đồng… Nhớ nhắn tin… Nhanh lên!”…
Tiếng ầm ầm phía sau…
Giáo mác đạo cụ đuổi theo mỗi lúc một gần…
Nắng vẫn hầm hập rót. Trời vẫn ngằn ngặt mây. Con đường hoa đúng độ bắt đầu bung rực rỡ. Bóng Khởi với cái ba lô trên lưng xa dần rồi lẫn vào hai vạt hoa tít tắp. Đuổi theo không kịp nữa. Chỉ còn nghe tiếng bước chân con Lan vừa chạy theo vừa khóc anh đi ăn sương nằm gió, khổ thân anh quá anh ơi!
Trước khi vật xuống rệ đường Lợi vẫn còn kịp nhìn thấy nắng vàng và gió. Thấy đường hoa ngay dưới chân mình…
Truyện dự thi: Gai sen
Kim Nhũ
Cứ tầm tháng 5, đến hẹn lại lên, hoa sen trên đầm làng Yên lại nở rộ. Đứng trên đê sông Hồng nhìn xuống làng, dải đất trông tựa hình một cô gái đang ngả đầu về đầm, hai tay ôm bọc lấy làng, trên vai quàng chiếc khăn lụa. Một ngọn gió thoảng qua, chiếc khăn dập dờn bay, lộng lẫy trong sắc nắng đầu hè khoe những mảng mầu tươi xanh, trắng, hồng rực rỡ.
Làng Yên cũng là nơi nổi tiếng trong vùng vì có nhiều con gái đẹp. Gái làng Yên, da phớt hồng mịn mong manh như cánh trong cùng của loài sen trắng, môi thắm hồng như sắc màu sen đỏ. Chiều hạ, sau những ngày mệt nhoài làm lụng trên các cánh đồng, các nàng đến tắm ở góc đầm kín đáo. Đầm nước mát ôm lấy những đường cong tuyệt mĩ và làn da nõn ngần tựa ngó sen. Các cụ bảo: “Gái làng Yên, tắm ao sen, ngấm hương sen, ăn nước nguồn từ đầm sen trong vắt, ngọt mát nên da dẻ, vóc dáng đẹp tươi như thế!”.
Nổi bật trong đám gái làng có một cô gái cũng tên Sen. Cô Sen đẹp người, đẹp nết, hay lam hay làm, việc đồng áng cứ tay năm tay mười, nên đám già cả trong làng ai có con trai lớn cũng để mắt, thèm muốn Sen về làm dâu. Mẹ đặt tên Sen cho cô vì mẹ đã đẻ rơi cô trên chiếc mủng trong một sớm đi hái sen về ướp trà. Đứa bé vừa sinh da đỏ au chỉ sau hai, ba tuần là chuyển sắc trắng hồng, môi thắm, cái miệng chúm chím khóc vang cả một góc đầm. Sen lớn lên, như thứ ánh sáng tỏa trong đầm làng Yên. Đi tới đâu cô cũng nổi bật. Mười tám tuổi, Sen đẹp đến nao lòng để những kẻ khó tính nhất trong làng cũng không thể đi mà không ngoái đầu nhìn lại.
Vào một ngày, tiếng súng đang ùng oàng ở phía xa xa, thỉnh thoảng, mặt đầm khẽ rung lên như sắp rạn vỡ bởi tiếng bom đạn đang tiến về gần làng. Đêm hè trăng sáng, hợp tác xã cho xã viên hái sen. Nam nữ từng cặp chèo hái giữa đầm ngát hương thơm. Những giọt nước còn đọng trên lá sen được nhận ánh sáng trăng, trông lấp lánh như những viên ngọc.
Họ học cùng lớp, lại cùng tổ sản xuất. Sáng đi học, chiều lại ra đồng sau tiếng kẻng làm bằng vỏ quả đạn pháo của ông đội trưởng. Sen ngồi đầu chiếc mủng nan làm nhiệm vụ hái sen. Chàng trai cao lớn, săn chắc đứng sau dùng sào đẩy chiếc mủng lách sâu vào giữa đầm. Một lát, con mủng đã đầy những bông sen còn đang chúm chím, nhưng chàng trai vẫn lái mủng sâu vào đầm.
- Anh sẽ chỉ cho em một cách kiếm cá! Anh nói. Hai hàm răng trắng đều lấp lánh dưới ánh trăng.
Khi tìm được chỗ đánh dấu nơi đặt chiếc rọ tre bẫy cá, chàng trai chuyển ngồi đầu mũi, đỗ mủng cúi xuống, tẽ những bụi cỏ nác mọc chen trong sen rồi nhấc cao những chiếc rọ nặng chịch. Tiếng lóc xóc của những con cá rô béo nẫn trong rỏ đầy quyến rũ. Chàng trai giơ chiếc rọ tre lên đưa về phía cô gái như thể khoe thành tích “sát cá” của mình. Cô gái ngắm chàng trai, trong cô bỗng bừng lên một tình cảm kỳ lạ, cô vừa cười vừa nhấm nhẳng: Sát cá thì được chứ sát gì thì chết...!
Câu nói ấy làm chàng trai dừng tay nhìn Sen. Trăng cao, sáng vô cùng và khuôn mặt Sen rạng ngời trong ánh trăng. Anh bất giác tưởng người con gái trước mặt vụt sáng như một thiên thần, và điều gì đó như một sức hút kỳ diệu đang chỉ cách anh một vòng tay.
Sương từ đâu bắt đầu loang ra, mặt nước đầm khi ẩn khi hiện, con mủng cũng khi ẩn khi hiện như trồi ra trong mây sương. Làn gió lao xao bỗng nổi lên làm Sen hơi lạnh. Cô cất tiếng: Thôi ta về đi anh, sen đầy rồi. Về muộn bà con lại cười cho chết! Chàng trai tiến tới sát cô, anh không ngần ngại cởi chiếc áo ngoài, khoác lên vai cô gái. Sen quay người nhìn anh. Cái mùi mồ hôi đàn ông toát ra từ thân thể cường tráng đang đứng trước mặt như phả vào cô. Sen chợt run rẩy, tự nhiên cô áp mặt vào bộ ngực chàng trai.
Chàng trai kéo sát Sen vào mình. Như có một luồng điện chạy nhanh trong từng tế bào của anh, anh đưa những ngón tay vén những sợi tóc rối bời trên trán cô rồi thầm thì: Trời ơi, em đẹp quá!
Một đám mây như chiếc khăn sậm màu vắt ngang qua vầng trăng làm không gian mờ đi trong giây lát. Họ run rẩy trao nhau nụ hôn đầu tiên, dài tưởng như bất tận. Khi vầng trăng chui ra khỏi đám mây, cô gái ngả đầu xuống đùi chàng rồi để mặc cho người yêu rụt rè mở từng khuy cúc áo...
* * *
Lần đầu được thấy “tòa thiên nhiên” bằng da bằng thịt nên chàng trai run bắn. Anh rơi vào một trạng thái không biết là thực hay mơ. Dưới ánh trăng, những đường cong mềm mại, nõn nà hiện ra hư ảo. “Bức tranh” cô gái giữa đầm sen tinh khiết đến nỗi, chàng trai ngập ngừng, không dám dùng bàn tay chai sần vì lam lũ của mình để chạm vào. Anh cúi xuống, dùng làn môi mơn man, rồi hít hà từng chút một giống như mỗi khi ngửi đóa sen vậy. Hương thơm làm anh ngây ngất.
Ngày hôm sau, cả làng Yên rộ lên, khi một đứa trẻ rao tin, chúng nhìn thấy cô Sen và anh Mịch yêu nhau. Chuyện ấy nhiều người làng đều mừng và cho là đôi trai gái xứng đôi. Thậm chí có người nói oang oang giữa sân hợp tác rằng, còn chần chừ gì nữa, thằng Mịch cưới ngay đi cho làng ăn cỗ! “Cưới vợ phải cưới liền tay”, có cụ già còn đến rỉ tai mẹ Mịch.
Nhưng có một người trong làng không mừng. Thậm chí khi biết tin, hắn nắm bàn tay chặt lại, đấm mấy cái vào bức tường gạch kho thóc của hợp tác đến mức bật máu rồi khóc hu hu. Mãi sau này, Sen mới vỡ lẽ: Từ lâu, cô đã bị rơi vào tầm ngắm của thằng Xô - con ông chủ tịch xã. Thằng Xô đẹp mã lại con nhà cán bộ nhưng “thành tích” ăn chơi của nó nức tiếng khắp làng Yên. Nó đã để ý đến Sen từ lâu nhưng thấy Sen chẳng mặn mà gì nên càng bám Sen như đỉa làm cô rất khó chịu. Biết việc Sen đã yêu Mịch, hắn càng tức tối hơn. Sao Sen không màng tới hắn mà lại chọn Mịch, một chàng trai học rất giỏi nhưng có vẻ cù lần.
Đúng khi ấy, cuộc chiến khốc liệt lan ra toàn miền Bắc nên đám trai làng đua nhau lên đường nhập ngũ. Vừa tốt nghiệp cấp ba, sức khỏe toàn A1, nên Mịch đã trúng tuyển đợt lấy quân đầu tiên trong năm. Sự việc ầm ĩ ở đầm sen cùng với việc Mịch sắp lên đường đã thúc đẩy hai họ tiến hành cưới hỏi ngay cho đôi trẻ.
Chỉ 10 ngày sau cưới, Mịch có lệnh nhập ngũ. Cũng thật may, trong những ngày mặn nồng vừa đếm đủ trên đầu các ngón tay, anh đã để lại cho Sen một giọt máu.
Sinh con xong, Sen càng đẹp. Cái đẹp mặn mà đằm thắm của người đàn bà được khai thông khí huyết. Đôi gò nụ giờ đã nở to sau những tháng ngày cho con bú, nhưng nó vẫn cao gọn và săn chắc. Mỗi lần thay áo, sự cọ xát của vải áo vào hai núm nhũ làm Sen rạo rực và nhớ chồng vô cùng. Anh đi biền biệt đã 5 năm rồi chẳng có tin tức gì. Bù lại, mẹ con cô được bà mẹ chồng yêu thương hết mực. Chả ai biết tên thật của bà, người làng Yên gọi bà theo tên chồng. Ông Thoan, chồng bà là liệt sĩ chống Pháp khi bà mới 25 tuổi. Góa chồng ở cái tuổi mà bao nhiêu vẻ đẹp của người đàn bà lồ lộ hết ra ngoài, nhưng vẫn giữ được mình trước những cặp mắt hau háu của các gã trai làng, không phải là chuyện dễ dàng. Tất cả nỗi nhớ thương cùng tình yêu duy nhất dành cho anh vệ quốc quân, bà Thoan dồn hết cho đứa con trai một và bây giờ là con dâu và cháu nội.
* * *
Sáng ra, bà Thoan nhìn trời rồi bảo Sen:
- Nay sẽ nắng ròng, con ra đầm lấy ít nhị sen về ướp trà nhé!
Một mình chống sào, đẩy chiếc mủng ra giữa đầm, Sen ngất ngây bởi mùi thơm quen thuộc đang ngào ngạt lan tỏa. Tâm trí cô tất tưởi quay về cái đêm sáng trăng huyền ảo năm ấy. Nhớ đám mây tinh nghịch đã che mờ vầng trăng để rồi có một nụ hôn run rẩy. Một cành sen đổ ngang đã vướng phải tay Sen. Những chiếc gai nhỏ tua tủa, sắc như kim cứa vào bắp tay nõn nà như ngó sen, làm cô tứa máu. Nhớ ngày còn bé, mỗi khi chuẩn bị ra đầm, Sen lại được mẹ dặn dò: Phải cẩn thận, đừng để gai sen cứa đấy!
Thế mà hôm nay, cô đã bất cẩn để bắp tay đỏ lững lên rồi hôm sau thì mưng mủ. Đêm thao thức không ngủ được vì đau, cô miên man suy nghĩ. Không biết bao lần đã ra đầm sen nhưng không lần nào bị gai cứa. Vậy mà... có điềm gì chăng?
* * *
Thằng Xô - con ông chủ tịch xã được hoãn nghĩa vụ quân sự do bị pháo cắt đứt một ngón tay. Ấy là nghe ông bố nói vậy chứ dân làng Yên thì xì xầm: Nó sợ đi nghĩa vụ quân sự nên đã tự thương như thế!
Kể từ khi bị Mịch “nẫng” mất Sen, đến giờ thằng Xô vẫn cay cú lắm, mặc dù hắn cũng đã lấy vợ, nhưng vẫn tìm đủ mọi cách để chiếm đoạt Sen… Buổi tối, hôm bà Thoan sang quê ngoại ăn giỗ rồi ngủ lại, hai mẹ con vừa cơm nước xong thì Sen nghe tiếng thằng Xô đon đả ngoài sân:
- Tôi vừa mượn được quyển truyện này nghe nói hay lắm, đưa Sen đọc trước cho đỡ buồn.
Chẳng chờ xem Sen có đồng ý mượn hay không, hắn để sách lại bên cái chõng tre ở hiên nhà rồi lủi rất nhanh.
Khi con đã ngủ, chẳng còn việc gì làm, Sen tò mò cầm cuốn sách ra đọc. Một cuốn tiểu thuyết ngôn tình, trong đó mô tả chàng trai yêu một cô gái ở thành Ba Lê diễm lệ với tỉ mỉ nhiều pha tình cảm nóng bỏng. Lúc đầu, Sen rất tức giận vì nghĩ, sao thằng Xô lại dám cho cô đọc cái thứ “văn hóa đồi trụy” đang bị cấm rất gắt gao đó? Cô đặt cuốn sách vào chỗ cũ, muốn từ bỏ nó, nhưng cứ nằm xuống bên đứa con đã ngủ say, thì các hình ảnh ở cuốn sách lại hiện ra. Đêm khuya, chỉ có tiếng giun dế rên rỉ. Như có một ma lực nào đó, cuốn sách kéo cô về phía nó.
Càng đọc, Sen càng cảm thấy như mình bị lên cơn sốt. Lúc thì run lên cầm cập, lúc thì bủn rủn cả chân tay. Cô nhớ chồng da diết. Nhớ bờ môi tham lam của anh. Nhớ bàn tay chai sần nhưng rất đỗi dịu dàng khi anh từng chút, từng chút khám phá cơ thể cô.
Đúng lúc ấy, thằng Xô ở đâu xuất hiện gọi cửa, nói là mượn sách của người ta, giờ họ đến đòi. Nhìn gương mặt đờ đẫn của Sen, hắn ta hiểu tất cả. Hắn nắm đôi vai cô, nở một nụ cười... Sen muốn vùng vẫy mà không sao thoát khỏi nó, và thực tình cũng không thoát khỏi cơn khát thèm của chính mình. Cô thở dài, bất lực, buông xuôi, để mặc cho bàn tay nham nhở kia sục sạo. Sau cái đêm khủng khiếp ấy, Sen tự căm giận mình. Cứ nhớ tới cái thân hình của nó đè nặng thúc mạnh vào háng cô, vừa làm cô thỏa mãn, vừa làm cô sợ hãi, là cô lại run lên lẩy bẩy như phát sốt. Cô căm thù chính cô, căm thù nó. Sau đó, cô khóc dấm dứt nhiều lần và khi nhìn vào đôi mắt trong veo của con, Sen càng đau đớn. Có lần cô thốt lên trong đêm khi đứa bé đang ngủ: Mẹ có lỗi, mẹ xin lỗi con!
Cũng từ đó, đêm đêm cô lại một mình xách đèn bão, vác cái mai ra góc vườn xắn đất đào ao, trút tất cả sự nhớ thương chồng, nỗi ân hận vào những nhát mai nặng nhọc. Càng đào, vết thương trong lòng càng rỉ máu, ngoác rộng và hoắm sâu hơn như chính cái ao vậy.
Hôm ấy, thằng Xô lấy cớ đến nhà bà Thoan mượn cái cuốc, nhìn ra cái ao đào dở, nó nhăn nhở: Có thuê thì đây đến làm cho?
Đang cho con ăn bên thềm, Sen đỏ bừng mặt và tức giận đuổi thẳng cổ! Cô rít qua kẽ răng: Tôi cấm đấy! Anh có cút ngay đi không!
Dù Sen đã cố gắng nói rất nhỏ, nhưng bà Thoan đang nằm trên chiếc võng cuối thềm vẫn nghe rõ mồn một. Bà nén một tiếng thở dài.
* * *
Chiều tháng 7 đã muộn, khi thằng cháu nội 6 tuổi đang choãi chân chèo để đưa võng cho bà, trong khi mẹ nó lúi húi nấu cơm dưới bếp thì một người mặc quân phục có một bên tay áo thõng xuống xuất hiện:
- Cụ ơi cho cháu hỏi...
Đang lơ mơ, bà Thoan vội ngồi dậy dụi mắt:
- Anh hỏi gì cơ ạ?
- Dạ! Cụ cho con hỏi nhà bà Thoan!
Bà Thoan thấy lạ, cái nhà anh này sao vừa hỏi lại cứ vừa tủm tỉm cười.
- Tôi là bà Thoan đây!
Nghe có người hỏi thăm, Sen vội vàng bước ra. Bỗng “choang”! Chiếc bát tô định lấy múc canh đang cầm trên tay, rơi vỡ tan tành dưới nền gạch. Cô đã nhận ra Mịch.
Thấy thế, Mịch không dám đùa nữa mà vội chạy đến với mẹ rồi ra kéo vợ lại, một tay ôm gọn cả mẹ, con và vợ vào lòng, trong tiếng nức nở đầy nước mắt của hai người đàn bà.
Mừng vì con trai đã được phục viên dù chỉ còn một cánh tay, đêm bà Thoan không ngủ được nên sáng dậy rất sớm. Ra cầu ao định cho cá ăn thì nghe tiếng khỏa nước xen lẫn tiếng khóc thút thít cố nén. Biết tâm sự của con dâu, bà Thoan lại gần bảo: Cái gì đã qua thì hãy cho nó qua đi! Đừng có “xới xáo” lên làm gì!
Sen hiểu mẹ chồng định nói gì. Cô đâu biết rằng, sau cái đêm trót dại với thằng Xô, những dằn vặt của Sen không qua được mắt mẹ chồng, cả lời cô thủ thỉ với con cũng không lọt qua được đôi tai rất thính của người già. Cô lờ mờ hiểu rằng bà đã biết chuyện. Hôm nay, lời nói của bà đã xác nhận những phỏng đoán đó. Cô loạng choạng chạy lên bờ, ôm chặt lấy mẹ khóc nức nở. Bà vỗ nhè nhẹ vào vai cô:
- Nín đi con! Thằng Mịch nó dậy bây giờ! Mọi chuyện rồi sẽ qua thôi! Con ra đầm sen làng mà tắm đi, để đêm nay là đêm thật vui của hai đứa. Mẹ mong các con thật hạnh phúc! Đàn bà đều như cây sen cả thôi. Con nhìn mà xem, củ sen vùi trong bùn, năm tháng trồi ra mầm, phải vươn qua bùn nước, thân cây nào chả đầy gai để cuối cùng trên chót vót ngọn, nở ra một loài hoa mà ai ai cũng thấy không có vẻ đẹp trên đầm nào hơn nó, không có loài hương nào trong đầm thanh khiết, trinh bạch hơn nó, để hoa đó muôn người cùng quý, để đóa nó lấy nơi thanh bạch cho cả Phật ngồi. Đời mẹ cũng như thế, và người ta phải vượt qua cả giai đoạn đầy gai để có một đóa sen...
Sen òa khóc. Bà Thoan đứng dậy, thoa bàn tay già nhăn nheo làm khô đi những giọt nước mắt của cô con dâu. Bà đẩy con dâu về phía đầm sen: Ra đấy tắm gội cho thật trong sạch đi con!
Sen như tỉnh cơn mơ, cô bước đi vài bước rồi ngoái lại thầm cảm ơn mẹ chồng. Sen thầm biết ơn bà và lao vội ra đầm, đúng vào cái khoảnh nước mà lần đầu tiên cô và Mịch yêu nhau. Nước mắt của cô thánh thót chảy hòa vào nước đầm. Quanh cô, sen tháng 7 cũng đang mùa rộ, hương sen khắp mặt đầm như đang tắm rửa tâm hồn cô, làm cho cô thấy nhẹ nhàng, bình tĩnh lại. Đúng khi ấy thì trên bờ có tiếng gọi tên cô.
Sen quay lại, giữa lúc Mịch lao xuống mặt đầm để lại một vệt nước trắng xóa. Sen dang tay ra ôm lấy chồng khi anh lặn rồi nhoi lên bên cô. Họ yêu nhau như ngày nào. Nhưng hôm nay thì Sen chủ động ôm lấy chồng, người cô yêu thương chỉ còn có một tay bám vào vợ. Cô hôn tới tấp lên mặt Mịch, mặc cho nước mắt mình cũng chan chứa trên khuôn mặt xanh xao của anh, để cho anh đã lâu rồi không có cảm giác, hương nào từ cái miệng tươi ròn của Sen, hương nào của đầm sen từ bao nhiêu là bao nhiêu các đóa hoa đang rộ đỏ.
* * *
Làng Yên bây giờ vẫn đẹp dù vùng đất ấy trải qua biết bao thăng trầm. Vẫn giống như một cô gái quàng chiếc khăn hoa lộng lẫy bởi đầm sen bao bọc gần kín xung quanh làng. Đầm sen là nơi chứng kiến bao vui buồn của những con người nơi đây. Đến mùa đông lạnh giá, sen khô quắt, rục xuống nước, ủ quện với bùn để cho mùa hè năm sau, những ngó sen trắng ngần lại nhoi lên thành lá, thành hoa ngát thơm. Dưới những tán lá, nụ hoa, có cả những chiếc gai sắc nhọn như mũi kim.
Tối nay trăng sáng, vợ chồng anh thương binh lại rủ nhau ra đầm sen đặt bẫy cá rô. Một tay chống sào đẩy cái mủng đi qua mấy cành sen già đổ nghiêng ngả, Mịch bảo: Em cẩn thận đừng để gai sen cứa nhé!
Sen thầm nhủ trong lòng: Vâng! Nhất định em không để gai sen cứa nữa! Trong cô cứ vang lên lời bà Thoan, đàn bà chúng ta phải biết “mọc” qua giai đoạn thân đầy gai để sinh ra những loài hoa thanh khiết.
Truyện dự thi: Lũ quét
Đinh Thanh Quang
Người đàn ông gùi sau lưng bế ống luồng đựng mật ong đi dọc con đường ven suối hướng về bãi sông đầu con thác Nhạn Cóm san sát lều quán. Bước đi khập khiễng, gương mặt rám nắng có vết sẹo dài bên má làm cho anh nom già hơn cái tuổi cận ba mươi.
Trời mới hoàng hôn mà trên bãi sông ánh điện, đèn măng sông đã sáng rực. Tiếng máy phát điện nổ xành xạch, tiếng người lao xao ồn ào. Đây là giờ người đào vàng tạm rời bè lên bờ đốt thổi cát, bụi quặng, nhặt nhạnh những vảy vàng thành quả của một ngày căng gân, căng sức cày ủi đất đá dưới sông lên đãi. Họ tràn vào quán mua bán, đổi chác, nhậu nhẹt và kháo chuyện.
Những người bán hàng rong trải nylon bày hàng lên. Có người từ thượng nguồn mang ba ba, trút, kỳ đà về bán. Một số khách buôn phát hiện ra người đàn ông liền bám lấy nhưng anh xua tay, lắc đầu bước nhanh về phía căn nhà cuối bãi có tiếng máy khâu xành xạch vọng ra. Đó là nhà thầy Lộc Văn Bình - Hiệu trưởng trường phổ thông cơ sở xã.
Thầy Bình bước ra sân đón, giọng vui vẻ:
- Ồ, Kim Hỏa! Mật ong à? Phạ ơi! Mật thơm quá ha. Để ta đỡ cho!
Thầy giúp người đàn ông đặt bế xuống. Nhìn những ống mật đầy, thơm ngào ngạt, lòng thầy nao nao xúc động càng thương càng quý anh hơn. Một con người vượt lên bất hạnh mà sống, ngay nụ cười cũng méo xệch. Cười mà như khóc. Khác với những người đang đãi vàng, buôn bán kia, họ hùng hục, hối hả cày xới từng đống đất đá dưới đáy sông lên để tìm vàng, họ ồn ào cãi cọ nhau giành lấy những đặc sản quý để kiếm lãi, Hỏa lặng lẽ sống một mình trong rừng sâu đào ao thả cá, nuôi ong, trồng cây không màng đến cơn sốt tìm vận may đang sôi động khắp các bản dọc sông Nậm Pao này. Nhưng không phải tự dưng anh làm vậy, đấy là cả một câu chuyện dài…
* * *
Tám năm trước, Hỏa tốt nghiệp cao đẳng sư phạm được phân về trường phổ thông cơ sở một xã sát biên giới. Anh chăm chỉ soạn giáo án, dạy dỗ tận tình, chu đáo được trò yêu, phụ huynh kính nể. Biết anh đã hoàn thành nghĩa vụ ở nơi xa xôi nhất, có nguyện vọng về gần quê giúp đỡ gia đình, thầy Bình có ý định đặt vấn đề với Phòng giáo dục huyện xin Hỏa về làm cốt cán cho trường mình thì tai họa khủng khiếp xảy ra. Một trận lũ quét bất ngờ trong đêm đã cuốn phăng bố mẹ cùng mấy đứa em Hỏa đang tập trung trên rẫy thu hoạch lúa.
Nhận được tin dữ, Hỏa tức tốc về. Nhưng chẳng còn gì nữa. Đá lở, cây đổ ngổn ngang như một bãi chiến trường. Hỏa đau đớn bỏ đi lang thang trong rừng. Cả bản đổ đi tìm. Hỏa không chịu về nhà, dựng cái chòi trên rẫy sống như một ẩn sĩ. Thầy Bình đêm nào cũng lên ngủ lại, lựa lời khuyên răn an ủi nhưng không làm sao cho Hỏa trở lại bình thường. Thầy cho các em học sinh lên giúp Hỏa trỉa ngô, trồng sắn, đào ao cá cũng để anh khuây khỏa, nguôi ngoai. Rồi thầy tự lên trường Hỏa, xuống Phòng giáo dục xin bảo lưu cho anh.
Tưởng bị loạn trí, bị trầm cảm, chẳng còn vãn hồi được nữa; nhưng không, dần dần Hỏa hồi phục thần kinh, sức khỏe khá lên. Hỏa biết rõ nguyên nhân dẫn đến lũ quét là do phá rừng, khai thác rừng bừa bãi làm cho rừng không đủ sức ngăn lũ nên thề không đốt rẫy mà ngày ngày chăm chỉ trồng cây trên khu đồi, khu rẫy của nhà như trước đây chăm chỉ "trồng người". Anh làm việc đó để thực hiện mong muốn của cha làm trang trại, làm VAC trên đất được giao và tìm nguồn an ủi cho vợi nỗi đau đớn tiếc thương những người ruột thịt.
Những kẻ lái gỗ, bọn lâm tặc thì chẳng đếm xỉa gì đến chuyện lũ quét, bảo vệ rừng, bảo vệ môi sinh môi trường. Bất chấp lệnh đóng cửa rừng, họ lùng sục tìm kiếm các loại gỗ quý như đinh hương, lát hoa, trường mật, chò chỉ… Nhỏ thì để cả cây, lớn thì xẻ ván cho xuống khe cánh bè rồi kéo ra sông. Họ nhè lúc bà con thu hoạch xong lúa rẫy, đổ ra sông ra bãi tìm vàng rừng vắng vẻ mới hành động. Một số người trong đó có cả cán bộ xã bị họ lợi dụng, đồng lõa, hợp thức hóa cho bao chuyến bè chở gỗ rời khe Cóm về xuôi.
Hỏa theo dõi, phát hiện họ cưa mấy cây gỗ lát quý ở trên lèn đá đầu khe đã kịp báo cho Kiểm lâm biết. Thực ra, anh xuống nói với thầy Bình, thầy báo lại cho Công an phụ trách địa bàn. Công an và lực lượng Kiểm lâm phối hợp bắt giữ hai bè ngay khi nó vừa kéo ra cửa khe. Đâu ngờ việc ấy lại thêm tai họa cho anh…
Không lâu sau cái ngày bè gỗ bị bắt giữ, Hỏa xuống suối lấy nước, đang vừa đi vừa ngắm ngược nhìn xuôi, va phải hòn đá. Một tiếng "roạt" như xé vải, người bị nhấc bổng lên ném mạnh sang một bên, mặt đập vào đá sắc, một chân bị kẹp vào gọng kìm bằng hai thanh gỗ trắc cứng như sắt. Mắt hoa lên, máu đầm đìa, Hỏa bặm môi, cố sức kéo cái chân bị kẹp; càng kéo càng bị siết chặt, đau đến vã mồ hôi ứa nước mắt. Hỏa biết là bị mắc vào bẫy thú. Kẻ nào lại đặt bẫy ngay trên cái lối đi xuống suối của mình? Bẫy thú hay bẫy người? Chúng muốn ám hại mình chăng? Hỏa nghiến chặt răng cố gượng dậy, lấy hết sức gọi cấp cứu. Bỗng, trời đất chao đảo, Hỏa gục xuống không còn biết gì nữa…
Có những ngón tay mềm mại âm ấm lướt nhẹ trên đầu, trên mặt. Hỏa mở mắt. Một khuôn mặt trái xoan với đôi môi hình trái tim, đôi mắt lá răm hiện lên. Hỏa lắp bắp:
- Kìa Lìn!... Sao ta lại ở đây?...
- Anh Hỏa tỉnh rồi! Anh Hỏa tỉnh rồi chị Mai ơi!
Lìn reo lên, mắt rớm lệ, nói cho Hỏa hay: Hai cô bé đi lấy măng nghe tiếng kêu cứu phát hiện ra anh; anh được đưa về trạm xá cấp cứu. May có chị Mai là bác sĩ Trung tâm y tế huyện lên công tác xử lý kịp thời. Vết thương trên đầu trên mặt khá sâu nhưng không ngại, lo nhất là cái chân không khéo hỏng mất. Phải đưa xuống bệnh viện huyện thôi.
Nghe Lìn nói cùng đi theo chăm sóc và làm các thủ tục cho Hỏa vào viện, Hỏa chối đây đẩy bảo không việc gì phải đưa đi viện, cứ bôi mật gấu, bó lá thuốc ít ngày là khỏi. Hỏa từ chối vì Hỏa không muốn ai thương hại mình, vì Lìn là cháu gái ông Lữ Tài Ba, phó chủ tịch xã, tiếp tay cho bọn lâm tặc nhưng khôn ngoan thoát tội. Trước đây khi còn đi dạy Hỏa đã để ý đến cô. Những ngày về hè, về tết Hỏa thường rủ mấy bạn trai đến tà lạng nhà cô thổi khèn thổi sáo những điệu hát gọi bạn tình suốt canh thâu. Và, sóng tình như suối mùa xuân dâng đầy khóe mắt, Lìn lúng túng đỏ mặt khi gặp thấy giáo trẻ khỏe mạnh, tuấn tú. Trái còn ngày xuân cứ vờn vợt vào nhau. Nhưng hai người mới hẹn nhau một lần bên suối chưa kịp trao cho nhau nụ hôn, những lời thề thốt thì tai họa ập đến…
* * *
Chiếc thuyền gắn máy đuôi tôm chở Hỏa rời bản xuôi dòng Nậm Pao về thị trấn trong buổi sáng đẹp trời. Hỏa được đặt nằm trên cái sạp tre lót chăn bông êm ái. Người lái khéo léo điều khiển cho thuyền qua thác không bị xóc nẩy mạnh. Lìn ngồi cạnh Hỏa, lo lắng nhìn Hỏa thiếp đi trong giấc ngủ nặng nề. Vết thương nặng, mất máu nhiều đã làm cho anh kiệt sức.
Làm xong các thủ tục cho Hỏa nhập viện, Lìn có thể về nhưng cô xin ở lại chăm sóc Hỏa. Anh ấy còn ai nữa ngoài tấm thân đang bị dày vò vì đau đớn? Hỏa không muốn sự có mặt của cô, lúc nào anh cũng giục cô về. Lời nói có vẻ gay gắt khó chịu. Cô mếu máo:
- Aỉ noọng cuống bàn, lừa pạn huổm hươn: Anh em trong bản như bạn trong nhà, tại sao anh không muốn em ỏ lại với anh? Em có điều gì không phải với anh sao? Em sẽ ở lại chừng nào anh lành vết thương đi lại được…
- Không! - Hỏa ngắt lời Lìn – Bao người đang đợi cô ở trạm xá, cô về đi!...
Mặc Hỏa nói sao thì nói, Lìn vẫn ở lại. Những ngày bên cô, Hỏa cảm nhận được sự quyến luyến yêu thương chân thành, thông cảm đồng cảm sâu sắc từ trái tim nhân hậu ấm áp. Hỏa không kìm giữ được, bộc bạch với cô mối nghi ngờ chú cô là kẻ đã bày trò đặt bẫy. Lìn không ngờ ông ấy lại tham lam ác độc thế. Chả trách ông bảo cô không nên đưa Hỏa xuống bệnh viện cho nhiêu khê, cứ để lại trạm dùng thuốc dân tộc chữa sẽ khỏi thôi. Ông ta muốn cho Hỏa nằm dưỡng bệnh càng lâu càng dễ hành động mà! Trong thâm tâm còn muốn Hỏa trở thành kẻ suốt đời tàn tật để trả thù việc gây hại cho ông…
Thầy Bình nghĩ: Hỏa chữa vết thương cho rừng cũng là để chữa cho mình, vết thương trong tâm can không dễ gì liền sẹo, cần động viên, an ủi mang đến niềm vui bù đắp tổn thất, mất mát cho anh, nên nhân cơ hội Lìn có giấy gọi đi học Trung cấp y tế đã chủ động bố trí cuộc gặp hôm nay. Nào ngờ, khi chị Na (vợ thầy) buông cái áo đang may cùng Lìn mang rượu và mấy thứ đồ nhắm lên, Hỏa thay đổi thái độ, vội vàng đến bên bế lấy ra một ống mật, bảo:
- Cái này em biếu thầy chị, còn lại nhờ chị Na đổi cho em các thứ em ghi trong giấy... Thôi! Em phải về thôi, tối đến nơi rồi! – Hỏa băng nhanh ra ngoài cửa.
- Cái thằng! Mày ở lâu trong rừng biến thành con hươu con nai rồi đấy! - Thầy quay sang Lìn - Em đừng chấp làm gì! Nó vốn không phải vậy… Ta biết nó nặng lòng với em lắm, nhưng nỗi đau quá lớn làm con tim nó hóa đá mất rồi! Có nghị lực lớn mới tỉnh táo được thế. Khổ cho nó, tai họa liên tiếp giáng xuống. Gần đây nó càng buồn, càng ít tiếp xúc với mọi người vì chuyện ông Ba, chú em, đã chạy chọt thoát tội, chỉ bị xử phạt hành chính, đang tung tác ngoài sông.
Lìn gạt nước mắt, cố làm ra vẻ tự nhiên, mở túi xách lấy cuốn sách:
- Em hiểu mà! Em định đưa cho Hỏa cuốn sách này em về huyện tập huấn mua được nhưng Hỏa đi rồi… Em nhờ thầy…
Thầy Bình cầm cuốn sách, lướt qua dòng chữ ngoài bìa: "Các loại thuốc nam, cách trồng và chế biến", nét mặt thầy dãn ra:
- Ấy! Thứ này nó cần lắm đây, đang nhờ ta hỏi mua. Nhưng … - Thầy trao lại cuốn sách cho Lìn - Lìn giữ lấy, vài hôm đổi được hàng, thầy cùng em mang vào cho nó, em trao tận tay nó thì hay hơn .
* * *
Ba ngày sau, trời còn mờ sương, thầy Bình và Lìn mỗi người gùi một bế các thứ vào cho Hỏa. Men theo con đường mòn dọc suối gần hai tiếng, họ đến "trang trại" của Hỏa. Căn nhà sàn bé nhỏ đơn sơ dựng trên khu đất khá bằng phẳng, bốn bề rợp bóng các loài cây trái. Trước nhà có mảnh vườn trồng rau, trồng hoa. Trước hiên treo những dò phong lan hoa tím, hoa vàng roi rói. Cạnh nhà, một dãy chuồng gà ken dày cọc nứa phòng chồn cáo. Đọ ong treo dày trên cây. Nhìn cơ ngơi này thấy rõ chủ nhân là người vừa có đầu óc kinh tế, vừa lãng mạn.
Dừng chân trước vườn, thầy Bình cất tiếng gọi, nhưng không nghe tiếng Kim Hỏa đáp lại. Thấy cửa liếp cài chốt, Lìn bảo:
- Chắc anh Hỏa ở dưới ao cá hoặc chỗ thả bò trong thung lũng, ta xuống đó coi.
Hai người mang gùi lên cầu thang, đặt xuống mái hiên, rồi quay trở lại men theo lối mòn trong rừng vào thung lũng. Chợt, Lìn đột ngột dừng bước chăm chú lắng nghe. Rừng sâu tĩnh lặng, nghe rõ tiếng sóc nhằn vỏ hạt dẻ trong hốc cây, tiếng suối róc rách dưới thung lũng. Có âm thanh gì là lạ khiến đôi tai con gái thính nhạy cứ phải căng lên để phân tích, đoán định. Lách cách! Lách cách! Roạt Roạt!... Có ai đãi vàng dưới suối! Chả lẽ Lô Kim Hỏa?
Lìn ra hiệu cho thầy Bình bước khẽ. Chưa thấy rõ người nhưng đã thấy khúc suối màu nước vo gạo lờ đờ chảy. Rõ ràng ai đó đã giấu mọi người đãi vàng, làm một cách lén lút không muốn cho ai biết. Hai người rón rén bước lại gần xem kẻ nào chơi trò ma mãnh, có kiếm được vàng hay đào hú họa cầu may. Con ngươi như muốn bật ra khỏi mắt khi Lìn nhận ra mái tóc quăn của Lô Kim Hỏa.
Trời! Bất cứ ai làm việc này đều là chuyện bình thường còn với Lô Kim Hỏa thì thật là khó tin. Thầy Bình cũng đã nhận ra Hỏa. Thầy lắc đầu, hết kéo mũ ra lại đội mũ vào một cách bức bối khổ sở. Chẳng lẽ một kẻ hy sinh tất cả để bảo vệ rừng lại đi xâm phạm tài nguyên rừng một cách lén lút thế này? Hai người từ ngạc nhiên đến tò mò muốn biết kết quả công việc ra sao, bí mật tiến lại gần hơn.
Hỏa say sưa chăm chú làm không biết có người đứng đằng sau theo dõi mình. Hai tay nắm chặt miệng bãng gỗ (nom giống cái nón cời lật ngửa) chao đi chao lại trên nước cho đất đá trôi đi, vàng nặng hơn lắng xuống dưới đáy. Một đống đất đá nhỏ chắc là được khuân từ một cái hố nào đó nằm trên bờ gần chỗ đãi. Có thể đãi hết đống đất cho phần "thô" trôi đi rồi đãi "tinh", nghĩa là đãi cho hết sỏi nhỏ cát vụn dưới đáy bãng để lắng lọc lấy vàng.
Song, có lẽ cần nghỉ ngơi hoặc làm việc gì đó Hỏa thực hiện công đoạn đãi tinh ngay. Việc này, cần tập trung tư tưởng cao, anh đã không để ý đến xung quanh, không phát hiện được thầy Bình và Lìn đứng phía sau. Vòng lắc chậm hơn, đáy bãng được nhấc lên, ánh vàng lóe sáng dưới mặt trời. Vàng! Phạ ơi! Những hạt vàng bằng hạt gạo, có hạt lớn bằng hạt thóc, hạt ngô lấp lóa hoa cả mắt. Từ sáng đến giờ mới có vài tiếng đồng hồ được ngần ấy vàng hẳn là Hỏa đã phát hiện được cả "kho" và khai thác từ lâu.
Ôi là là! Hỉn xoỏng na, Pạ xoỏng cốm (đá hai mặt, rạ hai lưỡi) anh ta đã đánh lừa Lìn, đánh lừa thầy Bình, đánh lừa bà con và cả vong linh bố mẹ anh ta nữa. Lợi dụng lòng tin của dân bản anh ta ngụy trang còn hơn cả con kỳ nhông, con cáo trong rừng. Mấy năm nay Lìn làm con chim từ quy gửi trái tim vào tiếng gọi khắc khoải, nồng nàn vậy mà như mưa rào dội xuống cục than hồng, chẳng còn gì nữa. Ngờ đâu tay vung đằng trước rạ ném lại sau, anh ta quỷ quái, tồi tệ còn hơn cả ông chú Lữ Tài Ba của mình.
Lìn định xông đến hất nón vàng xuống suối song cô kịp kìm lại, quay mình bước như người vô hồn dọc theo con đường mòn bên suối. Không phải bước mà hớt hải chạy mặc gai cào đá cứa xây xát cả đôi chân. Cô định chạy ra cửa suối nơi người ta bắt đầu cắm bè đào vàng gọi mọi người vào trong thung lũng mà đào; cả tỉ vàng cần phải chia đều cho mọi người cùng hưởng không thể để cho một kẻ tham lam quỷ quyệt hốt hết. Hỏa đang làm ra vẻ giả nhân giả nghĩa che mắt thiên hạ, một mình vơ đầy túi …
Cái đầu nghĩ thế, cái chân đang cố bước nhanh hơn thì nghe tiếng chặt cây chan chát cạnh bờ suối trước mặt. Lìn dừng chân nhận ra chú mình - Lữ Tài Ba. Ông ta đã hạ xong một cây mai cần (loại tre nhỏ đặc ruột) bằng bắp tay đang phát sạch cành, ngọn. Lìn hiểu ra ngay là ông chặt để thay cán ben đào vàng. Cô lập tức dừng lại, ý định báo tin trong thung lũng có vàng bay biến. Mình làm thế khác nào rước cáo vào chuồng gà, bày đường cho hổ về bắt lợn. Những kẻ như Lữ Tài Ba đánh hơi thấy vàng thì chả mấy chốc thung lũng nát bét ra.
Lữ Tài Ba cũng nom thấy Lìn, ngạc nhiên, dò hỏi:
- Mày không đi làm à? Đi đâu trong rừng ra vậy? Vào thăm thằng Hỏa à? Này! Mày cứ dính vào cái thằng bị quỷ ám ấy rồi sẽ khổ đấy con ạ!
Câu nói như mũi kim châm vào lòng Lìn, làm cô nghẹt thở, cô lẳng lặng đi xuống suối. Cảm thấy đã khuất tầm nhìn , cô chạy như lao về bản…
* * *
Trước lúc đi học, Lìn đến chào vợ chồng thầy Bình, thầy bảo hôm đó buồn quá nên khi Lìn bỏ về thầy cũng lặng lẽ quay lên nhà Hỏa đợi Hỏa về giao các thứ. Thầy muốn hỏi cho ra nhẽ song cứ sợ sự thật là hắn đang lừa dối thầy, lừa dối mọi người thì thất vọng quá. Thầy không thể tin được Hỏa là người như vậy. Thôi thì cứ coi như mình chưa biết gì từ từ dò xét xem sao. Thầy rất thông cảm với Lìn và tán thành quyết định của cô: “Em đi học vừa để nâng cao năng lực chuyên môn vừa để nguôi ngoai nỗi buồn, nỗi khổ tâm”.
Nhưng Lìn không thể nguôi, không thể quên được Hỏa. Ban ngày bận rộn công việc học hành không còn thì giờ vẩn vơ, đêm đến hình bóng Hỏa lại hiện lên với dáng vẻ khắc khổ, tất bật nhưng đôi mắt sao mà đầm ấm, chân tình, thẳng thắn, lóe lên nghị lực phi thường. Đôi mắt ấy đã cuốn hút Lìn từ khi Hỏa còn là chàng giáo viên trẻ tuổi tuấn tú. Đôi mắt ấy đang thầm trách Lìn sao nỡ ra đi mà không nói cho Hỏa biết. Đã yêu nhau thì phải tin nhau chứ! Hỏa đâu có làm những việc phi pháp. Làm người ai chẳng muốn được giàu sang, phát hiện ra vàng ai mà chẳng tìm cách lấy cho được nhiều. Biết đâu Hỏa chỉ lấy một ít chi phí cho việc trồng rừng, làm V.A.C?
Lập tức, tiếng nói khác, những câu hỏi khác cự lại ngay: Vậy thì hà cớ gì anh ta không cho mình và thầy Bình - những người đã hết lòng giúp đỡ anh ta vượt qua nỗi đau - biết? Mình yêu thương anh ta lắm lắm sao anh ta có vẻ hờ hững, còn tìm cách lẩn tránh là vì lý do gì? Đấy! Gần nửa năm nay mình ra đi, anh ta chẳng thèm nhắn nhe thăm hỏi lấy một lời? Chẳng nhẽ lũ quét đã quét đi cả tâm tính biến anh ta thành kẻ vô tình, vô cảm, trái tim “hóa đá” thật rồi sao? Hay vì hận chú mình mà quay lưng lại với mình? Nếu thế thì thật nhỏ nhen, ích kỷ không đáng cho mình phải bận tâm day dứt thế này… Không! Người em trong truyện “Trầu Cau” thất vọng, thất tình hóa thành đá trong rừng sâu mà vẫn gửi lòng vào nước trầu đỏ thắm, không thể tin Hỏa đắm chìm trong đau thương, mất mát đến hóa thạch cả tình yêu. Hỏa chẳng đã tái sinh cho rừng, xây ao cho cá vẫy vùng, xây tổ cho ong làm mật?
Tình yêu cũng tựa như cánh rừng tươi tốt. Cây tình yêu cũng có hoa thơm, trái ngọt, có ong bay, bướm dạo, suối reo, chim hót nhưng có cả rắn độc, sâu hại. Nó cũng bị chặt phá, đốn ngã không bằng dao rìu mà bằng sự lừa dối, tráo trở, phỉnh phờ, nhẫn tâm và bằng cả sự hèn yếu, thiếu kiên trì chín chắn, thiếu niềm tin. Và khi đó nó sẽ bị cạn kiệt, bị lũ ống, lũ quét tàn phá…
Cũng vì thế mà về nghỉ tết, Lìn quanh quẩn ở nhà không đi đâu. Cô không muốn đối mặt với sự thật con mắt đã thấy, cái bụng đã nghi ngờ. Niềm tin và hy vọng vẫn còn ấp ủ trong lòng, nếu để mất nó thì chẳng còn gì nữa. Nhưng xuân về muôn hoa đua nở, chim ca vượn hót rộn ràng khiến cho con tim rạo rực, Lìn không thể ngồi yên được, cô đến nhà thầy Bình. Thật không may, thầy cùng vợ con về quê ngoại ăn tết. Nghe mẹ bảo: Anh Hỏa xây đập, xây mương, mở trang trại làm ăn lớn được các cán bộ trẻ mới bầu bổ sung vào Ủy ban xã ủng hộ mạnh lắm. Lìn càng xao động. Hừ! Anh ta đang xây vỏ bọc cho cho mình mà. Nhiều vàng thế, ranh ma thế lấy lòng ai chẳng được.
Mong cho chóng qua tết trở lại trường, nhưng về trường cô lại tự trách mình sao không tìm hiểu cho ngọn ngành, cặn kẽ? Tại sao cán bộ trẻ ủng hộ anh ta? Nhà nước đang khuyến khích làm kinh tế hộ, mở trang trại làm ăn lớn, anh ta làm giàu chính đáng bằng nghị lực và quyết tâm của mình cơ mà? Bao câu hỏi lại khuấy đảo tâm can Lìn.
Và, cây tình yêu cứ xôn xao lay động trước gió, Lìn cố níu giữ, vun chặt gốc không để lũ cuốn trôi…
* * *
Đi kiến tập vừa về tới ký túc xá, cô văn thư nhắn lên nhận quà, Lìn buông vội ba lô, chạy lên. Văn thư bảo: “Có thầy Bình trên quê về họp đến thăm nhưng chị đi vắng, thầy gửi lại quà ”. Gói quà được dán kỹ, Lìn mang về ký túc, hồi hộp mở ra. Một tờ báo cuối tuần của tỉnh gấp tư kèm theo gói gì vuông vức gói bằng giấy bản, ngoài còn bọc bao bóng. Lìn mở tờ báo. Bên trong kẹp tờ giấy học trò ghi ngắn gọn mấy dòng: “Thầy gửi em tờ báo có bài về Hỏa và gói cao Hỏa tự chế biến từ những dược liệu trong cuốn sách của em tặng, có tác dụng bồi bổ sức khỏe, bổ máu, bổ thần kinh và não đã được kiểm chứng. Hỏa nhờ thầy mang đến cho em. Trên này mọi chuyện đều tốt đẹp. Chúc em khỏe, học tập tốt về phục vụ tốt cho bà con!”.
Lìn mở tờ báo xem. Trang đầu in đậm dòng chữ: "Chuyện vui trên Bản Cóm”. Dưới tít bài là một bức ảnh chụp toàn cảnh bản Cóm. Một bản Cóm có diện mạo khác trước. Con đường vào bản được mở rộng, cổng chào dựng lên cờ bay phấp phới. Đây là một bài ghi chép mà phần nội dung in trang sau. Lìn lướt tìm. Ngoài bức ảnh in trang nhất, trong bài còn in bức ảnh một chàng thanh niên đứng bên con đập, ngắm dòng nước chảy theo kênh bê tông vào thung lũng lúa xanh rờn. Lìn khẽ kêu: "Anh Hỏa!".
Đúng là Lô Kim Hỏa! Một Lô Kim Hỏa mới mẻ với khuôn mặt rạng rỡ, tóc cắt gọn ghẽ, tấm áo phông bó sát thân hình khỏe mạnh, không còn vết sẹo dài trên má. Lìn đọc như nuốt lấy từng chữ. Bài báo kể chuyện Hỏa đã gặp phải nỗi bất hạnh như thế nào, hy sinh đời tư kể cả tình yêu để lo trồng rừng, làm VAC rồi từ vốn rừng và lợi nhuận tích lũy từ trồng trọt, chăn nuôi cộng thêm số vàng vụn - bố mẹ anh gom góp cất giữ trong chai, đưa theo bên mình bị lũ quét trôi, vỡ, lắng xuống suối - anh đào, mở rộng ao cá may mắn phát hiện ra; anh bỏ cả vào việc xây đập, xây mương và vận động bà con vào thung lũng làm ruộng nước, làm V.A.C chấm dứt nạn chặt phá rừng gây tai họa cho gia đình mình và bao nhiêu dân lành. Thung lũng phì nhiêu lại chủ động tưới tiêu lúa tốt bời bời, mới qua một mùa rẫy mà đời sống bà con đã khởi sắc trông thấy…
Nước mắt Lìn ứa ra. Anh ấy hy sinh tình yêu ư? Không! Hùng phạ bò tò hùng phí - sáng trăng không bằng sáng lửa. Anh không muốn buông trôi tình yêu vào trăng sao mà cuốn nó vào lửa, ngọn lửa của trái tim rực cháy; hàn gắn đau thương bằng biến nó thành sức mạnh, tạm gác tình yêu, tập trung ý chí quyết tâm hồi sinh sự sống, mang lại màu xanh, tình yêu và hạnh phúc không chỉ cho riêng mình. Trái tim anh đâu có hóa thạch, Nó được lửa ấy chưng cất, cô đặc thành cao. Vậy mà mình cứ nghi ngờ, nghĩ xấu về anh, suốt cả năm không thèm về bản để cho tình cảm lung lay, nguy cơ “ lũ quét ” đe dọa!
Hai tay nâng tờ báo úp vào mặt, Lìn nấc ngằn ngặt. Rồi cô rút mùi soa lau sạch nước mắt, ngẩng lên, má đỏ ửng cảm thấy làn gió mát lành, tinh khiết từ thung lũng xa thổi về tràn ngập trong tim.
Truyện dự thi: Trai tài
Trần Thanh Cảnh
Giữa chiều hôm ấy. Nắng bốn mươi độ. Hưng - người trong ngõ Ghen làm một chai “nước mắt quê hương” xong, bỗng dưng phát cuồng. Y vác cả hai cây đàn ghita và măngđôlin, giắt túi sau cây sáo trúc nữa, ngất ngưởng đi ra ngoài phố. Ngồi luôn giữa đường, đàn sáo vang lừng. Thỉnh thoảng y đứng dậy múa may quay cuồng một hồi.
Đường nhựa nóng quá, y vào nhà rửa xe bên cạnh làm xô nước ra giội cả người và đàn. Y bảo, tắm đàn! Người xe đi trên phố dạt hết ra. Không ai muốn dây dưa vào cái tên say rượu làm gì. Dân làng dân phố càng không muốn dây. Họ mặc kệ. Họ quá hiểu khi người ta say rượu thì nó như thế nào.
Nhưng có một cái xe không tránh.
Ấy là cái xe “hổ vồ” chở cát từ bãi sông về khu đô thị mới đang san lấp. Cái xe vận tải nặng nhập từ Tàu chạy hùng hổ như con thú hoang, vừa chạy vừa còi hơi inh óc. Ngồi trên buồng lái là một thằng trẻ, vừa làm nửa can bia hơi giải nhiệt. Nóng. Nó rú ga, rú còi. Chẳng ai chịu nổi cái tiếng rợn người của bánh lốp xe tải nặng ăn ràn rạt xuống đường nhựa, nghe như tiếng thần chết đang nhạt mồm chép miệng thèm và tiếng còi như chọc thủng màng tai kia. Người đi đường vội dạt vào lề. Tránh. Tránh voi chả xấu mặt nào.
Nhưng Hưng thì không tránh, y đang phê với một bài đàn hùng tráng, “em ơi vút lên một tiếng đàn...”. Cái xe “hổ vồ” hầm hập nhào tới. Thằng tài trẻ nghĩ chả đứa nào dám đùa với thần chết. Khi cái đầu đầy hơi bia của nó nghĩ được là mình nhầm thì đã muộn. Nó nghiến răng đạp phanh. Không kịp. Tiếng xương thịt bị nghiến nát. Tiếng phanh xe chà sát xuống mặt đường. Tiếng rú hãi hùng bất lực của những người vô tình phải chứng kiến. Và tiếng vọng cuối cùng của hai cây đàn, phừng lên ai oán khi bị bánh xe chèn tan tành.
Tất cả những thanh âm ấy hòa vào nhau, thành ra một bản bi ca thống thiết tưởng như để tiễn Hưng về miền vô định ngay tức khắc lúc ấy. Nhưng không. Những giây cuối cùng bản năng bảo tồn cuộc sống đã khiến cho Hưng trong cơn lơ mơ say vẫn kịp xoài người về phía hè phố. Cái bánh xe ác nghiệt chỉ nghiến trọn hai chân. Người hàng phố nháo nhào xô ra kêu gọi inh ỏi, băng bó, lấy xe đưa Hưng đi cấp cứu. Hưng được đưa đến Bệnh viện Việt Đức cứu thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng bị cắt mất một phần ba đùi. Hưng chuyển hỗn danh từ “Hưng say” sang “Hưng cụt” từ hôm ấy...
* * *
Hồi bé “Hưng cụt” học rất giỏi.
Hắn học giỏi đều các môn. Sau này lớn lên một chút, bố mẹ hắn bảo, tập trung học mấy môn toán, lý, hóa thi đại học thôi, còn mấy môn văn, sử, xã hội bỏ qua đi. Nhất là văn thơ, đừng có lai vãng. Mày có thấy gương ông Hoàng Cầm bên ngõ Vinh không? Văn chương thơ phú vơ vẩn thế nào mà rồi thân tù tội quản thúc. Tránh xa nghe. Cứ toán, lý, hóa mà học, tính nhanh ra tiền. Văn chương thơ phú chỉ có chữ, mà chữ thì no bụng được à? Hưng vâng lời cha mẹ. Bởi hắn vốn rất ngoan, từ bé lúc đi mẫu giáo cho đến đi học các cấp, cuối năm nào chả được danh hiệu cháu ngoan...
Nhưng có một cái thì bố mẹ Hưng không bảo được. Ấy là cái thói mê đàn ca sáo thổi. Hay nói một cách chữ nghĩa bóng bẩy, gọi là yêu âm nhạc. Cái này thì hình như nó chảy sẵn trong máu đàn ông cả ngõ Ghen rồi, chả cứ Hưng. Đến bố Hưng, ông Hưng cũng mê mải lên đồng chầu văn suốt đấy thôi. Hưng thì còn hơn cha ông nhiều. Hơn rất nhiều. Là do dịp Hưng độ hơn mười tuổi gì đấy, Mạnh Hoạt, tay giai lơ nổi tiếng hàng huyện bỗng dưng về nhà trong ngõ Ghen nghỉ ngơi. Mạnh Hoạt ở nhà, cả ngõ suốt ngày rộn ràng tiếng đàn ca hát xướng. Véo von. Hưng mò sang bên nhà Mạnh Hoạt chơi, nghe hát. Mạnh Hoạt nhìn thấy thằng cu hàng xóm sáng sủa lanh lợi lại chăm chú mê mẩn nghe mình đàn hát, khoái chí. Bảo: “Mày có thích thì tao truyền cho vài ngón?”. Tất nhiên là Hưng thích mê. Nhưng thực sự là Mạnh Hoạt cũng chỉ dạy cho Hưng vài bài cơ bản thôi. Bởi Mạnh Hoạt vốn là một tay “giang hồ du đãng, cà lơ thất thểu” - lời các bà lớn tuổi trong ngõ nói vậy. Hắn không ở yên đâu được lâu bao giờ. Ở nhà được dăm bữa nửa tháng gì đó rồi Mạnh Hoạt lại phiêu du mất tăm tích luôn. Mấy bà mấy chị trẻ hơn thì nói là, hắn lại theo gái. Mạnh Hoạt là tay mê gái nhất mực của làng Ngọc. Hắn nói đời chỉ có cái ấy là hay nhất. Khi Hưng hỏi “cái ấy” là gì? Hắn giơ bàn tay trái lên, vòng ngón tay giữa chạm vào đầu ngón trỏ, cong thành cái lỗ thuôn thuôn, meo méo... Hắn lấy ngón tay trỏ bên bàn tay phải chọc vào đó, rút ra rút vào vài lần. Rồi nháy mắt với Hưng nói chỉ độc một câu: “Bướm!”.
Tin liên quan
Thể lệ cuộc thi viết truyện ngắn "Làng Việt thời hội nhập"
Mạnh Hoạt đi rồi nhưng Hưng ở nhà càng mê mẩn âm nhạc hơn. Ngoài những giờ học, Hưng hay la cà vào các nhà trong xóm, tới các chỗ mà họ hay tụ tập đàn hát chơi bời học lỏm. Thực sự đúng là Hưng có năng khiếu âm nhạc. Chả cần chỉ dạy nhiều, chỉ cần nhìn người ta chơi là Hưng có thể chơi theo. Và Hưng hát rất hay. Hát được nhiều làn điệu, từ tuồng, chèo, cải lương, quan họ cho đến nhạc mới... thậm chí sau này Hưng còn hát chầu văn trong cả các buổi lên đồng khắp vùng. Vừa đàn vừa hát. Ấy là chuyện sau này. Còn bấy giờ Hưng giấu biệt bố mẹ chuyện đàn hát. Hưng phải học, phải thi được vào đại học. Và bố mẹ muốn Hưng đi học xây dựng...
Hưng thi đỗ Đại học Xây dựng là một tiếng sét giữa trời quang.
Bởi, cái thời Hưng thi đại học thì số người lọt qua cổng các trường đại học nước mình ít lắm. Cả một trường phổ thông nơi Hưng theo học, tốt nghiệp cấp ba mấy trăm đứa, thế nhưng năm nào được độ chục đứa vào đại học đã là một sự kiện vẻ vang. Đề thi rất xương. Coi thi chặt chẽ khó khăn. Khó khăn đến nỗi có tay thí sinh đi thi còn cảm khái viết thành thơ: “Giám thị nhìn em giám thị cười/Em nhìn giám thị nước mắt rơi/ Cổng trường đại học cao vời vợi/ Mười đứa leo thì chín đứa rơi...”. Còn làng Ngọc - nơi gia đình Hưng sinh sống vốn là một làng văn hiến, xưa nay có nhiều người đỗ đạt, học hành giỏi giang. Thế nhưng nhà Hưng, rồi cả dòng họ nhà Hưng truyền đời ở trong ngõ Ghen, chả thấy các cụ nói lại là có ai thi cử đỗ đạt bao giờ. Chỉ quanh quẩn với chợ búa, ruộng vườn hay nghề phụ gì đó mà thôi. Nên khi Hưng đỗ vào một trường đại học là danh giá lắm. Tiếng tăm rền vang khắp làng trên xóm dưới. Nhưng do hồi đó chưa có internet, và nhất là chưa có facebook như bây giờ nên mọi người cũng ồn ào, xôn xao vài hôm rồi thôi, ai cũng còn phải đi kiếm ăn. Hưng đi nhập trường.
Ra Hà Nội học, với Hưng, thật như nắng hạn gặp mưa rào.
Ở nhà thì còn bị kèm cặp giám sát bởi bố mẹ. Lắm lúc phát bực. Đi sống đời sinh viên tự do hết thảy. Tự đi ăn. Tự đi học. Tự tắm rửa giặt giũ. Thích thì làm chả ai giục. Không thích, nằm cả hai ngày liền cũng chả ai bảo gì. Hưng cảm thấy khoan khoái. Thật là tự do sướng nhất trên đời. Đời sinh viên tuy có hơi đói tí nhưng vì nhà con một nên bố mẹ khá chiều. Vẫn xoay xở bòn mót các thứ đủ cung phụng một cuộc sống cũng tàm tạm cho quý tử ngoài Thủ đô. Có đôi lúc bố Hưng hục hặc. Nhưng mẹ Hưng át đi, bảo: “Sống ngoài đó tốn lắm, ông thông cảm cho con đi. Để nó chuyên tâm học hành thành tài sau này nó báo hiếu cho”.
Thế nhưng tài nào thì chả biết, nhưng mấy môn uống rượu, đánh bài, cúp cua, tán gái là Hưng nhanh chóng thành thần. Kể ra thì môn tán gái không tính, vì Hưng khá đẹp giai, đàn ngọt, hát hay nói dẻo như kẹo nên chưa ngỏ lời có khi gái nó đã đổ vào lòng đánh uỵch rồi. Mấy cái môn kia gọi là vui vẻ trẻ trung men say cuộc đời. Làm đời sinh viên mà không biết thì còn gì là đời nữa? Nhưng những môn ấy nó lại tương kỵ với chữ, với giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm... Nên Hưng “tăng ca” liên tục. Tăng ca nhiều, đến một lúc nhà trường ngán ngẩm không chịu nổi, tống cho cái giấy đuổi học. Xong đời sinh viên của Hưng. Nhưng cũng là đã sáu, bảy năm trời trôi qua chứ ít gì...
Thất thểu khoác cái balô rách ra quán nước chè chén ở lề đường Giải Phóng ngồi, Hưng không biết đi đâu về đâu. Về nhà ư? Hưng lắc lắc cái đầu như muốn xua đi hình ảnh bà mẹ nông dân lam lũ và ông bố tính nóng như lửa kia. Làm sao mà họ có thể chịu đựng nổi cái tin quý tử của họ, niềm hy vọng của họ, tình yêu của họ, lẽ sống của cuộc đời họ giờ đây thất bại trở về? Không. Làng xóm quê hương với ai đó là chốn đi về, là nơi khi con người ta thất bại cùng kiệt, thương tổn tan tành với cuộc đời có thể về nương náu, như con thú bị thương lặng lẽ tìm về hang ổ của mình để liếm láp vết thương và chiêm nghiệm nỗi đời cay cực, để tìm một chốn yên bình tự chữa lành vết thương cho mình. Không. Ít nhất thì cho đến lúc ấy, làng Ngọc nhất quyết không phải là nơi Hưng có thể trở về. Nhưng đi đâu thì Hưng chưa nghĩ ra.
Hồi ấy Hà Nội chưa phổ biến quán cà phê như bây giờ. Sinh viên lê la ngồi đồng ở các quán nước chè xung quanh trường cả buổi là thường. Vài điếu thuốc lá, chén trà nóng, vài cái kẹo lạc... là hết buổi. Nhiều thằng như nghiện ngồi ở đó, mỗi ngày không ra lê la một lúc là như lên cơn vật, không chịu được. Cứ phải ra ngồi lê chuyện gẫu, ngắm phố phường... Đến nỗi một tay nhà thơ sinh viên nào đó đã từng viết: “Quán cóc liêu xiêu một câu thơ...”. Họ còn làm được cả thơ ở quán kia đấy! Nhưng Hưng lúc này chả còn tâm trạng ngắm phố hay làm thơ. Gọi một chén trà, một điếu thuốc rẻ tiền, Hưng rít một hơi hõm má rồi từ từ nhả khói ra. Mắt lơ đãng nhìn theo khói thuốc bay ngoằn ngoèo, Hưng như đang cố tìm xem chất nicotin trong làn khói xanh kia có giải pháp gì cho cuộc đời mình không.
Không thể về làng được, Hưng thầm nhẩm lại lần nữa trong đầu. Bố mẹ Hưng sẽ phát điên lên mất. Bao năm “ăn học” ngoài Thủ đô, Hưng đã phá tan một gia sản mà cả đời bố mẹ y mới tích cóp được. Cái gia sản nhà quê ấy chả đáng gì so với thiên hạ, nhưng với bố mẹ y - những người nông dân chân chất, nó là mồ hôi công sức, là ăn dè hà tiện của gần như cả cuộc đời. Và họ đã không mấy ngại ngùng tính toán mà đổ vào cái sự nghiệp học hành của y. Họ biết đâu rằng... Đến lúc này, “bật bãi” rồi, Hưng ngồi như tự kiểm điểm quãng đời đã qua, thấy rùng mình sợ hãi. Tự mình cũng thấy kinh sợ mình. Nhưng hình như mọi sự ở đời đều vậy, phàm khi tỉnh ra thì đã muộn. Khi trong các cuộc vui triền miên nào Hưng có nghĩ được gì đâu. Đến giờ phút này, “biết dại thì dái không còn!”. Ông bố nông dân của Hưng vẫn hay nói thế...
- Hưng! Đi đâu mà balô khăn gói quả mướp ngồi đây thế này? Một giọng trai quen quen và một cái đập tay mạnh mẽ khiến Hưng dứt ra khỏi dòng suy nghĩ triền miên...
- À. Quý... Tao đang đéo biết đi đâu! Hẵng ngồi tạm đây.
Quý là thằng bạn cùng lớp từ năm thứ nhất. Quê nó mãi một tỉnh miền Trung. Nó chỉ biết mỗi việc học ở trường, không học đủ mọi môn ngoài đời như Hưng nên trong khi Hưng “tăng ca” thì nó cứ đều đặn mỗi năm một lớp, học trình nào cày trả đủ trình ấy nên đã cầm bằng kỹ sư xây dựng ra trường hai năm trước rồi. Ngồi nói chuyện một lúc với Quý, biết nó đang là kỹ sư giám sát thi công cho một công ty xây dựng nhà ở lớn của Hà Nội, Hưng bảo: “Mày bố trí cho tao việc gì làm kiếm cơm. Tao bị đuổi học rồi đéo về được nhà đâu!”. “Mày không có bằng thì làm việc gì được? Đi xây được không?”
Thế là Hưng thành thợ xây.
Tin liên quan
Truyện dự thi: Bụi thị thành
Với một thằng trai trẻ đã có tới bảy năm lê la trong trường xây dựng thì việc cầm con dao xây, cái bay, cái thước đặt gạch tô tường là chuyện nhỏ. Nhưng những bài thực hành trong trường dẫu sao cũng chỉ là trò cưỡi ngựa xem hoa. Đến lúc do hoàn cảnh đưa đẩy phải đi kiếm ăn, Hưng mới thấm hết cái khốn nạn của nghiệp cần lao. Nắng hè rát bỏng, gió bắc lạnh rụng tai vẫn phải trầy trầy đứng giữa trời mà làm. Không làm thì không có lương, không có cái nhét vào mồm. Với một thằng cựu sinh viên, nghệ sĩ nửa mùa như Hưng thì việc lao động chân tay này là vô cùng cực nhọc. Cực hình. Thế nhưng, Hưng không còn đường lùi. Hắn nghiến răng mà làm. Rồi dần cũng quen. Tuổi trẻ thật diệu kỳ, cơ thể trẻ trung của Hưng cũng chả cần nhiều thời gian lắm để thích ứng với những công việc nặng nhọc. Đến một lúc Hưng cảm thấy cái việc cầm dao chặt gạch xây nhà cũng chả có gì ghê gớm.
Hà Nội đang trong cơn sốt xây dựng nên nhiều việc. Hưng cứ lang bang suốt các công trình chả mấy khi về đến quê nhà, làng Ngọc. Cuộc đời công nhân xây dựng cũng có những niềm vui của nó. Hoặc là họ phải tự tạo ra niềm vui cho cuộc sống của mình. Hết giờ làm việc tắm rửa xong, là bù khú với nhau trong những căn nhà công trường. Là lại rượu bia, bài bạc, trà lá... say sưa rồi lăn ra ngủ. Sáng hôm sau dậy cho một ngày lao động tiếp. Thời kỳ đó Hưng chả nghĩ gì. Chả muốn đi đâu. Hưng cũng quên ráo cả mấy món đàn ca văn nghệ...
Nhưng có một thứ thì Hưng không quên được.
Ấy là bản năng đàn ông. Hưng biết mùi xác thịt đàn bà từ học kỳ đầu năm thứ nhất. Từ một nàng gái bán hoa rẻ tiền, những buổi tối vẫn lảng vảng trên đường Giải Phóng, quãng gần ga Giáp Bát. Bốn thằng sinh viên trai tân sau một chầu rượu ốc ngất ngây trên vỉa hè bèn bàn nhau góp tiền rủ cô nàng về phòng trọ. Phải hôm mùa đông mưa rét đang ế, thế là sau vài chén rượu làm quen cô nàng đồng ý, còn “khuyến mại”, bốn thằng nhưng chỉ tính là hai “cuốc”. Bốn chú trai tơ và một cô điếm. Một hình ảnh nghe qua rất gợi nếu có nhạc sĩ tài năng nhớn nào đó biết có thể viết được thành một vở nhạc kịch chứ chẳng chơi! Thế nhưng thực tế cuộc đời thì không hay ho như ta tưởng. Thậm chí có thể gọi là ê chề nữa kia. Bởi hai thằng lần đầu tiên trong đời mới được nhìn thấy phụ nữ khỏa thân, nên hỏng. Khi cô nàng tụt quần nằm ngửa lên giường, cái bộ phận giới tính đàn bà thần thánh nhất trắng lóa, đen xoăn nhấp nhô vun cao... Hai tên trai tơ kia chưa kịp hành sự gì đã tung tóe, coi như bị loại khỏi vòng chiến đấu. Tên thứ ba khá hơn chút, được năm phút là rống lên như bò, lăn uỵch xuống đất. Đến lượt Hưng, khá hơn cả. Là do hồi choai choai đi học đàn bên nhà Mạnh Hoạt, Hưng đã được y dạy cho cả cách thủ dâm. Y từng bảo: “Chơi gái là phải xứng đáng mới chơi. Còn không thì cứ vào nhà tắm mà tự xử còn sướng hơn!”. Hưng thường xuyên tự sướng nên thần kinh vững. Hắn “thi đấu” được hẳn mười lăm phút, đủ để cô nàng kia rên rỉ ngợi khen... Chính vì thế nên lúc thanh toán kinh phí bữa rượu gái đêm hôm ấy, bọn kia đồng thanh bắt Hưng trả nửa số tiền, bọn nó nói vì y sướng nhất nên xứng đáng chịu một nửa chi phí. Hưng nhìn vẻ mặt của hai thằng bạn chưa vào được đồn địch đã “hy sinh ngoài biên ải”, thương hại, bằng lòng. Mà cô ả gái bán hoa tinh quái, lúc nãy trước khi về còn thò tay xuống háng hai thằng bóp nhẹ và bảo: “Hai con chim này háu ăn quá nên mới thế, lúc nào bình tĩnh gọi em lại khuyến mãi cho nhé!”. Hai tên sinh viên trẻ không nói được gì, mặt đần như ngỗng. Thật là một sự khốn khổ.
Hưng lúc này cũng đang khốn khổ.
Đã gần năm nay kể từ khi đi làm công nhân, Hưng không có gái. Như đã kể, sau cái vụ vào đời với cô gái bán hoa, Hưng bắt đầu những cuộc chinh chiến chơi gái của mình. Nhưng khốn kiếp cho Hưng là hắn không yêu đương chung thủy với một nàng nào. Hắn chỉ chinh phục con gái để thỏa mãn bản năng. Hắn chưa nghĩ đến việc “yêu đương đứng đắn” gắn kết lâu dài. Mà đời thì còn dài, gái thì còn nhiều, toàn gái xinh. Hưởng thụ đã, tội gì! Lúc đó thì hắn tự hào về mình. Sau này lúc ngã ngựa rồi, thấy bên mình chả có một người con gái, một người đàn bà nào thì hắn mới thấy thực ra lúc đó có khi hắn cũng chả phải là chinh phục họ. Mà hắn rốt cuộc cũng là cái đồ chơi, cái trò giải trí của mấy cô nàng lẳng lơ kia mà thôi. Thật sự Hưng chưa từng yêu và được yêu. Hắn chợt nhận ra thế. Cay đắng. Thế nhưng cái phần đàn ông trong Hưng sau bao ngày vất vả khốn nạn khổ ải tưởng như ngủ quên rồi thì sau một chầu bia cỏ lúc chiều tối nay lại bốc lên phừng phừng. Hưng thấy bức bối dù lúc ấy thời tiết đã là cuối thu. Hắn biết mình cần phải làm gì. Hưng đi ra nhà tắm. Cái nhà tắm tạm bợ ở công trường nhưng cũng có hai gian chia đôi cho nam nữ cẩn thận. Quây và ngăn cách bằng các tấm tôn. Đúng lúc Hưng đi ra nhà tắm thì Mến - một cô công nhân trẻ cũng cắp thau đi tắm. Họ chạm nhau ở cửa. Mến liếc nhanh Hưng một cái rồi chẳng nói chẳng rằng, chui tọt vào nhà tắm trước.
Mến là một cô gái trẻ từ một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ về Hà Nội làm công nhân.
Cô theo người anh họ vốn như là một tay cai đầu dài của các tốp thợ đi làm thuê, kiểu như “bê phẩy” cho khắp các công trường. Chủ yếu cô nấu cơm chợ búa cho thợ. Ngoài ra, lúc rỗi việc cô còn chuyển gạch đánh vữa. Mến khá xinh, nước da nâu hồng, người chắc lẳn khỏe mạnh. Vào trong nhà tắm, đứng giội nước và mân mê kỳ cọ, Hưng nghe bên kia tiếng Mến cũng đang giội nước ào ào. Bỗng hắn nhắm mắt hình dung ra thân thể con gái đương thì căng tròn của Mến. Bản năng đàn ông càng bùng phát tợn. Thôi thúc. Hắn liều lĩnh gọi vọng sang: “Có cần người kỳ lưng giúp không để anh sang?”. “Sang đây...” kèm theo tiếng cười khúc khích...
Tiếng cười của Mến như là một thứ doping kích thích cao độ. Như khiêu khích. Như thách thức. Mời gọi. Cả người Hưng nóng bừng lên. Rừng rực. Như có một luồng lửa bốc từ thân dưới lên làm cho đầu mờ đi. Hưng không còn nghĩ được gì nữa. Hắn vạch tấm tôn buộc tạm bợ ngăn che hai phòng tắm luồn sang. Hưng ôm chầm lấy thân thể mát rượi của Mến. Cuống quýt hôn hít, xoa nắn vầy vò khám phá. Dường như Mến cũng đang chờ đợi những điều đó, hưởng ứng hắn ngay tức khắc. Hai thân thể trai gái trẻ trung quấn quýt vào nhau nồng nàn trong gian nhà tắm tạm bợ. Hưng hấp tấp muốn đi sâu vào ngay. Mến ngước mắt nhìn Hưng như cầu khẩn van lơn: “Từ từ thôi anh nhé, em chưa... em chưa... chưa thế này bao giờ...”.
Sau tối ấy, họ chính thức là một cặp.
Hưng cũng không ngờ một cô gái đã lăn lộn mấy năm qua các công trường mà vẫn còn trinh. Còn Mến, cũng đã biết về Hưng qua câu chuyện của mọi người. Và thời gian cùng làm cùng ăn, đã tiếp xúc nói năng với nhau đôi lần nên cũng có cảm tình sẵn. Có một chút gì đó như là tình thương trong vô thức của người thiếu nữ với người trai đang gặp bước đường đời khó khăn. Thế nên họ gắn vào nhau như định mệnh. Gắn chặt như đôi sam ngay tức khắc. Trai chưa vợ, gái chưa chồng nên mọi người xung quanh cũng chả ai bảo gì mà còn vỗ tay hùn vào nhiệt tình. Thế nhưng chỉ tháng đầu tiên gắn bó, Mến đã tắt kinh.
Khi Mến báo tin ấy, Hưng ngồi đực ra một lúc lâu.
Kể từ lần đầu tiên với cô gái bán hoa trên đường Giải Phóng, thì Hưng đã trải qua “tình yêu xác thịt” với khá nhiều cô gái khác. Nhưng toàn là sinh viên. Sinh viên cùng trường có. Sinh viên khác trường có. Thế nhưng dù ngắn hay dài, cũng không có cô nào từng thông báo cho hắn cái tin rùng rợn như thế. Hình như các nàng sinh viên kia đều chả tìm thấy nơi hắn cái gì chắc chắn để mà dựa dẫm tin tưởng. Các nàng cũng như hắn đều chỉ là tranh thủ hưởng thụ quãng đời vui vẻ trẻ trung mà thôi. Mà họ đều đang đi học, còn thuốc tránh thai thì bán đầy nhà thuốc ngoài phố, tội gì mà phải ôm nợ đời sớm cho phí hoài tuổi xuân. Nhưng Mến thì không suy nghĩ tính toán được như các cô sinh viên. Mến còn quá trẻ. Mến rời quê đi làm từ khi xong cấp 2, lúc mười lăm tuổi. Nay mới mười tám. Hưng là tình đầu của Mến. Mến yêu Hưng với tất cả tâm hồn, thể xác của một người con gái mới lớn. Dâng hiến cùng kiệt. Tin tưởng tuyệt đối vào người tình. Thế nên khi thấy Hưng ngồi thuỗn ra hồi lâu mà không nói năng gì, Mến òa khóc nức nở. Tiếng nức nở của Mến kéo Hưng trở về với thực tại. Hắn vội vàng ôm lấy người đàn bà của mình dỗ dành: “Thôi nín đi, để anh tính cách xử trí. Khóc thì được việc gì, làm anh rối thêm”.
Mến càng khóc to hơn!
Cô kết tội hắn bạc ác nhẫn tâm đùa cợt tình yêu. Cô nói đã yêu hắn với tất cả những gì mình có mà hắn lại đối xử thế. Đủ thứ ngôn từ dành cho những kẻ bạc tình được cô thốt ra... Hưng cố tìm mọi cách kiềm giữ cơn xung năng phẫn uất của người tình. Hắn ôm ghì thật chặt. Vuốt ve. Liếm nước mắt trên mặt. Hắn hôn hít, gắn chặt môi mình vào môi Mến không cho cô nói nữa. Rồi như một thói quen, hắn tuột quần cô ra, đi sâu tức khắc vào thân thể đàn bà của cô. Mến thở hắt ra một tiếng, buông lỏng người không quẫy đạp cấu cắn hắn nữa. Cô lại cong người lên vòng tay âu yếm dịu dàng ôm lưng hắn như thường lệ. Họ lại trong nhau êm ái dịu dàng. Và những xung động từ các điểm đầu dây thần kinh tiếp xúc truyền về khiến trong đầu của cả hai đều như có một dòng mật ngọt mát lành lan tỏa ra hóa giải hết những đắng cay ấm ức. Họ lại thầm thì âu yếm với nhau trong niềm hoan lạc...
- Anh định thế nào?
- Thì thế nào nữa? Chửa thì cưới! Có điều anh đang tính xem thông báo cho ông bà già ở nhà thế nào!
Mến cũng chỉ cần Hưng nói vậy. Và từ lúc ấy, cô thấy mình đã sẵn sàng đi theo người con trai này bất kể thế nào. Rúc mặt vào ngực người tình, thè lưỡi nếm những giọt mồ hôi mặn chát. Cô hơi ân hận vì đã vội kết tội bạc cho Hưng. Mến hạnh phúc tột cùng trong đêm ấy, mặc dù họ đang làm tình với nhau trên nền bêtông vừa đổ lúc chiều của tầng thượng một căn nhà xây dở. Cô bỗng thấy những ánh đèn nhấp nháy của phố phường nhà cửa xung quanh thật lung linh. Dường như mọi thứ đều đang hân hoan với niềm hạnh phúc của mình...
Nhưng cũng phải mấy tháng sau, khi Mến đã rõ bụng, đã nặng nề lắm rồi thì Hưng mới mang Mến về nhà ra mắt bố mẹ. Không phải Hưng có ý tìm cách chạy làng. Không. Hưng suy tính xem có cách nào để chỉ hai đứa cưới nhau rồi ở ngoài này. Bởi Hưng vẫn chưa dám nói thật cho gia đình biết là mình bị đuổi học. Thỉnh thoảng đảo qua nhà, Hưng chỉ nói với bố mẹ là hắn ra trường rồi, đang đi tập sự, bận lắm, vất vả lắm...
Hưng suy tính mãi. Nhiều lúc ngồi thừ ra cả tiếng rồi hai tay lại vò đầu bứt tai. Hưng tính mãi vẫn không ra. Hai đứa đi làm thuê, lương đủ tiền cơm tùng tiệm để đủ sức mà làm tiếp. Nếu không rượu chè cờ bạc gái gú gì thì hàng tháng cũng để ra được một ít. Thế nhưng một ít ấy chả có ý nghĩa gì nếu định sinh cơ lập nghiệp ở đất thủ đô đắt đỏ này. Nào là tiền thuê nhà. Tiền điện tiền nước. Tiền ăn uống đi lại. Đủ thứ tiền ở cái đất mà thở cũng phải có tiền này... Lại còn khi sinh con đẻ cái ra nó sẽ kéo theo cơ man nào các nhu cầu tiêu tiền. Rồi trẻ lớn lên phải cho đi học, lúc ấy lại nảy sinh cả một rừng vấn đề: Không có hộ khẩu tại thành phố vì không có nhà, không có việc làm ổn định. Thế là đứa con mình bị đưa vào thành phần “trái tuyến”. Và muốn được học lại phải tiền...
Hưng nghĩ muốn phát điên. Tay cựu sinh viên xây dựng bỗng nhận thấy mình và những người như mình thành ra cái loại công dân hạng hai. Mà không được là hạng hai, là vô hạng, là rác rưởi, là loại thừa thãi cặn bã ở đáy xã hội. Ở ngay chính cái thành phố mà bọn họ đang hàng ngày xây lên. Khốn kiếp! Hưng nghiến răng đấm mạnh tay xuống cái giường sắt công trường. Hưng vùng đứng dậy định đi ra quán làm vài chén rượu xuông cho quên đời. Nhưng sờ vào túi... Nhẵn không! Từ ngày Mến thông báo có thai, làm được đồng nào Hưng phải đưa hết cho Mến cầm. Một đồng cũng không dám giữ lại. Để Mến còn lo ăn uống và cũng phải bồi dưỡng ít nhiều cho cái thai ngày càng lớn. Hưng lại ngồi phịch xuống giường. Tuyệt vọng...
“Còn mỗi nước về quê!”
Khi Hưng tuyệt vọng thốt ra như vậy thì Mến hưởng ứng ngay. Cô bảo: “Đi đâu cũng được, miễn là cùng anh!”
Thế là Hưng và Mến dắt díu nhau lên cái xe khách chạy từ bến Long Biên về quê. Làng Ngọc. Chỉ chưa đầy một tiếng sau họ đã về đến đầu ngõ Ghen. Để cho bố mẹ khỏi đột ngột, mấy hôm trước Hưng đã gọi điện về làng nhờ nhắn cho bố mẹ biết là cuối tuần này hắn sẽ về nhà. Có mang theo “bạn” để ra mắt mọi người.
Nhà Hưng ở mãi cuối ngõ, giáp cánh đồng. Vốn là một thửa đất vườn khá to. Mấy năm ăn học của Hưng ngoài thủ đô đã biến cái cơ ngơi vườn tược cây trái xum xuê truyền từ đời nọ sang đời kia thành ra chỉ còn mỗi căn nhà ngang ba gian lợp ngói mũi, khoảng sân và một cây khế cổ thụ duy nhất. Vừa vào đến sân, chưa kịp chào bố mẹ chồng tương lai, Mến đã không kìm nổi cơn thèm, đưa tay vặt liền vài quả khế chua xanh ngắt đang lúc lỉu trên những cái cành nhỏ la xuống trước thềm nhà, cho ngay vào miệng nhai sồn sột ngon lành. Mẹ Hưng nhìn cảnh ấy chợt hiểu ngay...
Nhưng bố Hưng thì không hiểu.
Cái đầu của một ông nông dân chân chất làm sao hiểu nổi chuyện thằng con trai vốn chăm ngoan học giỏi nhất xóm. Đi ra thủ đô Hà Nội ăn học gần chục năm trời. Bỗng một hôm nó về nhà dắt theo một cô bạn gái bụng đã lùm lùm. Rồi nó nói chuyện cưới xin. Rồi nó bảo là không đi đâu nữa. Rồi nó bảo là quê hương có là chùm khế chua khế ngọt hay cây gì đi nữa thì giờ cũng chỉ còn mỗi cây trước nhà kia, nên phải giữ lấy. Rồi sau khi ngồi uống rượu chán chê, nó lại gọi mời mấy ông họ hàng làng xóm xung quanh sang uống nước giới thiệu mặt mũi vợ, cho mọi người biết nhau, nhận họ hàng anh em trên dưới. Rồi hết rượu nó bảo vợ ra phố gọi mua về thùng bia, nó lại tiếp tục ngồi uống bia như két, chém gió như đài. Và còn nhiều cái rồi nữa. Nhưng ông không nghe nổi. Và ông tự dưng hoa mắt chóng mặt nhức đầu khi nghe Hưng nói với mấy tay hàng xóm: “ĐCM, đời trai tôi tiêu tốn gần mươi năm trời đất kinh thành chả được cái sự nghiệp đéo gì các ông ạ. Bằng cấp không tiền của không. May còn vơ được em mái non mang về làm vợ. Thôi cáo chết ba năm quay đầu về núi, người đi mười xuân trở lại cố hương. Dzô dzô dzô!!!” Mấy tay đàn ông ngõ Ghen gật gù: “Công nhận là mày tài trai, trên răng dưới cát tút mà gái theo rều rễu. Chả mất xu sứt nào cũng cưới được vợ. Tài!”
Nhưng kể từ hôm ấy trở đi, bố Hưng nằm liệt giường không dậy nữa. Cấm khẩu luôn. Đến khi đứa con gái của Hưng thôi nôi thì ông cũng ra đi. Lặng lẽ. Mẹ Hưng cũng chỉ sống thêm được vài năm rồi cũng theo chồng về miền cực lạc. Ngôi nhà nhỏ với cây khế cổ thụ quả sai lúc lỉu cuối ngõ Ghen, chỉ còn vợ chồng Hưng và đứa con gái nhỏ sinh sống.
“Giời sinh voi giời khắc sinh cỏ!”
Ấy là cái chân lý mà người làng Ngọc đã truyền khẩu cho nhau một cách chắc nịch từ ngàn đời nay rồi. Thế nhưng có vẻ là thời buổi bây giờ khác xa xưa, đến cỏ cũng chả có chỗ mà mọc kia. Chuyện thế này...
Làng Ngọc vốn là chỗ đất tốt. Có thể gọi là địa linh cũng không sai: cạnh núi Thiên Thai và dòng sông Đuống, lại có mấy đường quốc lộ kế bên. Từ làng ra đến trung tâm thủ đô là Hồ Gươm không đầy ba mươi cây số đường nhựa, có đi xe bus cũng chỉ hết một giờ là tới nơi. Rất tiện lợi. Thế nên mấy năm nay kinh tế thị trường của nước mình mở ra, các công ty nhà máy đổ xô về mua đất ruộng của làng. Rồi các dự án khu đô thị mọc lên như nấm. Thế là chả mấy chốc dân làng hết ruộng. Ruộng làng thành đường nhựa, thành nhà cửa, thành công xưởng... Dân làng vớ được món tiền đền bù cũng khá, người thì xây nhà gác, nhà thì sắm đồ. Rồi ăn chơi nhảy múa cho bõ công cả đời mới có món tiền to. Và rồi chẳng mấy mà hết. Tiền hết nhanh như một giấc mơ. Tỉnh giấc mơ tiền, dân làng bàng hoàng hỏi nhau, lấy gì mà sống đây? Ruộng lấp cát, đổ bê tông lên hết rồi còn đâu chỗ cho cỏ mọc. Đói quá có muốn vặt nắm cỏ, nắm rau dại ăn cho đỡ xót lòng cũng không còn. Nhưng đói thì đầu gối phải bò, người xưa đã nói vậy. Người làng Ngọc vốn là dân có truyền thống chợ búa buôn bán làm nghề nên họ cũng xoay xỏa nhanh. Người thì đi làm công nhân nhà máy. Trẻ khỏe được học hành tốt hơn thì xin vào làm nhân viên các công ty. Số thì chạy chợ. Số đi làm bảo vệ trông xe, giúp việc gia đình... Nhưng có một số khá đông là đi làm thợ xây, lập hội phường đi nhận xây cất nhà cửa trong vùng. Là bởi các dự án đô thị mở ra nhiều, nhiều nhà cần xây lắm, thợ xây đắt hàng, làm không hết việc. Không hiểu người ta lấy đâu ra nhiều tiền thế mà xây cất rầm rộ, toàn nhà đẹp mọc lên trên cánh đồng làng năm xưa nay đã thành phố phường đường ngang lối dọc khang trang đẹp đẽ.
Hưng về làng, nhanh chóng nhập bọn với một phường xây toàn anh em trong ngõ. Còn vợ được mẹ dẫn ra chợ tạm đầu làng ngồi cái sạp hàng khô, bán vài thứ linh tinh mộc nhĩ nấm hương măng khô hành tỏi húng lìu kiếm thêm đồng rau mắm. Đến lúc mẹ Hưng mất thì Mến cũng đã thạo việc bán buôn, coi như thành nghề rồi.
Ngày Hưng đi làm, tối về ăn cơm cùng vợ con, nhâm nhi đôi chén rượu... cao hứng lại lấy đàn xuống chơi hát cho con nghe. Hưng được cái tính yêu trẻ con. Không phải vì được dạy từ bé trẻ em là tương lai của dân tộc, của đất nước đâu. Bởi những cái lời đó, Hưng chả bao giờ để tâm và thuộc được lời nào. Mà từ trong sâu thẳm của Hưng hình như bản năng làm cha đã có sẵn. Nên khi nghe Mến thông báo có thai là Hưng không dám mảy may nghĩ đến việc phá bỏ. Hắn rùng mình khi nghĩ đến việc người ta dùng kìm kéo sắc lạnh thò vào bụng, lôi một sinh linh đỏ hỏn ra ném vào sọt rác... Ôi. Không. Nếu thế làm sao Hưng có đứa con gái năm tuổi xinh như ngọc nữ ngồi kế bên, tròn xoe đôi mắt đen láy nghe bố đàn hát. Còn Mến, vợ Hưng đang thật sự hạnh phúc. Nhớ lại Mến cũng không hiểu làm sao cái lúc Hưng đùa nhả bên nhà tắm mà cô gái trinh vừa tròn mười tám dám buột miệng nói thách, “sang đây...”. Có lẽ là định mệnh đã xui khiến để họ gắn chặt vào nhau trong một gia đình nhỏ bé ở ngõ Ghen, làng Ngọc. Thôi đời thế cũng gọi là đáng sống. Và ngày tháng cứ êm đềm trôi.
Nhưng có một ngày chả êm đềm tí nào.
Là trưa hôm ấy, cánh thợ của bọn Hưng được chủ nhà chiêu đãi nhân dịp hoàn công. Một ngôi biệt thự bốn tầng lầu, một tầng hầm, mỗi sàn rộng ba trăm mét vuông trên một lô đất gần ngàn mét trong khu đô thị mới. Sân vườn suối nước, bể bơi ngoài trời có một cánh khác chuyên thi công đảm nhận. Xung quanh là hàng rào cánh cổng bằng hợp kim nhôm đúc liền khối. Vàng chóe. Ngoài vỉa hè hai mặt đường là những cây cổ thụ được công ty cây xanh mang về trồng trong có một đêm; đến nỗi sáng hôm sau dân tình đi tập thể dục sớm qua, đã thấy xanh rì, giật mình thon thót dụi mắt mãi tưởng mình còn đang ngủ mơ. Bọn Hưng làm nhưng chưa gặp chủ nhà bao giờ, chỉ làm việc với giám sát công trình. Nghe nói chủ là đại gia vùng này. Ông chủ có vẻ rất vừa ý với chất lượng công trình nên làm tiệc đãi thợ hoành tráng. Ông cũng ngồi uống cùng thợ. Bữa tiệc ê hề rượu bia, thức ăn ngon. Các cánh thợ thầm khen ông chủ sòng phẳng và chơi đẹp. Đến giữa buổi tiệc khi đã ngà ngà, ông chủ đứng dậy, cầm ly, rời bàn mình đến từng bàn thợ chạm cốc chúc sức khỏe và nói lời cảm ơn. Đến bàn Hưng ngồi...
- Ô...!
- A...!
Thì ra họ là bạn học thời phổ thông.
Khánh chủ nhà, trước học cấp 3 trường huyện cùng lớp với Hưng. Người ở xã bên. Khánh học dốt, chật vật mãi mới tốt nghiệp. Thi chả đỗ trường nào, sơ cấp trung cấp cũng chẳng bén mảng tới được cổng trường chứ nói chi đại học. Khánh ở nhà mới đầu lang thang buôn bán kiểu “bò béo bò gầy”, mua chỗ nọ bán chỗ kia, chỉ trỏ linh tinh, ăn chênh lệch. Thế mà rồi Khánh phất lên lúc nào không biết. Lên vù vù. Giàu nhanh hơn trúng lô đề.
Bạn cũ. Nên sau bữa rượu Khánh mời Hưng lên phòng riêng uống nước. Tâm sự. Khỏi phải tả về mức độ xa hoa của những đồ đạc đắt tiền mà Khánh vừa cho đưa về ngôi nhà. Hưng thực sự choáng váng. Và Hưng còn choáng váng hơn khi trong cơn phấn khích của rượu bia và thói thường của con người, thấy mình thành công vẻ vang hơn bạn cũ, cần phải thể hiện cái oai, Khánh kể hết. Về quãng đời đã qua và cả vì sao Khánh lại một bước lên ông, thành đại gia đất này. Ngày xưa Hưng là đỉnh cao vời vợi của cái sự học; nhưng sau bao năm ra đời, nay Khánh mới là đỉnh cao vời vợi mà Hưng vĩnh viễn không bao giờ với tới được. Khánh nói:
- “Đời đúng là có số ông ạ.”
- “Ừ. Đến giày dép còn có số nữa là con người...”
Hưng chỉ biết đế theo gượng gạo khi ngồi cả buổi chiều nghe Khánh huênh hoang về mình. Ra khỏi ngôi biệt thự lộng lẫy khi đã xế chiều, Hưng đi về nhà. Trong túi còn có một cái phong bì được Khánh nhét cho lúc đứng dậy. Khánh nói gửi quà cho con bé con. Hưng định từ chối thì Khánh giữ chặt tay Hưng lại, bảo: “Tôi bây giờ thuộc diện hoàn cảnh! Nhà đéo có gì ngoài tiền! Cho con bé mấy đồng mua kẹo thôi mà!”
Về nhà. Thấy vợ đang ôm con ngồi buồn thỉu trên bậc cửa, Hưng ngạc nhiên. Thường thì giờ này vợ con hắn chưa về. Con bé con sau khi tan lớp buổi chiều ở trường tiểu học gần đấy, lũn cũn khoác cái ba lô ra chợ với mẹ. Ngồi đợi khi nào mẹ cất dọn hàng xong thì hai mẹ con mới gồng gánh bế ẵm nhau về nhà. Rồi mới nấu nướng cơm nước bữa tối. Thế nhưng hôm nay...? Hưng chưa kịp hỏi thì Mến đã khóc òa lên nức nở: “Bị thu hết hàng rồi anh ơi...”
Thì ra là dạo này quê Hưng sắp lên đô thị. Lên đô thị là phải văn minh sạch đẹp. Buôn bán là phải vào khu trung tâm thương mại chứ cấm tiệt không cho bán chác vỉa hè lòng đường, đầu làng ngõ phố. Nhếch nhác. Mất trật tự an toàn giao thông. Thế nhưng có ba mớ rau, năm củ giềng, mươi nhánh tỏi, con cua, rổ ốc... thì trung tâm thương mại với siêu thị cái gì? Nên chính quyền cứ cấm, dân cứ ngồi. Nhiều hôm chính quyền đưa trật tự đô thị lên đuổi nhau với người dân, giằng co nhau, cãi nhau như phường tuồng. Đuổi đánh nhau như mèo với chuột. Huy động cả quân dân chính đảng mà dẹp cái chợ tạm đầu làng mãi không xong, hôm nay cáu quá, họ đánh xe ô tô lên, cứ thế xông vào khiêng ráo cả hàng họ quẳng lên xe mang về ủy ban tất. Cái sạp hàng khô nho nhỏ của Mến vợ Hưng chiều này cũng xuống kho ủy ban cả rồi... Hưng lấy cái phong bì trong túi, móc cả tiền công vừa được thanh toán nữa, đưa cho vợ bảo, hẵng cứ cầm lấy rồi tính. Mến cầm, mở cái phong bì ra. Trời. Một xấp tiền mới tinh bằng cả cái sạp hàng khô của Mến bị thu chiều nay. Cái sạp hàng khô ấy thực ra nó cũng chả đáng bao nhiêu tiền, chỉ năm triệu là cùng. Thế nhưng lại là cái chỗ “buôn thất nghiệp lãi quan viên”. Mua một bán mười là thường. Bây giờ chỗ bán chỗ buôn bị dẹp rồi thì biết tính làm sao đây? Tiền công thợ xây một người sao cho đủ chi tiêu cả nhà ở cái thời đắt đỏ này. Mến cứ ngồi thần ra, hết nhìn cái phong bì lại nhìn chồng. Cô đợi xem Hưng tính toán ra làm sao. Cuộc đời cô kể từ khi trao thân cho Hưng, thì nhất nhất nghe theo mọi tính toán của chồng. Chồng bảo về quê, thì về. Chồng bảo theo mẹ ra chợ buôn bán, thì ra. Bây giờ...
Nhưng Hưng tính mãi chả ra.
Vào chợ mới mua ki ốt để kinh doanh thì không có tiền. Siêu thị thì càng là giấc mơ xa vời. Chả lẽ lại cho vợ đi làm thuê làm mướn hay là phu hồ theo chồng? Thế thì con ai trông, đem treo xà nhà à? Bí bách. Thấy đời mình sao mà bí bách tối tăm không lối thoát. Nhìn ra ngoài đời thì thấy sao giờ nhiều người lắm tiền. Đấy như Khánh, tay bạn học phổ thông xưa. Hồi đi học y có biết chữ nào đâu, luôn phải chép bài của Hưng. Đi thi đại học thì bỏ giấy trắng cả ba môn. Thế mà nay phất lên thành ông chủ giàu nhất vùng, lên xe xuống ngựa, nhà cao cửa rộng. Tiền tiêu không phải nghĩ. Nhân viên sai phái có đến hàng ngàn. Còn Hưng, thì là chân thợ nề chủ nào nó cũng quát được. Quát đúng phải nhịn đã đành. Quát sai cũng phải nhịn không dám cãi. Cãi chủ nó cho ra đứng đường ngay! Chán cái cuộc đời này quá đi thôi!
Chán đời, Hưng lại lấy rượu ra uống. Để cho quên đời đi. Rượu quả là một thứ nước thần mà thượng đế ban cho loài người. Nó làm cho tâm hồn con người ta khi đau đớn được dịu đi, khi bế tắc thì có thể khai mở thăng hoa, bỗng thấy mọi sự trong cuộc đời này hư ảo cả. Chìm trong men say người ta thấy mọi thứ mơ màng như trong mộng. Biển cũng nông, sông cũng hẹp. Đúng là cuộc đời này chả có gì quan trọng. Vậy thì lại uống tiếp. Uống phê phê, Hưng lấy đàn ra gẩy, lấy sáo ra thổi. Và Hưng hát. Hưng hát từ chầu văn tuồng chèo quan họ cho đến nhạc bô lê rô, “Đắp mộ cuộc tình”! Mà lạ, điệu nào Hưng hát cũng hay.
Hồi mới về làng, sau khi ổn định cuộc sống, đến lúc có con, Hưng mới đi sắm lại mấy cây đàn sáo. Hưng muốn đánh đàn và hát cho con nghe. Mến bảo sao ngày xưa ở công trường không thấy anh hát bao giờ nhỉ? Hưng cười nhìn vợ. Mến có biết đâu rằng lúc ấy Hưng vừa khốn khổ khốn nạn vì mê mải đàn ca sáo thổi kèm tửu sắc đến tan cả giấc mơ kỹ sư xây dựng. Nhưng nay thì âm nhạc lại làm cho Hưng quên bớt nỗi đời. Thả hồn mình vào trong điệu đàn tiếng hát, Hưng thấy mình thành một con người khác. Thấy mình được bay lên, bay lên như con chim tung cánh giữa trời xanh cao thẳm. Thế nhưng bây giờ, chỉ sau khi uống rượu Hưng mới có hứng đàn hát. Nên giờ đây tối nào Hưng cũng rượu. Rượu làm cho Hưng quên nỗi sầu đời thăng hoa với âm nhạc. Rượu và âm nhạc bỗng trở thành nơi trú ngụ cho Hưng. Đêm đêm căn nhà nhỏ rộn tiếng đàn ghi ta thánh thót, tiếng măng đô lin rộn rã. Tiếng nhị nỉ non và tiếng sáo trúc vút... cùng tiếng Hưng hát. Thật lạ là giọng của một tay say rượu lè nhè mà nó vẫn cứ hòa vào được tiếng đàn sáo thành ra nghe cũng không đến nỗi nào. Thế nên hàng xóm họ cũng mặc kệ cho Hưng đàn hát. Thì họ được thưởng thức âm nhạc miễn phí còn gì. Vả lại, dân ngõ Ghen vốn ai chả có tí máu văn nghệ trong người...
Thế nhưng Mến thì không mặc kệ được.
Có chút tiền dành dụm sắp hết rồi. Hết tiền thì lấy gì mà tiêu, mà cho con đi học đây. Cứ ngồi mà đàn hát rồi lấy gì mà bỏ vào nồi đây. Mới đầu nghe đàn ca cũng thích, nhưng rồi nghe mãi từ ngày nọ sang ngày kia... đâm chán. Nỗi lo cơm áo gạo tiền ngày càng thúc bách khiến Mến càng sốt ruột hơn. Nóng lòng. Mà những cơn say của Hưng cứ ngày càng dài hơn, nối từ ngày nọ sang ngày kia. Lúc nào tỉnh táo đâu để mà chuyện trò tính toán đường đời...
Một hôm Mến đi ra khu đô thị mới, nhà Khánh, bấm chuông.
Nghe Mến tự giới thiệu mình là vợ Hưng, Khánh hơi giật mình nghĩ ngay, mẹ kiếp thằng thợ xây cùng đinh vắt mũi vào miệng mà kiếm đâu được con vợ khá thế. Người tròn lẳn, chỗ nào ra chỗ ấy, trắng hồng. Là bởi sau khi sinh con, mấy năm nay chỉ ngồi bán hàng trong lều chợ, không phải dãi dầu ngoài mưa nắng nên Mến trắng ra, xinh hơn. Mến nói qua cám ơn Khánh vì hôm trước bác gửi quà cho cháu nhà em nhiều thế. Tiện thể hỏi xem chỗ công ty bác to thế thì có việc gì cho em làm với. Cái sạp hàng khô bị dẹp rồi biết lấy gì mà sống mà nuôi con đây. Bố nó dạo này càng ngày càng đâm ra đổ đốn, suốt ngày rượu chè đàn ca sáo nhị rồi thì cả nhà uống nước sông thay cơm mất thôi...
Khánh lim dim ngồi nghe Mến kể lể sự tình. Và ngắm. Y kín đáo nuốt nước bọt, thầm nghĩ phải “chén” con này chứ không thì phí phạm của giời. Rồi Khánh bảo Mến cứ về, để lựa xem có gì gọi cho sau. Khánh phải lựa. Lựa lắm mới bố trí được cho Mến chân tạp vụ dọn dẹp nhà cửa ở văn phòng công ty. Phải lựa khéo lắm, là vì... Khánh lấy vợ vừa già vừa xấu. Năm xưa đang lang thang nghề đánh quả chỉ trỏ kiếm ăn linh tinh thì Khánh quen ông trưởng phòng tài chính huyện, qua một vụ móc ngoặc bán đồ thanh lý của ủy ban. Vụ ấy cả hai kiếm khá. Ông trưởng phòng khoái chí bèn rủ Khánh về nhà uống rượu. Gặp cô con gái đầu đang quá lứa nhỡ thì. Rượu vào lời ra, câu đi câu lại chả biết ỡm ờ đò đưa sao đó, mà Khánh thành luôn con rể ông tài chính. Ông tài chính gặp vận đỏ ngày càng phát đường quan lộ, lên đến chủ chốt tỉnh. Sẵn máu buôn bán trong người, Khánh dựa vào ông bố vợ kiếm ăn tốt. Sau này lập thêm mấy công ty xây dựng, kinh doanh bất động sản. Xây các công trình bằng tiền của nhà nước này. Làm các dự án khu đô thị, thu hồi đền bù đất nông nghiệp giá rẻ của dân rồi bán đất ở đô thị giá trên trời này. Nhiều trò lắm. Tiền thu về không biết đâu mà kể. Nhưng vợ Khánh thì vốn đã già xấu nay “hết đát” đàn bà càng xấu già và khó tính khủng khiếp. Bọn trẻ trong công ty gọi vụng sau lưng là “cá sấu chúa”! Cá sấu chúa ghen tuông ghê lắm, nhưng cũng không lại được với Khánh. Bởi Khánh đang là đàn ông khỏe mạnh lắm tiền. Khánh không đời nào đành lòng cam chịu cái “tam đại khốn nạn” của đàn ông thời nay, “vợ già nhà dột con dốt”! Khánh “chén” đều, bồ bịch lúc nào cũng có vài em. Thế nhưng Khánh kín, vả lại ông bố vợ vốn “vừa là đồng chí vừa là anh em” cũng thấu hiểu sự đời nên răn con gái: “Mày vừa phải thôi. Nó bây giờ là nhà doanh nghiệp lớn phải ra ngoài đối xử mọi bề. Làm căng quá mất cả chì lẫn chài thì ngồi đấy ôm tiền mà khóc!”
Thế nên việc y “chén” em Mến xảy ra ở đâu lúc nào tuyệt không ai biết. Tuyệt đối không. Kín bưng! Bọn nhân viên công ty, rồi dân làng Ngọc chỉ đoán mò thế thôi. Bởi thấy Mến dạo này xinh hẳn ra, ăn diện đong đưa nữa. Mà Hưng chồng Mến thì ngày càng bê bết trong rượu. Hưng nghiện rượu từ lúc nào chả ai hay. Nghiện nặng lắm rồi. Đến cái việc đi làm thợ xây để kiếm sống hắn cũng chỉ buổi đực buổi cái. Mến đi làm, con đi học là hắn trải cái chiếu xuống gốc cây khế, uống rượu và ư ử đàn hát. Đồ nhắm là những quả khế xanh chua lè trên cây. Hưng với tay vặt bỏ ngay vào mồm nhai sồn sột. Đã thế dạo này hắn lại nghiện thêm món lô đề. Chiều nào cũng phải lê la ra đầu phố, ghi vài con đề rồi ngong ngóng đợi đến giờ xổ số trên đài...
Chuyện Mến ngủ với Khánh rồi thì lời đồn cũng đến tai Hưng. Dân làng Ngọc vốn nổi tiếng về cái thói đưa chuyện. Cơ mà Hưng chả để ý. Bởi đã lâu rồi ông thần lưu linh đã chiếm trọn tâm hồn thể xác của Hưng. Không còn thiết gì đời. À mà không, vẫn còn có một tí để cho âm nhạc thỉnh thoảng tấu lên, tang tính tình tang, ai mang công chúa của anh đi đâu rồi i í ì i... Nghe Hưng hát thế, Mến đang nằm trong nhà trên giường một mình bỗng mỉm cười mơ màng. Cô nhớ đến những lúc ở với Khánh, y hay thầm thì vào tai Mến, “ôi nàng công chúa tuyệt vời của anh!”.
Hưng lại uống tiếp. Uống mải đến chiều hôm sau thì hắn ra phố, và xảy ra chuyện...
* * *
Hôm đón “Hưng cụt” từ bệnh viện về Khánh cũng vào chơi.
Y tặng Hưng một cái xe lăn để di chuyển cho tiện. Mến vẫn chăm sóc Hưng chu đáo. Cô bảo chồng, ngày em phải đi làm kiếm ăn, con thì phải đi học, anh chịu khó ở nhà tối em về với. Anh có muốn gì thì bảo em. Là bởi vì bây giờ Mến có tiền, cô đã được Khánh phong lên chức “trợ lý tổng giám đốc” rồi, không còn là nhân viên tạp vụ nữa.
Hưng ngồi trên xe lăn trước cửa nhà, dưới gốc cây khế, nhìn mông lung vô định. Một quả khế chín nẫu bỗng rơi đánh bộp trước mặt. Hưng bảo Mến: “Em mua cho anh con chim nuôi cho vui.” Thế là Hưng có một cái lồng chim yểng treo ngay dưới tán cây khế để nuôi, chăm, trò chuyện. Suốt ngày Hưng cứ lăn xe quẩn quanh gốc khế chuyện trò với con yểng. Cái giống yểng rất nhanh thân người. Và học tiếng người cũng nhanh. Chả mấy nó đã líu lô như trẻ lên ba, vắng bóng Hưng một tí là nó đã gọi nheo nhéo: “Hưng ơi, Hưng ơi...”.
Thật may, không có con yểng thì Hưng buồn đến chết mất. Vợ đi làm cả ngày, con đi học hai buổi. Chả còn người nói chuyện. May có con yểng chuyện trò cũng đỡ buồn. Thế nhưng càng ngày người Hưng càng teo tóp đi. Khô quắt dần. Bác sĩ khám bảo rằng cái vụ tai nạn chỉ là cú đánh bồi cuối cùng thôi, chứ người nghiện rượu lâu năm lục phủ ngũ tạng hỏng cả rồi. Sống ngày nào biết ngày ấy. Mà dạo này hai bên đùi bị cắt cụt của Hưng không hiểu làm sao đau nhức lắm. Uống thuốc, tiêm thuốc vào mà chẳng ăn thua. Hưng cứ ngồi trên xe lăn, dưới gốc cây khế, hai tay xoa hai cái mỏm đùi cụt mà rền rĩ: “đau quá, đau quá... yểng ơi, đau quá, yểng ơi...”. Con chim trong lồng nghiêng đầu tròn xoe mắt nhìn Hưng, nói theo: “Đau quá, đau quá...”.
Rồi một buổi sáng vợ đi làm con đi học, Hưng chết. Con yểng thấy Hưng nằm ngoẹo cổ trên xe lăn, mãi không nói gì, nó gào toáng lên: “Hưng ơi, Hưng ơi... chéc chéc chéc...”.
Thế là cũng xong một đời.
Người ngõ Ghen đi đưa đám Hưng về thở dài nói với nhau vậy. Nhưng con yểng thì không biết Hưng đã chết. Không thấy bóng Hưng đâu suốt ngày nó cứ ra rả gọi, “Hưng ơi, Hưng ơi...”.
Mến nghe tiếng con chim léo nhéo, sợ quá bàn với Khánh thả ra cho nó bay đi. Thế nhưng con chim chỉ bay quanh quẩn rồi lại về đậu trên cây khế gọi, “Hưng ơi đau quá, Hưng ơi đau quá...”.
Khánh lại mang lồng ra treo dưới gốc cây khế, để thức ăn nước uống vào trong. Thế là con yểng lại chui tọt vào. Khánh đóng chặt cửa lồng, trùm kín bằng vải đưa lên xe ô tô chạy một mạch sang chùa Hàm Long trên đỉnh núi Nam Sơn bên kia sông Đuống, nhờ sư thày ở đó làm lễ phóng sinh. Yên tâm đi về.
Ba hôm sau, Mến đang dọn dẹp nhà cửa thì nghe có tiếng loạt xoạt trên ngọn cây khế, rồi một cái giọng léo nhéo cất lên: “Đau quá, đau quá, đau quá...”.
Mến sợ mất vía, ôm đầu bịt tai chạy tốc khỏi nhà. Mến chạy thẳng ra trường học đón rồi cứ thế dắt con bé đi đâu mất không ai rõ. Có người nói là Mến dắt con về quê ngoại. Có người nói mẹ con cô ấy bỏ đi Nam. Nhưng có người lại nói là tay Khánh đã mang cô ấy ra Hà Nội, mua nhà ở trong ngõ sâu lắm, không ai biết được địa chỉ...
Ngôi nhà nhỏ với cây khế cổ thụ của Hưng ở cuối ngõ Ghen vẫn bỏ hoang từ bấy đến nay. Chả ai lai vãng đến đấy làm gì. Lâu ngày không có người ở, ngôi nhà suy sụp thành một đống hoang tàn. Nhưng cây khế thì vẫn còn. Ngày càng xanh tốt um tùm, rợp bóng xanh đen cả khoảng sân xưa. Người ngõ Ghen kể rằng, đêm thanh vắng thỉnh thoảng vẫn nghe hình như có tiếng đàn tiếng sáo từ đó vọng ra. Chen vào loáng thoáng tiếng gọi: “Hưng ơi đau quá, Hưng ơi đau quá, Hưng ơi...”.
Truyện dự thi: Ông “giám đốc” nghĩa trang làng Mai
Nguyễn Hiếu
Làng Mai là làng nhất xã nhất thôn, nhưng đồng lại có những hai cái. Người thì gọi là đồng trên đồng dưới, người thì gọi đồng gần đồng xa. Đồng nào cũng rộng mênh mông đến thừa thãi. Ngay đồng trên địa liền ba bốn cái cổng làng, mà chỗ Phân Nha kề chùa làng Vệ cũng chả ai cày cấy gì. Nên chỉ loe hoe vài ngôi mộ và những bụi dứa dại chỉ đợi vào mùa đông cho trẻ chăn trâu đốt sưởi và nướng khoai. Huống hồ đồng dưới xa tít mùa tắp. Đi chí ít ăn hết bốn bắp ngô bãi giữa sông Cái mới đến. Diềm đồng dưới toàn đất đồi thả sức cho phi lao mọc hoang, ngày đêm à à gió.
Đồng làng Mai rộng như vậy nên từ thượng cổ đến những năm cách đây trên dưới ba chục năm, nhà nào có người chết muốn chôn đâu thì chôn.
Lối độ quãng cuối năm chín, sáu mươi gì đó, hồi đó chợ Mai chưa bị phá để làm cột điện vượt sông Cái, có tay khách từ đâu đến ăn bánh đúc canh nhà cụ Nhèm nói bâng quơ, rằng dân làng này khó phát vì không biết chọn đất chôn ông cha, cụ kị để con cháu có cơ mà phát. Phó cạo Hỉn đen đang cúp tóc gần đấy, nghe được để bụng. Cuối năm đó, bố lão chết, phó cạo Hin đen nhất quyết chôn ông cụ ở góc gò Văn Chỉ có cái miếu đổ nghe nói là miếu thờ Khổng Tử bất chấp anh em, họ mạc bảo chỗ ấy không nước, thổ cạn, đấy rồi xem hàng chục năm chứ đừng nói ba năm mà tiêu được. Chọn đất chôn vậy, mà hơn chục năm sau, cu Vịn con trai độc nhất của phó cạo Hin đúp liền ba năm lớp ba. Nhỡn tiền như vậy nên dân làng Chiện nhà nào có người chết quay lại thói thích chôn đâu thì chôn, chả tính đến phong thủy, phong thiếc làm gì cho rách việc.
Ấy thế mà hơn hai chục năm lại đây, cả hai cánh đồng làng Chiện như thu hẹp lại nom choen hoẻn như bàn tay mở ngửa của đứa trẻ chưa đủ lớn. Đồng xa, đồng gần, nhà cửa trường học, trụ sở ủy ban trước ở trong làng bé tin hin nay bê hết ra đồng. Rặt nhà cao tầng, lại còn đường sá trải nhựa chạy quanh khu nhà, nuốt hết ruộng mương. Ngay Phân Nha hoang vu là thế, nay thành phố Mai. Nhà chồng tầng, đủ quán ca rao kê, nhà nghỉ, quán gêm tốc độ cao, phở Nam Định, và cả một nhà hàng thấy biển vẽ con ngựa trắng tung bờm phi nước đại để nói rằng đấy là quán thắng cố đích thị bạch mã Sa Pa.
Mãi giáp con mương thủy nông lấy nước từ sông Đào, giờ chỉ còn là con lạch mờ, sền sệt nước đen kịt, thum thủm, là một khu đất ước độ vài chục mẫu được khuôn lại bằng tường gạch xây mười để hở ra một khoảng làm cổng. Liền cổng có một nhà làm việc gồm hai phòng. Phòng dành cho tay Húng cai quản mà trên cái bàn ngổn ngang ấm chén, và cả thẻ hương nguyên, vỏ bảo hương có tấm biển nhỏ màu xanh khắc chữ vàng khá rõ nét “Trần Hùng - giám đốc nghĩa trang” (còn chuyện tay Húng sao thành Trần Hùng giám đốc có nguyên cớ hẳn hoi. Phần sau chép rõ), một phòng chứa đôi ba hòm hậu sự. Mảng tường sát chiếc cổng xây sơ sài, dành một vuông được trát nhẵn viền quanh trong đó nổi lên hàng chữ “Nghĩa trang nhân dân làng Mai”.
Có nghĩa trang tức là gia đình nào có người chết thì phải chôn trong nghĩa trang không được tùy tiện muốn chôn đâu thì chôn. Nghĩa trang làng Mai thì dứt khoát chỉ có người có hộ khẩu ở Mai chết mới được chôn ở “Nghĩa trang nhân dân làng Mai”. Vì điều kiện thế nên làng Mai mới sinh ồn ào, thì thào to nhỏ từ xóm nọ sang xóm kia. Ủy ban phải họp lên họp xuống. Và cuối cùng khi làng Mai lên phường được già nửa năm thì giám đốc Hùng bị huyền chức để thay vào một nhóm lãnh đạo khác gồm một phó một trưởng nhưng chỉ mang danh “quản trang” và “phó quản trang”. Nhưng dù thế nào thì việc có nghĩa trang nhân dân làng Chiện cũng phải ghi dấu người có công đầu là giám đốc Trần Hùng. Còn vì sao vị giám đốc này mất chức? Phần sau cũng chép hết.
Lý do gì tay Húng con giai ông Kinh Giới thành giám đốc Trần Hùng ?
Cụ thân sinh ra Trần Hùng giám đốc nghĩa trang làng Mai tên đủ trong hộ khẩu là Trần Văn Giới. Hồi cải cách quy thành phần là cố nông, được chia nhà quả thực. Còn bè bạn và dân làng thường gọi là lão Kinh Giới. Bởi thuở hàn vi, ước mơ lớn nhất của ông là được ăn thỏa thích bữa lòng lợn tiết canh với đủ thứ rau gia vị như mùi tầu, kinh giới, húng chó… Không biết có phải vì ám ảnh ấy không mà đứa con trai thứ hai trong năm đứa con ông Kinh Giới đặt là Húng.
Khi Húng hai lăm tuổi thì bố gã kiên quyết bắt gã lấy vợ. Đó là cái Bống, con nhà cả Ngan có nghề làm giò chả hình như gia truyền đã ba đời. Húng với Bống cũng chẳng phải thân nhau huống hồ là yêu nếu không vì ông bố Kinh Giới thỉnh thoảng ra nhà cả Ngan mua năm xu nước trần chả về cải thiện bữa ăn cho lũ con kèm vài đầu mẩu chả, dúm nem chạo đưa cay…
Khi bố mẹ cho ra ăn riêng thì Húng vì học hành chưa hết lớp năm nên xin việc cũng khó, kể cả làm thợ sắt ở nhà máy bê tông ngay đầu làng, vì thế gã theo thợ xây làm chân phu hồ buổi đực buổi cái. Còn cái Bống vợ gã thì túc tắc lấy giò chả, chạo của bố mẹ xuống bán ở chợ Mai mới. Cái gia đình con con của Húng, Bống dạo đó chả biết thế nào song ngày ngày cũng đỏ lửa hai lần như mọi nhà khác. Khẩu phần ăn chắc cũng qua bữa, giả lễ chúa Mường nên mới ngoài ba mươi má chồng thì hóp lại chỉ nhìn thấy răng là răng, còn con vợ nghe nói bộ nhai rụng gần hết. Riêng khoản con cái thì ông trời bù lại. Cái Bống năm lần đẻ thì tụ cả năm. Ba thằng con trai quanh năm mặc độc quần cộc rách xơ, hở rốn. Đứa thì thây lẩy, đứa thụt sâu vào bụng. Hai đứa con gái, mùa hè chí mùa đông đánh độc áo cánh cháo lòng, quần lá tọa cắp rổ đựng lá chuối vừa róc ở vườn về cho mẹ bọc chạo, giò, chả bán cho khách.
Lũ con nhà Húng Bống dù nghèo đói đến đâu theo năm tháng cũng đến kỳ trổ mã. Con trai ra đường quàng thêm áo chữa lại của bố hay xin quanh họ hàng, con gái đã biết mua dây rẻ tiền ở chợ buộc tóc gọn thì trời bắt đầu run rủi.
Đúng lúc đó, đồng làng liên tiếp mọc đủ thứ nhà, đường, việc chôn cất người chết xã đã co vào một khoảng thì Húng lên ủy ban gặp tay chủ tịch xã họ xa đằng ngoại, vốn bộ đội phục viên, rất mê món chạo của cái Bống, trình bày gì đấy. Chả hiểu nội dung gì mà ngay ba ngày sau Húng ta cùng tay Lãm anh em cọc chèo trong hiệp thợ xây ra xây tường bao bọc lấy khu đất mà Húng bảo xã đã quy định làm nghĩa trang .
Nói gì thì nói, dù chê hay khen thì Húng ta sau này lịch sử làng Mai vẫn phải ghi rõ đó là giám đốc đầu tiên của Nghĩa trang Mai.
Cũng cần nói. Làng Mai là làng ngoại thành, tính đường bay cách hồ Lục Thủy trung tâm kinh thành tròn chục cây, xấp xỉ đường từ phố đến Văn Điển. Có lẽ vì thế nên trừ những gia đình có tư tưởng thông thoáng đưa cha già mẹ héo đến đài hóa thân Hoàn Vũ, vẫn không ít nhà nội thành muốn mai táng người thân theo lối cổ truyền. Văn Điển thì đất chật mồ đông, các nghĩa trang Vĩnh Hằng, Lương Sơn… không phải nhà nào cũng có điều kiện lên, nên Nghĩa trang làng Mai thành địa điểm ưa thích của dân trong thành và lân cận chọn khi cha già mẹ héo, người thân từ giã cõi đời. Khổ nỗi Nghĩa trang Mai chỉ cho an táng người có hộ khẩu Chiện.
Húng ta chả có ai cử ngoài lần nói chuyện với vị chủ tịch mê chạo cái Bống mà nghiễm nhiên thành người quản lý duy nhất Nghĩa trang Mai. (Nói duy nhất vì tay Lãm em cọc chèo với Húng sau khi xây gần xong tường bao nghĩa trang thì có giấy đi xuất khẩu).
Đâu chừng trên dưới mười lăm năm từ khi đảm nhận cái chức mà mỗi khi gặp ai Húng ta đều bảo đó là thứ việc “cơm nhà vác tù và nghĩa địa”, với lại “béo bở gì cái chỗ cả ngày lẫn đêm chỉ nói chuyện với ma” thì Húng ta làm cho ba đứa con trai đã lấy vợ cùng nhà vợ chồng gã với hai đứa con gái đủ bốn cái nhà xây to vật vã. Nhà nào đi ngoài nhìn vào cũng thấy tivi hình phẳng to tướng, tủ lạnh lênh khênh, và những cục nóng máy điều hòa đậu tường… Gần đây bốn cái nhà Hùng và con cái lại vang ra tiếng loa ca rao kê chói tai. Hỏi Húng về tiền xây bốn nhà ấy, Húng ngoẹo hai lần cần cổ núng nính, đỏ au vì uống bia chai, đều hất hàm vào chỗ vu vơ bảo “trông vào tiền bù đất cả đấy, với lại các vị không thấy con mẹ Bống nhà tôi từ hồi về bán vàng mã, giò chả ở cổng nghĩa trang đắt hàng ra phết đấy à ?” Ai nghe cũng gật đầu ra điều hiểu việc Húng nói, nhưng về nhà mới tự vấn thầm: “Lão cố nông Kinh Giới ngoài nửa căn nhà quả thực được chia, thêm hơn sào ruộng giờ đang trồng rau muống có đếch chỗ đất nào bán. Tay Húng nó phát chỗ nào ấy chứ? Chịu!”.
Làng Chiện có tay Quân, nghe người làng đồn là nhà báo trung ương. Thấy bảo nhà báo Quân là có tiếng lắm vì một tay hắn khui ra hàng chục vụ tham nhũng gì đấy làm chí ít dăm tổng giám đốc, hình như cả thứ trưởng, vào tù. Hôm Quân về làng cải mả mẹ, thì gặp Húng ở phòng nghĩa trang. Trông thấy Quân từ xa, Húng đã le te chạy ra, chìa hai tay ra đón sẵn, cặp má phính lên vì bia.
- Chào ông anh nhà báo. Nghe tin ông anh về thay áo cho cụ, chính em đã chỉ chỗ đất có thể nói là mặt tiền cho cụ đấy.
Quân mỉm cười đi vào phòng Húng:
- Bây giờ đổi mới rồi. Chú nên khắc ngoài cổng biển hiệu “Công ty nghĩa trang Mai” hay “Nghĩa trang nhân dân Mai”. Chứ ai lại để trơ khấc trần cù sì ra thế.
- Hay, ý kiến ông anh cực hay. Đúng là nhà báo trung ương có khác. Nhưng em xin phép anh em lấy tên “Nghĩa trang nhân dân Mai”.
- Tùy chú. Thứ hai, chú nên làm tấm biển để trên bàn này này chức danh của chú “Giám đốc Nghĩa trang…”. À, anh góp ý thêm. Chú nên thay dấu huyền cho dấu sắc tên chú. Mà bỏ luôn tên đệm đi chỉ đề “Trần Hùng, Giám đốc nghĩa trang Mai”. Nghe khỏe và hay như tên Trần Tiến, Trần Hiếu ấy.
- Em nghe anh sẽ đổi tên như anh gợi ý, nhưng chức giám đốc thì…
- Cậu quên giờ là thời kỳ đổi mới à. Chữ quản trang vừa quê vừa không sang Nghe lời anh, đổi đi.
Dòng chữ “Trần Hùng giám đốc Nghĩa trang Mai” ra đời từ đó. Sau sự hình thành biển tên “Nghĩa trang Mai” và biển hiệu “Giám đốc nghĩa trang” chừng sáu hay bảy năm, hình như vào dịp tạ mộ cuối năm thì phải, giám đốc Trần Hùng và nhà báo Quân có cuộc chuyện trò khá lâu. Nội dung cuộc chuyện trò được ghi như sau.
Cuộc trò chuyện của nhà báo Quân và giám đốc Trần Hùng tại văn phòng nghĩa trang Mai
Gã nhà báo cùng làng vào đến phòng làm việc của giám đốc Hùng ở nghĩa trang, rút bao thuốc ra hỏi lấy lệ:
- Giám đốc có hút thuốc không ?
- Em vẫn trung thành với thuốc lào. Ở đây điếu cầy, về nhà điếu bát. Chả biết anh thế nào chứ em thấy sáng dậy làm phát thú như ăn gan lợn, xong chiêu chén trà nóng thì thôi rồi. Ngặt nỗi ở nhà hút vợ kêu, sang nhà con đứa nào cũng rỉ rả. Mẹ con nó bảo nhà cửa thế này không hợp thuốc lào.
Nhà báo Quân nhếch mép, hỏi độp:
- Chú bán bao nhiêu đất mà xây được bốn cái nhà, rồi tiền sắm sửa đồ dùng, tậu xe máy cho hai đứa con gái.
Giám đốc Trần Hùng nhìn nhanh người hỏi:
- Bác ít về quê mà sao tường thế? Nhà báo có khác. Anh xơi nước. Trà ngon đấy ạ. Thấy cái nhà ông biếu bảo những ba triệu rưỡi một ký, anh uống thử xem có xứng giá ấy không?
- Người làng hay người thiên hạ biếu chú?
- Thiên hạ chứ làng lấy đâu? Anh lạ gì dân làng ta. Ra đường thì một tấc đến giời, kể cả lúc trong nhà đồng xu dính đít không có. Dân Mai có lẽ trừ anh em mình còn đa phần kiệt, hạt đớn cũng không rơi ngoài cửa.
- Chú chưa trả lời anh. Chú bán bao nhiêu đất mà đủ tiền xây bốn cái nhà, nội thất toàn đồ thượng hạng thế ?
- Úi giời bác không biết. Làng mình không nhờ tiền đất liệu có được như bây giờ không? Nhà An Nhổn sát nách nhà anh nhé, nhà Lan lỳ ngõ Đông, rồi nhà Bình củi, nhà Lý Vợi vừa rồi còn mua bộ dàn ca rao kê riêng cặp loa đã ngót ba mươi triệu. Lúc nào nó mở đến đầu ngõ đã thấy nhức đầu. Toàn bô lê rô xịn…
- Ha ha.
Gã nhà báo người làng đang cười vang bỗng tắt ngang.
- Tòa soạn báo tôi cùng mấy báo nữa vừa nhận được cùng một lá thư có chữ ký, địa chỉ hẳn hoi, có cả xác nhận của người thiên hạ đã giao tiền cho chú nhưng không được đáp ứng đúng yêu cầu.
- Về cái gì ạ? Mặt giám đốc Trần Hùng hơi biến sắc, giọng nói chớm khàn.
- Quyết định của Ủy ban xã chú thuộc lầu lầu, nhưng theo đơn này tố giác thì chú luôn đi đêm với những ai ở thiên hạ để chôn người không phải dân Mai ở đây. Ma tươi chú có chọn lọc khách để khỏi lộ. Còn ma khô muốn quàn tại nghĩa trang Chiện thì đơn giản, dễ lọt hơn nên là chú xả dàn đúng không?
- Bác nói thế thì oan em quá.
Nhà báo Quân đưa tay xua con muỗi vừa bay qua bộ ria móng trâu, miệng hơi tủm tỉm.
- Dân thiên hạ khá thuộc giá chú ra hẳn hỏi đây này. Ma tươi trọn gói 40 triệu, ma khô 30, mộ khống đơn 25, mộ khống đôi 35. Đúng chưa?
- Đúng là chúng nó đóng sống cho em chứ quả thực. Anh ngồi từ nãy đến giờ chí ít cũng hơn tiếng mục kích. Có thằng người nào không. Cả ngày từ năm giờ sáng đến bảy giờ tối, có mình em ở nghĩa trang này, muốn nói chuyện chỉ nói với ma. Nên em mới nghĩ cách đưa mụ Bống nhà em về đây bán dò chả, hàng mã… vừa kiếm thêm vừa vợ chồng có nhau trò chuyện.
- Hi hì. Ngay chuyện chú cho cô ấy về đây bán thì giá bán các mặt hàng của cô ấy cũng gấp rưỡi, thậm chí gấp hai, ba hàng cùng loại ngoài chợ. Giò lụa 20, cô ấy bán 30, chả nướng ngon 15 vợ chú rước lên 20, 25, đồ hàng mã cũng vậy.
- Ấy, ấy. Người mua đa phần thiên hạ… Chết chết em nhầm. Ý em muốn nói là ai mua cũng công nhận nhà em bán thế là rất tiện, chứ cần, đi xe máy xuống chợ tốn xăng cũng quá tội…
Tay nhà báo cùng làng ngửa mặt lên thở làn khói hơi méo thủng thẳng nói tiếp:
- Chú làm giám đốc ở đây gần mười lăm năm năm, cô ấy về đây bán cũng năm, sáu năm rồi, thì tiền chú xây bốn cái nhà chứ xây mười cái cũng thừa sức…
- Anh ạ…
- Sao?
- Em họ Trần. Bà ngoại anh, em biết cũng họ Trần, tức là em với anh trong họ ngoài làng. Có gì anh và tiện thể anh nói với bạn anh ở báo khác bỏ qua cho em. Thư họ sai nhiều nhưng em không giải thích mà chỉ muốn anh lờ đi đừng đăng báo. Ủy ban làng mình em biết là ngại phê bình lắm. Làng mình lại đang phấn đấu thành xã điểm nông thôn mới, anh mà bung cái này ra em chả sao. Cùng lắm em về phu hồ, vợ em lại ra chợ bán bình thường, nhưng ủy ban xã thì… Lúc đó bác về làng... cũng không dễ chịu đâu.
- Bỏ qua, lờ đi, không đăng báo? Chú lại dọa tôi nữa à.
- Anh cứ nói… Em đâu dám. Có điều. Anh tuy người làng nhưng không hộ khẩu Mai đúng không. Chị cũng vậy, mà bác nay đã gần bảy sọi rồi… Người thất thập như chuối chín cây, biết rụng lúc nào… Anh tính đi, em sẽ dành cho anh chị và cả những nhà báo nào bạn anh vài ngôi mộ đôi… Em lo chi phi hết. Toàn chỗ tốt, mặt tiền ngon lành ổn chưa?
- Chà chà. Làm nghề nào ăn nghề nấy. Chú nhìn xa trông rộng thật. Nhà báo Quân tấm tắc.
Giám đốc Nghĩa trang Trần Hùng ngúc ngắc cổ như để thông giọng rồi gã lia một tràng cùng với những cái giật mông làm nhịp:
- Nói thật với ông anh. Vu thế chứ vu nữa em cũng không ngán. Nhân chứng, bằng chứng và nhất là chứng từ đâu đưa ra đây. Rành mạch rõ ràng thằng này chưa chắc đã chịu, huống hồ nói vu vơ…
Cái kết bất ngờ của chuyện này
Không biết có phải như lời giám đốc Trần Hùng thách thức thiên hạ về nhân chứng, bằng chứng và nhất là chứng từ không mà vụ Nghĩa trang Mai rồi cũng chìm đi như mọi chuyện khác còn đáo tụng đình hơn nhiều ở cái làng Mai này. Chỉ có điều, từ năm kia làng Mai này lên Phường. Khu Nghĩa trang Mai nghe mấy vị thuộc hàng có máu mặt ở phường bảo, sớm muộn cũng phải dẹp vì ai lại để choành oành cái nghĩa địa ngổn ngang, mồ mả lộn xộn, chả ra hàng ra lối gì ở giữa khu nội thành thế này. Đó là lời nói của kẻ ra điều thạo tin thôi, chứ Quận, rồi cả Thành phố đã nói gì đâu. Thế nên người chết có hộ khẩu Mai vẫn chôn ở nghĩa trang.
Nhìn bề ngoài nghĩa trang Mai vẫn thế. Một bức tường gạch cũ kỹ xây mười bao quanh, đôi ba cây bạch đàn lâu năm vẫn nhô khỏi tường rì rào gió. Thực ra bên trong thì đã khác đôi ba điều cơ bản.
Điều nhất là quy định Ủy ban phường đã mở rộng về nhân thân người được chôn trong nghĩa trang. Ngoài người có hộ khẩu Mai thì thiên hạ nhất là người Mai đi làm ăn thiên hạ cho dù không có hộ khẩu phường, ai muốn chôn ở đây thì đóng tiền theo quy định.
Điều thứ hai. Giám đốc Trần Hùng đã được thay bằng hai vị mà chức danh đã trở lại như xưa. Thằng cha Hỉn con rơi của lão lái bè ở ngoài xóm nay gọi là tổ dân phố Cầu Binh làm quản trang, còn tay Nghệ con thầy cúng Kỳ (các cụ ngoại bảy mươi gọi là Thống) làm phó quản trang. Nghe dân bảo ông chủ tịch phường là tay Nhẫn con nhà Đoàn thịt lợn mới lên bảo”thời buổi này, người có máu kinh doanh thì đặt vào ghế quản lý là tốt nhất”.
Quản trang Hỉn và phó quản trang Nghệ lên thay mới được già nửa năm dân Chiện đã kháo nhau. “Hai tay này xem ra có vẻ hợp nhau lắm. Chuyện gì giở ra cũng thằng đấm thằng xoa khéo đáo để”.
Còn giám đốc Trần Hùng nghe nói sau khi bị phường huyền chức, không theo hiệp phu hồ nữa mà ở nhà. Mỗi ngày đảo qua nhà ba đứa con xong về lại mở ca rao kê ra khi thì hát một mình, khi thì kéo bạn cùng lứa đến vừa nhâm nhi vừa hát. Bài tủ của gã là “Tình cũ mười năm”.
Buổi chiều hát chán, mặc dù nhà có đến ba cái xe máy nhưng Trần Hùng vẫn khoái đạp xe đạp Pơ Giô cũ. Khi đi, ai lắng nghe kỹ vẫn nghe tiếng lanh tanh nơi nan hoa. Dạo vài vòng quanh làng như để chờ đến chập tối, là gã lại đạp ra khu nghĩa trang. Có lần, quản trang Hỉn về muộn nhìn thấy chụm tay làm loa gọi thật to:
- Húng, ông Húng… vào đây cố vấn cho cái này tý…
Nguyên giám đốc Nghĩa trang Chiện lờ đi guồng xe nhanh hơn, mồm lẩm bẩm:
- Lộc mày mày xơi chứ gọi gì ông… Đồ ranh con mất dậy, gọi xách mé thế thì có mà…
Chèm, trung tuần tháng 6 Kỷ Hợi (nhằm cuối tháng 7/2019)
Truyện dự thi: Bụi thị thành
Lê Quang Thọ (Đắc Lắc)
Đêm đã khuya, một góc Tây Nguyên chìm trong ánh sáng lờ mờ của ánh trăng đầu tháng năm. Những cây mít, cây xoài in bóng đen bất động trong bóng đêm lành lạnh hơi sương, trời lặng ngắt không chút gió. Đường làng như một vệt sáng mờ với hai đường viền đen là bóng hàng chè tàu, dâm bụt mà người ta trồng làm hàng rào. Dân quê ở đây đi kinh tế mới từ một huyện ở tỉnh Quảng Nam nên giống nhau về tập quán văn hóa. Không nhà nào có cổng, có lẽ vì chẳng ai tham của ai nên không cần phải giữ.
Từ khi có chủ trương khoán 10 giao đất cho nông dân, cuộc sống thay da đổi thịt từng ngày. Vùng quê hẻo lánh xuất hiện quán bi –a, quán karaoke. Có đêm xóm nhỏ chìm vào giấc ngủ chập chờn, vì tiếng hát nhừa nhựa của người say, tiếng thôn nữ ngại ngùng khi giọng hát của mình phát qua dàn loa lớn. Ngày làm đồng, đêm về giải trí, họ vô tư coi đó là thú vui có đẳng cấp. Lâu dần ai cũng quen và chấp nhận âm thanh đó như chuyện bình thường.
Nhân vừa cố học xong bài Lịch sử thì nghe thấy tiếng chân vào ngõ, dưới ánh điện hắt ra sân, bóng thằng Đen lầm lũi đi vào.
- Mày vẫn học à? – vừa ngồi xuống ghế, Đen hỏi như câu chào, vì việc học của Nhân anh ta đã biết rồi.
- Phải cố thôi, tao đâu còn cách khác.
– Nhân nói nhỏ - Mày thấy đó, cuộc sống phát triển chóng mặt, chẳng lẽ mình đứng yên?
- Nói thật – Đen hạ giọng – Tao tôn trọng khát vọng của mày, khâm phục sự kiên trì của mày. Mày cố đi, còn tao, tao không theo được. Thi tốt nghiệp xong, người ta khăn gói đi ôn thi. Còn mày về đi gặt lúa thuê, tao đi cào hến. Mày nghĩ coi cả xã mình mỗi năm vài đứa học đại học, tao không bền chí như mày. Bất chợt Đen đổi giọng như đùa – Mà năm 2000 tới sát rồi, mày nghe sự cố Y2K không? Tao nghe nói là Trái đất tiêu tùng luôn đó. Huống chi tao mà thi đậu đại học thì tiền đâu mà học?
Nghe nhắc đến tiền học mặt Nhân tối sầm lại, biết mình lỡ lời, Đen đứng dậy nói:
- Cố lên, tao chúc mày thành công.
- Nói rồi Đen đi vội ra cửa.
Nhân nhìn theo bóng Đen mà nhớ lời người làng hay thắc mắc: Sao hai đứa lại thân nhau được? Khi đi xây dựng kinh tế mới ở đây, hầu như không nhà nào có gì quý giá. Mẹ thằng Đen to béo, nhưng không hiểu sao có giấy mất sức nên được miễn lao động. Mọi người làm cho hợp tác xã cuối năm tính công điểm nhận lúa. Tiếng là làm nông mà thiếu ăn cả làng. Mẹ thằng Đen nhanh nhẹn mở quán bán hàng xén. Vì nghèo nên nhiều người mua thiếu nợ, đồng mắm đồng dầu đều ghi sổ. Đến mùa nhận lúa công điểm, bà quy ra lúa non, giá lúa bằng phân nửa, có khi là phần ba giá mua của hợp tác xã nên nhà bà giàu lên nhanh. Vì nghèo túng, ai cũng phải chịu để bà tính. Nhà Nhân cũng phải chịu vậy, nhớ những lần đi mua mắm muối mà thiếu nợ, Nhân thấy tủi hổ vô cùng. Bà Sáu, mẹ Đen và anh chị nó chọc quê, có khi chửi mắng, để đứng chờ thật lâu mới bán. Hôm nào gặp thằng Đen nó vui vẻ bán ngay, vì cho rằng sau tính lúa non càng có lợi.
Trong xóm nhiều trẻ con mà hắn và Nhân thân nhau nhất. Từ khi có chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường, nhiều người buôn bán, nhà Đen sa sút dần. Đến khi phải bán dần ruộng đất, cha mẹ, anh chị Đen quen tỏ ra nhà giàu nên càng nhanh lụn bại, đến giờ thì rơi vào cảnh nghèo đói. Đen sợ không có tiền học đại học cũng đúng. Nó đi cào hến mỗi ngày kiếm ký gạo, anh chị nó có gia đình riêng hết rồi nên nó phải lo cho cha mẹ. Nhân nghèo khổ cũng quen rồi nên không còn sợ nữa, dù chưa biết lấy đâu ra tiền ăn học nếu thi đậu đại học. Dù vậy, Nhân vẫn quyết tâm thi đại học. Có lẽ nghèo khó làm con người ta mạnh mẽ hơn.
***
Nhân thi đậu Đại học Tây Nguyên. Trước hôm lên đường nhập học, nó đãi thằng Đen ly chè tự nấu gọi là ăn mừng thi đậu. Đen nhìn ly chè nói giọng chua xót:
- Nghe nói xã mình năm nay có vài đứa thi đậu, người ta có ăn mừng như hai thằng mình không? Mày đi học là chấp nhận vô vàn khó khăn, nào cơm áo gạo tiền, nào cuộc sống phố xá không như quê mình. Mà mày lại không tới quán cà phê, chẳng hát karaoke hay chơi bi – a nên càng lạc hậu khi xuống phố.
- Tao sẽ sống được mà. Năm tới, mày cũng thi đi, ngành sư phạm được miễn học phí, tụi mình chịu được – Nhân nhìn vào mắt thằng Đen, động viên nó mà như tự động viên mình.
- Tao á? – Ánh mắt nó như đang cười – Không được như mày đâu. Nghe gì không? Quán kia hát, quán nọ tiếng đấm đá huỳnh huỵch, tiếng ứ ớ của những pha làm tình trong phim. Nhất là cơm áo, tao sợ mình khó qua được. Thôi mày đừng lo, tao sẽ sống được. - Nói xong Đen đứng dậy chúc Nhân vài câu rồi ra về.
Ở đời cũng lạ, gian khổ cả đời chưa quen, sung sướng vài ngày đã thấm vào máu. Đi kinh tế mới từ 1977 đến nay đã 20 năm khổ cực triền miên chưa quen. Có cơm no, áo ấm chưa lâu đã học đòi hát hò, bi – a, phim ảnh thì mát mẻ, hoặc đánh đấm... Đời sống kinh tế khá lên thì văn hóa bị xô lệch. Người quan tâm đến đạo đức giới trẻ bắt đầu tặc lưỡi lắc đầu khi đi qua quán cà phê có chiếu phim phục vụ khách.
Từ hôm Nhân trở thành sinh viên khoa Sư phạm Ngữ văn Trường Đại học Tây Nguyên. Nhà nghèo nên phải làm thêm tất cả mọi việc người ta cần, từ gia sư đến đào hố trồng cà phê, miễn là có tiền chính đáng. Nghỉ tết năm học thứ nhất, rồi hè đó cũng không về, mà ở lại làm thêm kiếm tiền học. Nhân không hề biết làng quê đã thay đổi rất nhiều. Kinh tế phát triển, văn hóa, lối sống cũng thay đổi. Lớp thanh niên bắt đầu có xu hướng đi Sài Gòn tìm việc làm, sự học vì thế thêm phai nhạt trong tư tưởng nhiều người.
Hôm nghỉ lễ, tết, thanh niên làm ăn xa về lượn như cá cảnh. Tóc xanh, tóc đỏ, môi son má phấn và những bộ quần áo ngắn cũn, xẻ cao, xẻ dài bất tận. Bức tranh làng quê mộc mạc chân chất như bị loang những vết màu bẩn. Những đêm trăng yên bình ở quê thỉnh thoảng bị xé toạc bởi tiếng nẹt pô, tiếng gầm rú của xe máy. Đạo đức xã hội tỷ lệ nghịch với đời sống vật chất. Nhà nhà xây cổng, tường rào cẩn thận, mới nhìn tưởng như cuộc sống khởi sắc, đủ đầy, nhưng phía sau đó là tiếng thở dài, vì người quê tham lam hơn và không còn tin nhau như trước. Đạo đức là nền tảng của văn hóa. Đạo đức xuống cấp thì văn hóa cũng theo đó mà xuống, nhất là trong bối cảnh mở cửa hội nhập, đời sống đủ đầy, no ấm.
Từ ngày Nhân đi học, Đen không còn người để tâm sự nên tối tối hay ngồi quán cà phê. Dù gì cũng là đứa có ăn có học, Đen nhận thấy sự thay đổi của làng quê nên cố không để mình trôi theo những đổi thay không hay đó.
Làng bên có cô bé Lan học lớp 12 sang nhà Đen hỏi mượn tài liệu ôn thi. Qua đôi lần trò chuyện Đen thấy cô bé hay hay nên thi thoảng ghé nhà chơi. Dần dà thành thân thiết, cô bé có vẻ cũng thích nói chuyện với Đen. Một bữa tối, Đen rủ Lan đi dạo, lấy cớ tránh bớt xe máy lạng lách ngoài đường, hai đứa đi dạo trong xóm. Đêm hôm ấy, Cao Nguyên trăng sáng, ánh trăng chạy lao xao trên lô cà phê xanh mướt. Gió nhè nhẹ vừa đủ đưa mái tóc Lan thi thoảng lạc vào vai Đen. Hương tóc đang xuân bất chợt đánh thức nỗi khao khát tự nhiên trong gã trai mới lớn. Việc gì đến rồi cũng đến, dưới bóng đêm của cây cà phê già, thân thể cường tráng của gã trai đè nghiến đôi ngực non tơ của cô gái. Đan trong gió là tiếng ú ớ không phân biệt rõ là phản kháng hay đó là âm thanh bản năng.
***
Kì nghỉ hè thứ hai của đời sinh viên, Nhân định về chơi vài hôm rồi trở lại trường tìm việc làm thêm. Với tâm lý về chơi nên Nhân đi thật chậm để gần hơn với quê mình. Đường làng nay đã rải nhựa, chỗ bê tông hóa, rộng rãi quang đãng hẳn ra. Mắt nhìn thấy lạ, sao chân đi nghe thân quen như ngày xưa đi về. Không gian làng quê trong lành, yên tĩnh khiến đứa con xa quê mới về nhắm mắt tận hưởng không khí đồng làng, mặc cho bước chân trôi đi giữa thênh thang đường quê. Cảnh quê ngày xưa bất chợt trở về. Hai hàng chè tàu, dâm bụt bên đường được cắt gọn gàng, những lối vào nhà có hàng hoa nhỏ và hầu như không nhà nào có cánh cổng để khóa. Người quê chân chất, thật thà tình quê chân thành mộc mạc thể hiện ở cuộc sống không rào, không khóa. Đó cũng là điều mà những đứa con ra đi từ làng quê luôn nhớ về và tự hào. Tình quê nồng hậu thiết tha ở tiếng cười, câu chào hỏi khi vừa đặt chân đến làng quê. Dường như con người đồng quê được nuôi dưỡng bằng ân tình của mọi người nên ai cũng cởi mở chân tình. Mải nghĩ miên man, Nhân giật mình thon thót vì chiếc xe máy chạy sát vào người. Chợt nhận ra làng quê nay khác xưa rồi, sự phát triển mà hình như mặt trái chưa được kiểm soát.
Gia đình Nhân vừa ăn cơm tối xong thì Đen bước vào nói ngay:
- Nghe nói mày về chơi nên tao đợi. Mày ở nhà tuần sau dự đám cưới tao nghe.
- Tao nghe nói rồi, chúc mày hạnh phúc – Nhân cười to nói tiếp – Mày dạy kèm hay quá chớ. Mà này, ông bà già bé Lan có chửi hai đứa mày không?
- Không đâu mày – Đen nói nhỏ - Cả làng này, mày là đứa đầu tiên học đại học, nông dân mà có bằng THPT như tao đầy đồng. Chắc ông bà nghĩ hết lớp 12 cũng ở nhà lấy chồng nên không nói gì.
Nhân nhìn thẳng vào mắt Đen cười cười, nó như hiểu ý nói tiếp:
- Có, có, tao động viên cô bé bầu bí cũng cố thi tốt nghiệp cho xong. Mà mày thấy đó, có đứa con gái nào học hành tới nơi tới chốn đâu. Dạo này còn bỏ học sớm đi Sài Gòn làm thuê nữa kìa – Đen chợt cười lớn nói giọng nửa đùa nửa thật:
- Mấy tháng nữa tới năm 2000 rồi, sự cố Y2K, đất trời tối om, ma quỷ, rắn rết xuất hiện tấn công con người. Cưới nhanh còn kịp.
- Ở đây cũng có tin ấy à? Tao khổ với nó quá rồi.
- Sao vậy? Thời kì hội nhập phát triển mà mày, có một số nhà nối mạng internet rồi, họ đọc và nói vậy.
Nhân đáp như lý giải cho Đen hiểu:
- Đó là sự cố máy tính thôi mà. Tao hay ăn mì tôm mà cái tin đó làm giá mì tôm và nến tăng liên tục. Mày tin gì mấy cái xàm xí đó, mạng cũng có cái quý giá, có thứ rác rưởi, tin tùy cái chứ.
Đen như lờ mờ hiểu, nói:
- Nể mấy ông nội buôn bán, lên giá vèo vèo mà bán đắt như tôm tươi chỉ nhờ tin xàm thôi.
- Dạo này mày làm ăn nghe đâu giỏi lắm hả? – Nhân hỏi như để đổi đề tài.
- Mày đi học, tao về vỡ hoang được mớ đất ruộng. Vụ đầu tao thu lúa bán, mua máy về tự tưới tiêu nên chủ động được, cũng no rồi. Ông già vợ tương lai nói cưới xong, ông cho đất nữa. Nói tóm lại cuộc sống của tao vậy rồi, ước mơ ngày nào thôi gác lại đợi con cái thực hiện.
Hai thằng bạn thân nói nhiều về ước mơ thời học trò, về nhân tình thế thái thời mở cửa hội nhập. Đen thở dài nói:
- Hình như con người đồng quê bây giờ lạnh lùng hơn, vì tiền cả mày ạ. Mới vài năm mà thay đổi kì lạ, có gia đình huynh đệ tương tàn vì mấy thước đất, tình làng nghĩa xóm tan nát vì con gà mất trộm...
- Thay đổi nhanh thiệt – Nhân nói – Lúc tao về có mấy thằng choai choai chạy xe cứ lạng sát người tao.
- Xã mình hầu như ngày nào cũng có tai nạn xe máy, đánh nhau – Đen chợt cười cười – Tao gọi bọn nó là giang hồ xóm, bụi đời vườn và những kiếm sĩ ruộng đồng đấy. Làng quê bây giờ đi ra đường cũng phải cẩn thận.
Trò chuyện một lúc Đen nhắc lại lời mời rồi ra về. Nhân sang nhà hàng xóm thăm hỏi. Nhân thật sự bất ngờ, có cả chút thất vọng vì sự thay đổi quá nhanh của quê nhà. Không chỉ như Đen nói mà mấy quán cà phê ở trung tâm xã còn có em út phục vụ nữa. Chú Hải hàng xóm nói chắc tin này là đúng vì đã từng có vụ đánh nhau vì tranh giành cave rồi. Nghe đâu trước 1975, chú có biệt danh Tony Hải – là tay anh chị khét tiếng ở thành phố Đà Nẵng, con người sành sỏi này nhận định chuyện này có lẽ đúng.
- Đạo đức và văn hóa xã hội không theo kịp sự phát triển của kinh tế thì điều này sẽ xảy ra thôi. Nó như bụi thị thành bay về nông thôn. Tiếc là nó nhiều và nhanh quá. Chính quyền sẽ khống chế được thôi – chú Hải kết luận.
Nhân về và nghĩ nhiều đến cách gọi “bụi thị thành” của tay giang hồ hoàn lương mà thấy chí lý. Khi thực hiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập thì các thành phố phát triển trước. Nhu cầu nhân công có trình độ, công nhân kỹ thuật tăng nhanh làm nhiều người khó tìm được việc làm. Từ đó, người ta xoay qua mua đi bán lại, kinh doanh bất kỳ thứ gì để thu lời. Tệ nạn xã hội nảy sinh từ đó. Người ở huyện học người ở phố, người trong xã học người ở huyện rồi mối lái, dây nhợ với nhau nên bụi thị thành bay về ngày càng nhiều.
Sống ở thành phố Buôn Ma Thuột Nhân có nghe nói về dịch vụ “mát mẻ” và nghĩ chỉ có ở phố thôi, đâu ngờ đã lan về tận ruộng vườn. Ngay trong trường đại học cũng vậy. Nhiều người là dân huyện lên phố, muốn tỏ ra sành điệu thì nhanh chóng có người yêu, giục cha mẹ mua xe máy... Rồi tình yêu ri – đô, cuộc tình bếp dầu... rồi tìm đến bác sĩ sản khoa. Những cô cậu sinh viên này là một trong những nhân tố đưa bụi thị thành về làng. Hội nhập là điều kiện thuận lợi để tiếp cận công nghệ tiên tiến, là cơ hội để làm giàu, nhưng mặt trái của nó cũng rất lớn. Con người hội nhập phải được trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ sống tích cực nếu không sẽ nhận lấy sai lầm.
Sau đám cưới, Đen càng chí thú làm ăn. Nhiều người trong làng không hiểu anh chàng này nghĩ gì mà cứ lo làm ăn, chẳng thấy mua sắm hay làm nhà. Kinh tế thì phất lên nhanh chóng, nhưng chui ra chui vô căn nhà gỗ nho nhỏ, trong nhà có cái tivi là quý nhất. Từ khi mua được chiếc xe công nông, Đen làm nhiều người ngạc nhiên với quyết định mở rộng diện tích lúa của mình. Những lô đất trước đây chỉ để tỉa bắp, tỉa đậu, nay Đen mua lại, lên bờ làm ruộng lúa. Có máy bơm nước, có xe cày, lại thêm nhiều loại thuốc hỗ trợ nên Đen làm được diện tích lớn. Ban đầu nhiều người nghi ngờ việc làm của Đen nhưng nay thấy hiệu quả kinh tế cao, cũng là lúc đất đai không còn nhiều. Hai năm mở rộng sản xuất như vậy, Đen đã có trong tay diện tích ruộng lúa và đất rẫy thuộc hàng nhất, nhì cả xã. Mỗi vụ thu hơn 30 tấn lúa, nhưng vẫn sống trong căn nhà gỗ nhỏ. Ngày nào cũng đi ruộng, đi rẫy, chỉ khác là công việc ngày càng nhẹ hơn.
Nhân thì miệt mài với việc học và làm thêm. Thời gian vui chơi không có, huống chi tán tỉnh yêu đương. Có lẽ Nhân và Đen thân nhau vì đều có quyết tâm và kiên trì thực hiện mục đích sống của mình. Thi tốt nghiệp xong, Nhân xác định xin dạy học tại trường cấp 2 gần nhà. Nghe tin Nhân về, tối đó Đen đến nhà chơi, vừa bước vào đã gọi lớn:
- Ông giáo đâu rồi?
Nhân nhìn thằng bạn đã khác xưa nhiều. Đen bây giờ dáng người đĩnh đạc, phương phi không giống một nông dân. Vừa thấy Nhân hắn nói tiếp:
- Lên nhà tao chơi tí.
Hai thằng bạn từ thời cởi truồng tắm mưa giờ vẫn quen xưng hô, nói chuyện bỗ bã nhưng chân tình. Nhân thấy làng mình hôm nay vườn nhà nào cũng cà phê xanh mướt xen những hàng trụ tiêu in bóng lên bầu trời có ánh trăng bàng bạc. Có một thắc mắc trong lòng Nhân là làng quê yên tĩnh, không có tiếng hát karaoke như trước nữa.
Đến nhà, Đen mang cái bàn nhựa nhỏ và ba cái ghế ra góc sân. Cái sân xi măng mà ngày xưa hai thằng mơ ước. Nhân cười thầm nghĩ lại cái ước mơ ngày xưa nhỏ nhoi đến tội nghiệp. Phơi lúa sân đất mỗi lần hốt vào khó khăn nên ước có cái sân xi măng, giờ thì nhà nào cũng có rồi.
Vợ Đen nhanh nhẹn mang ra con gà luộc vài chai rượu. Đen nói:
- Mày ngồi làm ly nói chuyện, gà nhà tao nuôi đó.
- Tao có nhậu được đâu – Nhân cười – Làm ly say về ông bà già tao cạo đầu.
- Đã nửa năm đầu của thế kỉ 21 rồi – Đen nói giọng lý sự - Mày cũng đã hai lăm rồichứ nhỏ nữa đâu.
Nhân kể chuyện học và làm thêm chiếm hết thời gian vui chơinên vẫn chưa biết đến quán xá, rượu chè. Cả dự định xin về dạy ở trường cấp hai tại địa phương vì nghe đâu bây giờ xin việc phải tốn nhiều tiền. Đen vẫn kiểu nói huỵch toẹt:
- Mày học nhiều hơn tao nhưng va đập với đời không bằng tao đâu. Đừng nghĩ lấy năng lực đọ tiền của người khác.
Rồi thằng Đen kể nhiều về tiền và lòng tham của con người trong thời buổi kinh tế này. Nào là anh em kiện nhau ra tòa vì chia mấy thước đất cha mẹ để lại, hàng xóm cãi nhau vì bờ ranh cong qua bên nọ, bên kia đến việc làm sổ đỏ phải mất tiền, xin làm chân văn thư xã cũng phải có tiền... Cuối cùng nó kết luận chắc nịch:
- Xin dạy cấp hai là sáng suốt vì ít tốn tiền, mà nếu mày đi dạy không mất tiền xin việc thì hên nhất quả đất.
Nhắc đến tiền Nhân thấy không thỏa mái nên chuyển đề tài:
- Về đến xã là tao nghe đồn thằng Đen là người có đất ruộng nhiều nhất nhì trong xã, địa chủ rồi hả?
Đen cười hất hàm về phía vợ, nói:
- Địa chủ đó kìa, tao là tá điền thôi.
- Nhà em có hơn ba hécta ruộng và nửa hécta đất vườn. Một vụ thu hơn ba chục tấn lúa, cà phê và tiêu mới thu bói thôi. – vợ Đen góp chuyện.
- Tao làm chủ yếu ruộng cao nên làm được hai vụ. – Đen tiếp – Thời nghèo túng ai cũng tranh ruộng thấp dễ lấy nước nhưng dễ bị lụt mất mùa.
- Hồi mới cưới xong ảnh đi làm người ta nói ảnh khùng á anh – vợ Đen cười vui kể - cặm cụi lên bờ, san bằng đất tỉa hoa màu làm ruộng. Người ta nói ảnh làm sân bay.
Nhân cũng bật cười, hỏi:
- Mày làm giỏi thiệt, không đuối à?
- Khỏe mà – Đen nhìn vợ nói – vợ tao ít khi ra đồng. Tao có xe cày đất, mùa gặt thì có xe gặt về đầy đồng, bán lúa tươi luôn.
- À, mà tao hỏi thiệt, sao chưa làm cái nhà?
- Mệt ổng lắm anh ơi – vợ Đen giọng khen mà như đang chê – Tiền mừng đám cưới đem mua đất. Thu được nhiêu đem mua đất, làm như người thèm đất vậy.
Đen nhìn Nhân nói vẻ lý sự:
- Nhà không sinh ra đất nhưng đất chắc chắn đẻ ra nhà, mày nghĩ đúng không? Ngày tao về với ruộng đồng lúa chỉ tám trăm đến một ngàn hai trăm đồng một ký, bây giờ đã là hơn năm ngàn đồng ký lúa. Không mua đất để lúc này mua sao nổi chứ? Muốn làm nhà đợi hai năm nữa làm được.
Cái lý luận của gã nông dân trí thức như Đen nghe có lý, mà cũng nhờ nó lớn lên đúng vào thời kỳ hội nhập, giá nông sản tăng liên tục. Đen lại có chí, nhanh nhạy nên làm ăn khá lên. Nó gác lại ước mơ để về với ruộng đồng mà được vậy kể cũng là sự an ủi xứng đáng.
- Mà sao không nghe hát hò, phim ảnh như mấy năm trước vậy mày? – Nhân hỏi.
- À, bây giờ nhà nhà nối mạng, người người dùng wifi, ai thèm tới quán hát với coi phim– Đen nói như khoe – Điện thoại thông minh mang âm nhạc, phim ảnh ra tới ruộng cho bạn.
- Hiện đại quá, tiếp cận công nghệ là tốt chứ sao đâu. – Nhân gật gù.
- Cũng tùy người mày ạ. Tao nắm thông tin thị trường, liên hệ bán lúa, mua phân bón trên phố được, không qua tay đại lý nên giá cũng mềm. Thông tin khác từ cuộc sống cũng nhanh hơn. Cũng có nhiều người ôm điện thoại lướt bậy bạ, sống ảo rồi như bị hoang tưởng, có làm ăn gì đâu. – Đen quay nhìn Nhân đổi giọng nghiêm nghị - Ở trường cấp hai mày định xin về đó, có tay thầy giáo nợ tín dụng đen không trả nổi bỏ của chạy lấy người rồi. Dư luận thì đồn đoán nhiều mà tao nghĩ do cờ bạc trên mạng mà ra. Cá độ bóng đá online, nóng máu bấm vài con số là xong, rồi cay cú, rồi vay tiền và chết.
Vợ Đen tặc lưỡi:
- Mạng internet tai hại quá anh hè.
- Thuốc nổ được phát minh đâu phải vì mục đích như hôm nay. – Đen nhìn vợ nói – Do người ta cố tình dùng với mục đích không tốt, internet cũng vậy. Nói chung là do ý thức và bản lĩnh cá nhân khi tiếp cận thành tựu mới.
Đen quay qua bảo vợ lấy cho nó cái điện thoại, bấm bấm gì đó rồi đặt máy lên bàn. Nhìn vẻ mặt có vẻ tò mò của Nhân, Đen nói:
- Tao tưới nấm, làm cái trại nho nhỏ treo ít bịch nấm để ông bà với vợ tao làm cho vui, kiếm tiền chợ. Tao lắp hệ thống tưới điều khiển bằng điện thoại trong cả vườn. Từ trại nấm đến cà phê, chỉ cần có điện là tao có thể tưới cà phê trong vườn khi đang làm ruộng ngoài đồng.Làng quê bây giờ khác rồi, vấn đề là mặt trái của hội nhập vẫn còn là bóng đen gây ra điều đáng tiếc. Mày về với cuộc mưu sinh rồi sẽ thấy.
Nhân ra về mà không biết mình vui hay buồn với sự phát triển này. Có lẽ nỗi buồn lớn nhất là một số người lợi dụng hội nhập, sử dụng thành tựu khoa học mới để kiếm tiền bất chấp đạo đức. Xã hội muốn phát triển lành mạnh phải đưa đạo đức xã hội đi trước khoa học công nghệ. Đen nói không sai, cơ hội nhiều nhưng khó khăn cũng không ít, chủ yếu ở đạo đức mỗi người.
Khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển tạo điều kiện làm việc tốt nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho con người. Nó buộc mỗi cá nhân phải liên tục vận động để không bị tụt hậu. Nghề dạy học cũng vậy, xưa thầy cô nói gì học sinh biết nấy, không có sách tham khảo. Nay thì khác, thầy cô không chịu học tập có khi thông tin chậm hơn trò. Mạng xã hội, học trực tuyến, audiobook ... vừa giúp ích trong công việc vừa buộc giáo viên học tập không ngừng. Bao nhiêu chủ trương, chính sách mới người dân đều biết, làm sai ít thì đánh mất hình ảnh của thầy cô, làm sai nhiều thì mất việc. Nhiều phụ huynh thắc mắc, đã cấm dạy thêm học thêm mà sao vẫn cứ tràn lan vậy? Lời giải thích đưa ra là huyện cấp giấy phép mở trung tâm rồi. Tiếng là trung tâm nhưng nhà ai nấy dạy, rồi tìm cách đưa học sinh vào thế phải học thêm. Thôi thì để con kiếm thêm chút kiến thức và để “an toàn” cho con ở trường nên cố cho con học thêm. Vì vậy mà ngay khi bước chân ra khỏi cổng trường là hình ảnh thầy cô sụp đổ trong tâm hồn học sinh và phụ huynh.Nhân chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, không dạy thêm mà chăm lo mấy sào ruộng, cải tạo khu vườn của cha mẹ. Cuộc sống không có dư nhưng được cái thanh thản. Cha mẹ Nhân cũng lấy vậy làm vui.
Nhân dạy học sắp hết năm thứ hai thì Đen làm nhà. Đen lên gặp Nhân nói dự định làm nhà. Nó nói thật thà rằng mỗi năm hai vụ thu gần bảy mươi tấn lúa, giá sáu ngàn đồng một ký, chưa kể thu từ tiêu và cà phê trong vườn. Chuyện làm nhà không lo lắm nhưng nó chỉ làm vừa đủ không gian sinh hoạt thôi chứ không làm nhà rộng. Thằng Đen còn nhắc lại lời ông nào mà nó đọc được trên mạng, đại ý là: có những người dành nửa cuộc đời để kiếm tiền, lấy tiền đó làm nhà cao cửa rộng và dành nửa cuộc đời còn lại để lau dọn nhà. Nó tuyên bố không dại như thế. Nông thôn bây giờ làm nhà vài trăm triệu, có người làm cả tỷ đồng, thằng Đen thu mỗi năm mấy trăm triệu đồng nhưng không định làm nhà to không phải vì tiếc tiền mà vì nghĩ không cần thiết. Học hết cấp ba, làm thanh niên chưa lâu nó đã bay thẳng vào nông dân. Cái tuổi học tập, vui chơi của Đen ngắn đến mức gần như không có, bù lại, nó ham học hỏi nên mạng internet đã giúp nó học được nhiều điều. Từ quyết định tích lũy, tăng vốn đất trước khi làm nhà đến ứng dụng thành tựu khoa học trong nghề nông đủ biết Đen là nông dân hiện đại rồi. Bây giờ làm nhà nó cũng không cần làm to mà cần đủ tiện nghi sinh hoạt, quan điểm này không giống với các cụ ở quê ngày xưa, cứ phải nhà cao cửa rộng mới sang. Mà nông thôn ngày nay cũng nên thay dần tập tục xưa cũ chứ làm nhà to cao để mang nợ thì chết đến đời con đời cháu chứ giỡn đâu.
Một buổi chiều Đen vừa chạy xe vào sân nhà Nhân vừa nói to:
- Thầy giáo đâu rồi? Nóng hổi đây! Nóng hổi đây!
Nhân vừa bước ra thằng Đen đã xộc vào nhà, chào ba mẹ Nhân rồi xuống bếp lấy chén đĩa bày gói vịt quay, chén nước mắm ra bàn. Nhân cười cười:
- Món này nóng mới ngon đây.
- Tao không nói cái này – Đen vẻ mặt quan trọng – Tao đi phố chọn gạch nền theo ý vợ, về ngang thị trấn Buôn Trấp thấy người ta xôn xao chỗ quán kataoke gì đó. Rắn mắt tao chen vào xem. Mày biết không? Đâm người chết ngay tại quán luôn.
- Thiệt không mày? – Nhân nghi ngờ – Mà biết ai không?
- Thằng đâm ở xã bên, đứa chết ở xã gì ngoài thị trấn một đoạn. Cả hai là cán bộ huyện.Tao ngồi hóng hớt nghe được một người làm gì bên quỹ đât, một làm bên quỹ nhà ở gì gì đó. – Đen kể thông tin nghe được bằng giọng ngùi ngùi – Nghe đâu tay bị đâm con nhà có thế, tay đâm thì được bên vợ cũng có thế. Mày thấy không? Đạo đức đang kêu cứu. Ai chắc hai tay này thanh liêm? Mà sao lên được tới đó không biết?
Thằng Đen nói nhiều về đạo đức xã hội xuống cấp, cán bộ tham nhũng, chém nhau, cả thầy cô giáo với học sinh, phụ huynh cũng đánh nhau. Cha mẹ như vậy ai dạy nổi con cái họ chứ. Thầy cô cũng sai, làm mất hình ảnh đẹp của người thầy. Nó nói một thôi một hồi như để trút bầu tâm sự rồi đứng dậy ra về, để lại đĩa mồi dang dở và chai rượu mới uống phâm nửa. Cái lý luận của Đen mang màu sắc gia trưởng ở làng quê nhưng cũng không phải là sai. Cha mẹ giáo dục đạo đức con cái, đạo đức xã hội phải do xã hội giáo dục. Thế hệ cha mẹ tốt sẽ có những gia đình tốt, lúc đó xã hội sẽ tốt đẹp hơn. Khi máy vi tính, điện thoại thông minh và internet, wifi phủ đầy thì nhà trường hông thể dạy được học sinh nếu thiếu sự hợp tác của gia đình.
Làm nhà xong, Đen lại làm cái việc khác người là không tổ chức ăn tân gia rình rang. Nó bảo tốn tiền thiên hạ, nhà làm được là công sức của mình có gì mà khoe. Nấu mâm cơm mời hai bên nội ngoại, vài người trong xóm đến vui cùng là được rồi. Bữa cơm gia đình đang vui vẻ, thằng Đen chợt nhớ:
- Chưa tưới nấm – vừa nói nó vừa bấm điện thoại điều khiển máy tưới.
Ông Hải nói:
- Đến từng tuổi này tao mới thấy cá sự hiện đại của nghề nông, bây sướng hơn thế hệ trước nhiều.
Mọi người chuyển qua bàn luận về nghề nông hiện nay, nào là thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc đến kỹ thuật canh tác được cập nhật siêu tốc.
- Nông dân bây giờ mà lạc hậu là không thể chấp nhận dược – Đen cười hà hà, kết luận.
Hiền, anh trai Đen chợt rút điện thoại ra lướt lướt ngón tay, quay qua thằng con trai hỏi:
- Trưa nay con đi đâu?
- Dạ, con qua nhà đứa bạn. – đứa con trai Hiền đáp.
- Sao đi không đội mũ bảo hiểm?
- Ủa, sao ba biết? – đứa con ngạc nhiên – Con chạy qua tí là về mà.
- Ngồi lên xe máy là phải có mũ – Hiền nói – Công an xã post hình con lên trang ANTT của xã nè.
Ông Hải vỗ đùi nói:
- Hay, hay quá! Mấy ông choai choai này phải xử lý ngay. Nông thôn hiện đại vậy chứ.
Đen có vẻ đồng tình:
- Đạo đức phải do gia đình giáo dục trước rồi mới đến nhà trường và xã hội. Cha mẹ gần gũi với con nhất mà đợi ai dạy chứ?
Nhân chỉ ngồi nghe mà không nói gì. Làng quê thay đổi nhanh thật, sự thua kém so với thành phố ngày càng thu ngắn lại. Mới có vài năm mà mà bức tranh làng quê đã khác nhiều. Nỗi lo bụi thị thành, như cách nói của ông Hải, bây giờ có lẽ cũng sắp hết rồi. Khi mà nông dân có suy nghĩ như ông Hải, thằng Đen và các anh nó, khi mà xã hội sử dụng thành tựu khoa học đưa cả cái đúng và cái chưa đúng đến với mọi người. Để biết, để học và để sửa sai thì bụi thị thành không đáng lo, bức tranh làng quê sẽ tươi màu hơn trong nay mai.
Truyện dự thi: Anh em kết nghĩa
Đoàn Hữu Nam
Nhà Phù bắt được kẻ trộm gà. Nghe tiếng gà kêu quác, con mực đã phóng ra thộp vào ngực tên kẻ trộm. Phù thổi tù và báo động, chỉ một loáng mấy chục cái đèn pin đã loang loáng châu vào phía nhà Phù. Phù tóm cổ tên trộm rồi soi khắp người hắn.
Thì ra là thằng On. Bố On là thầy cúng, hai bàn tay ông bố On có bảy ngón, trong lễ cúng chẳng ai biết ông ám quẻ được lũ ma mãnh hay lũ ma mãnh ám quẻ ông. Song mọi người lại nghĩ bảy ngón tay đan vào nhau kết thành chữ để làm phép trấn áp ma quỷ, nhưng hai bàn tay có bảy ngón thành ra ma quỷ theo kẽ nẻ chui cả ra ngoài, nhìn thầy đang dẹo dọ rồi cười khành khạch.
Bố thằng On bị đi tù vì dám cả gan bắt con bệnh không được đi viện cho thầy thuốc chữa, mà phải ở nhà để thầy cúng bắt ma, ma quỷ không lôi ra được thì người ấy phải về với đất. Ngày bố còn ở nhà, vợ chồng On dựa cả vào bố, bố vào tù, hai vợ chồng, vợ thì vạ vật làm thuê làm mướn qua ngày, chồng thì lang thang trộm cắp. On trộm cắp điệu nghệ đến mức bao nhiêu lần làng bản tưởng như bắt tận tay day tận trán, vậy mà nó vẫn vuột đi như con lươn trong bùn. Đi đêm lắm có ngày gặp ma, lần này không có con mực chắc gì Phù bắt được nó.
Trước đám đông đang phừng phừng nổi giận, thằng On ngồi rũ như tàu cải héo. Phù hất hàm hỏi:
- Mày bị bắt quả tang rồi còn gì để nói?
On van xin rối rít:
- Dạ, em đói quá, em trót dại…
- Hừ đói, đói thì cả bản cả nước đói chứ riêng gì nhà mày.
- Dạ nhà em... vợ em vừa đẻ, không có sữa…
- Vậy cứ thiếu đói là đi ăn cắp hay sao? Mày nói trót dại, vậy thì con trâu nhà Lử, con ngựa nhà Sáng, đàn gà nhà Mây có phải tay mày trộm không?
On vội xua xua tay:
- Không, không…, em không biết. Đói rét em cắn răng chịu đựng, nhưng lần này vợ em đẻ, nhà không còn gì cho vợ ăn, nên em đành đến mượn anh mấy con gà…
On òa khóc, tiếng khóc của người đàn ông ồ ồ chẳng khác gì con bò rống khi bị chọc tiết.
Cái nóng trong nhà, trong người của đám đông nguội dần. Một người ném cả bó nứa làm đóm vào bếp, ngọn lửa bùng lên như tỏ rõ sức mạnh của lửa.
On nước mắt nước mũi ròng ròng quỳ xuống vái lạy lia lịa:
- Con biết tội của con rồi, con xin các ông bà chú bác anh chị, từ nay con không thế nữa.
Nét mặt mọi người dãn ra, xa xót, những đám mây tối sầm trong mắt bay dần, sự hối cải qua mồm tên ăn trộm đã xoa dịu, làm họ thỏa mãn. Một người đứng tuổi bảo:
- Thôi tha cho nó, nó hiểu, nó chừa là được rồi.
Người khác:
- Thôi, chuyện to cho nhỏ, chuyện nhỏ bỏ qua, chuyện con gà con chó chứ con voi con hổ gì, ngon hay không ngon cũng suối bản mình cả mà.
Lúc này ông Hùng trưởng bản mới lên tiếng:
- Anh Phù tha cho nó đi. Mở cho nó con đường sống đi.
Phù miễn cưỡng nghe lời. Ông Hùng bảo:
- Thôi ai về nhà nấy, không khéo xử kẻ bắt gà ở đây ở nhà lại mất lợn mất trâu đấy.
Mọi người lục tục dúi ngọn đuốc vào bếp, bếp lửa bùng lên rồi tõe ra, dẫn từng người ra khỏi nhà Phù, riêng thằng On vẫn quỳ mọp, Phù tức giận đá một phát làm nó lăn kềnh ra:
- Không về còn ở đây ăn vạ hả?
Thằng On nấc lên:
- Em đội ơn anh tha mạng, nhưng vợ em đói quá, anh làm ơn cho em cái gì ăn được mang về cho nó không nó chết mất.
Phù bực mình quát lên:
- Lại còn thế nữa!...
Phù hậm hực bảo vợ lấy mấy ống gạo cho vào túi, còn mình cắt tảng thịt cán bá đưa cho On, bảo:
- Thôi đứng dậy, lần sau bắt được ăn trộm tao cắt cổ.
On tế vợ chồng Phù như tế sao rồi thắp đuốc ra về. Sau lần ấy, Phù những tưởng nó không bao giờ đi ăn trộm nữa, ai ngờ vẫn chứng nào tật ấy, mọi người nhìn thấy nó ở đâu là y như rằng ở đó, không mất thứ này cũng mất thứ khác. Điều đáng buồn là nó giỏi đội lốt cáo cũng có, do đêm tối, rừng rậm chặn đường ngăn mắt người cũng có, nhưng có lẽ cái chính là do sự thờ ơ mặc cho ngọn lửa nhảy múa trên mái gianh mái cọ hàng xóm của nhiều người.
Và rồi Phù và nó kết nghĩa anh em. Một buổi sáng trên đường xuống chợ, hôm đó trời rét như cắt da cắt thịt, mây mù không còn là bụi nữa mà đã nặng thành hạt phủ dày đặc khắp đồi, khắp núi. Mưa rét làm cho mặt đất nhớp nháp, bẩn thỉu, quần áo, tóc tai ướt đẫm. Phù đang đánh vật với đường sá lầy lội, người ngợm run lên vì lạnh thì từ đằng sau, thằng On vượt lên chào. Cám cảnh thằng On chỉ đóng độc một bộ quần áo vải lanh cũ kỹ rách hở cả da thịt, Phù buột miệng hỏi: “Mặc thế này mà không thấy rét à?”, thằng On cười vô tư: “Ồ, mặc nhiều rét nhiều, mặc ít rét ít thôi mà!”. Phù bật cười vì lối ví von thông minh, ngộ nghĩnh nhưng thấy lòng như không lửa, chấp nhận hoàn cảnh đến thế này là cùng. Phù lấy cái áo mưa trong lù cởi đưa thằng On, bảo lấy mà mặc. Thằng On đỡ lấy vẻ cảm động, bảo chỉ có anh mới thương em. Phù bảo đừng có dẻo miệng nữa, có chuyện gì thì kể cho đường xuống chợ ngắn lại đi. Thằng On như được gãi đúng chỗ ngứa, nó thao thao kể. Nào là hôm được anh Phù cho gạo cho thịt về, vợ nó đã ôm lấy túi gạo khóc nức lên. Nào là hôm ấy, nó xào thịt anh Phù cho để một mình vợ ăn, còn nó ngồi uống rượu khan, vợ bảo thế nào nó cũng không đụng lấy một miếng. Nào là thằng con nó có cơm có thịt anh Phù cho lớn phổng, bé tí mà mồm đã mấp máy, mắt hấp háy đòi sang nhà bác Phù… Phù biết thằng On bịa chuyện, song vẫn thấy ngọt tai, giống như hút thuốc lào pha tinh nứa, chẳng bổ béo gì nhưng cũng làm cho cái mồm đã thèm, cho đêm mưa ngắn lại.
Hai người đến chợ sớm, Phù bảo On cùng vào hàng làm chén rượu cho ấm bụng. Thằng On tưởng Phù tin chuyện mình kể nên càng múa tay múa mồm nịnh nọt. Khi được rót cho bát rượu thứ ba, nó quỳ xuống xin Phù được làm anh em. Phù ngần ngừ, anh biết dẻo miệng thường nuôi nấng gian tà, phản phúc, nhưng hai bát rượu làm cho người châng lâng, rạo rực khiến Phù gật đầu dễ dãi. Nhanh như cắt, On chộp ngay cái đầu gà trên đĩa đặt lên bàn rồi rút dao bập mạnh xuống, cái đầu gà bị chẻ làm đôi. Phù chưa kịp hiểu ra chuyện gì, nó đã nâng bát rượu lên ngang mặt, rưng rưng: “Anh đã không chê em nghèo hèn, tội lỗi, mà nhận em làm em, trước trời đất và bà chủ đây chứng giám, em mời anh cùng em cạn bát rượu đánh dấu tình cảm anh em”. Phù hối hận vì sự nông nổi của mình, song anh không còn đường lui, đành phải đỡ bát rượu dốc vào cuống họng một nửa, một nửa đưa trả lại nó.
Tối ấy, Phù kể lại chuyện kết nghĩa anh em với On cho vợ nghe, May bảo: “Đã là đít nồi thì đặt chỗ nào cũng nhọ, dây vào nó là mất mặt đấy”. Phù thở dài: “Nhưng trót nhận rồi, lời nói ra là dao chém đá, không lấy lại được đâu”. May bảo: “Vậy thì phải bắt nó đổi tâm đổi tính đi, nó sửa được thì phúc cho nó, tránh được họa cho mình, cho dân bản. Nó không sửa được thì cũng không ai trách được mình”. Phù nghe vợ rành rẽ lòng thấy xuôi xuôi.
Ngày hôm sau, Phù và May đến nhà On, chiếc lù cở trên lưng May tíu tít uống vầu rượu, con gà và mấy ống gạo. On ra tận đầu dốc đón hai người, khi hai nhà yên vị quanh cái bếp nguội ngắt, Phù bảo:
- Đã nhận anh em thì phải xứng đáng là anh em, cô chú phải thay đổi đi, không thể kéo trước hở sau mãi thế này được.
Vợ chồng On nhìn nhau, On bảo:
- Dạ chúng em cũng biết vậy, nhưng hoàn cảnh nhà em…
Vợ On mếu máo:
- Anh ơi, nhà em suốt đời kéo rào ngược dòng để đến nỗi không còn chỗ quay đầu rồi.
Phù với cái điếu ục chậm rãi tra thuốc, châm lửa. Hút xong ba điếu thuốc, Phù thủng thẳng:
- Trước đây nhà có mảnh ruộng nào không?
Vợ On:
- Dạ có hai mảnh ở chân dốc Trát, nhưng đã bán cho nhà ông Páo rồi.
- Có phải hai mảnh giáp bờ suối hai năm nay không cấy, cỏ ngập đầu rồi không?
- Dạ vâng, nhà ấy cấy được mấy vụ, giờ các con lên phố huyện ở, hai ông bà già làm không hết.
Phù thở phào:
- Vậy là có cách rồi, trước mắt phải chuộc hoặc thuê lại chỗ ruộng ấy mà cấy trồng.
Vợ chồng On nhìn nhau, nhìn vợ chồng Phù.
Phù bảo:
- Phải cho cái bụng nó no thì mới nghĩ được việc khác.
Vợ On ngập ngừng:
- Nhưng… nhưng…
Phù cương quyết:
- Không nhưng gì cả, tôi sẽ lo chuộc hoặc thuê lại ruộng, cũng ăn chung mỏ nước cả mà, cái quan trọng là cô chú có chịu làm hay không thôi.
Vợ On nhìn On, ánh mắt như xuyên thấu tim gan.
On làu bàu:
- Nhìn gì mà nhìn, người ta làm được mình làm được, có đui què sứt mẻ gì.
Phù vỗ đùi cười ha hả:
- Được nghe câu này của chú là anh mừng rồi. Thôi, nổi lửa đun nước làm gà đi, hôm nay không say không là anh em.
Cái bếp nhanh chóng được khởi động, cái xoong mốc meo treo trên vách được hạ xuống, loáng cái ngọn lửa đã liếm đít xoong loang loáng, tiếng reo của lửa, của xoong nước hòa vào tiếng reo của lòng người.
*
* *
Ngày tháng thuận trôi, vợ chồng thằng On dẫu chưa có lúa đổ bồ ngô treo xà, song không còn cảnh kéo trước hở sau, tình cảm giữa vợ chồng On với gia đình Phù đã dần đến mức nóng cùng nóng cùng lạnh. Nhưng Phù có ngờ đâu chỉ một chút nghi ngờ, sơ sẩy của anh mà thằng On mất mạng, còn anh ôm hận suốt đời.
Hôm ấy, Phù đang ngồi trên hè vót nan làm lù cở, May đang hì hụi xúc phân trâu tươi vào sảo bê ra sân đầu hồi phơi. Góc sân đã phủ dầy lớp phân oai oải, phân cũ phân mới gặp nắng bốc mùi nồng nặc mời gọi ruồi mẹ ruồi con về làm cỗ.
Xong việc phơi phân, May ra chỗ gốc cây lê, nơi có những ngọn su su mập mạp cố ra vẻ nhoài ra khỏi bao bọc của biển sương mây lấy mấy gộc củi mang lên sân bổ. Thấy mấy khúc gộc củi rừng đặc quánh, sức đàn bà bập xuống như bập vào bao bông, Phù ra giằng cái búa trong tay May, máu che chở phồng lên, nhát búa của kẻ dư thừa sức lực bổ mạnh xuống, gộc củi toác ra.
- Ruột thịt đến rồi kia kìa!
May vừa nhìn Phù, vừa mát mẻ.
Phù nhìn ra ngõ, anh thấy thằng On chân tênh tênh, mặt phởn phơ, thỏa mãn, chưa đến cửa đã oang oang:
- Chào anh chị, có cái uống rượu đây, hôm nay em đãi.
Phù nhăn mặt, lạnh tanh:
- Lại móc được cái gì của ai hẳn?
On gỡ gùi khỏi vai:
- Em không móc của ai đâu, của nhà đấy, gà leo cây ngọt thịt, lạc đầu mùa ngậy phải biết anh ạ.
May cười:
- Lạc nhà chú làm gì đã đến ngày dỡ.
On cười:
- Dạ đúng ba con trăng cộng với sáu ngày rồi, em tính từng ngày đấy chị ơi!
Phù cười:
- Biết rồi, thế cô ấy được ăn củ nào chưa?
On cười:
- Dạ chưa, gốc ăn ngọn mới được ăn chứ.
On bảo:
- Dạ em thưa thật với anh chị, nhờ anh chị em đã có lạc, có lúa sắp gặt, con trâu nái xã cho mượn nuôi đã có chửa. Hôm nay, em mang con gà nuôi được đến đây là muốn làm cái lễ kết nghĩa anh em cho đúng lý đúng lối.
Phù bật cười:
- Chú đến lạ, người ta làm lễ nối anh nối em chỉ một lần chứ ai lại mấy lần.
- Dạ lần trước không tính vì chưa có tổ tiên chứng giám, lần này, anh chiều em đi.
Phù thấy On nói cũng có lý, hơn nữa nó đã cõng gà cõng lạc đến đây rồi thì cũng nên làm cái lễ cho đàng hoàng, anh bảo:
- Thôi được rồi, làm thì làm.
Ba người kéo nhau vào nhà. Phù lấy cái bát, cái bình tông rượu, con dao cài trên vách.
On bắt gà. Con gà biết phận sự thiêng liêng của mình hay sao mà ngửa cổ gáy ba tiếng dõng dạc.
Phù thắp hương, cắm lên bát hương trên bàn thờ tổ tiên, lầm rầm khấn vái rồi đổ rượu ra bát, cắt tiết gà, khía ngón tay mình, lấy máu rỏ vào bát, đưa cho On. On run run cầm dao khía vào ngón tay mình rồi cho máu chảy tong tong xuống bát. Phù khuấy cho bát rượu pha máu người, máu gà cho đều rồi nâng lên ngang mày dõng dạc:
- Kính thưa trời đất, thần linh, tổ tiên họ Giàng, họ Hoàng, hai chúng con là Giàng Seo Phù và Hoàng Văn On, chúng con kính mong được trời phù, thần giúp, tổ tiên hai họ xuôi dòng cho được làm anh em. Trước chứng giám của giời đất, thần phật, tổ tiên, chúng con xin hứa sẽ sớm tối cùng nhau, đường tối rấp lối, đường sáng soi chung, có khổ cùng chia, có lộc cùng hưởng.
Phù vái tổ tiên ba vái.
On nghiêm trang, thành tâm làm theo.
Phù đưa bát rượu lên miệng uống một ngụm rồi trịnh trọng đưa cho On.
On rưng rưng đỡ lấy, nhưng những giọt máu thiêng chưa kịp chảy vào cuống họng On thì ngoài cửa hai anh dân quân ập vào, On giật mình đánh rơi bát rượu máu. Hai anh dân quân vắn tắt với Phù chuyện chiều qua On đi qua nhà ông Mã A Vu - Trưởng họ Mã, đúng lúc ấy ông Vu đang tẩy trần vật tổ là con ngựa cỡ nắm tay được đúc bằng đồng đen. On đã vào xem ông Vu làm lễ tẩy trần, hỏi han ông về con ngựa vật tổ, rồi đêm qua con ngựa ấy để cái hốc nhà mà chỉ có ông Vu biết đã không cánh mà bay.
Phù giật mình, khắp vùng ai cũng biết vật tổ linh thiêng của dòng họ Mã ở Thu Phố. Con ngựa đã bao bọc người họ Mã, được người họ Mã bao bọc từ khi chạy loạn khỏi Quý Châu. Vật tổ ấy cùng người họ Mã đã phải trải qua sông giáo rừng gươm, lưới giời bẫy núi của bọn Hán tặc. Dằng dặc cả chục năm trời từ chỗ sống đến chỗ chết, từ chỗ chết đến chỗ sống, từ đồng bằng qua rừng sâu núi thẳm, mười người ra đi, bảy tám người nằm lại, vật vã, tổn hao mãi mới đến được đất Thu Phố, được người Thu Phố cưu mang. Hơn hai trăm năm qua, họ Mã từ nương nhờ vật tổ mà trên dưới thuận hòa, no đủ, sinh cành sinh nhánh. Mất vật tổ họ Mã, mất con suối đầu nguồn, họ Mã sẽ loạn từ trong loạn ra, từ ngoài loạn vào.
Từ lúc hai anh dân quân vào, thằng On như cây chết đứng, nghe hai anh dân quân nói nó thành cây chết đen. Nó rập đầu đến tóe máu kêu oan. Hai anh dân quân bảo oan hay không về ủy ban xã sẽ rõ. Nó cầu khẩn Phù. Phù hoang mang, nửa tin thằng On đã bỏ đường tối ra đường sáng, nửa nhớ đến những ngày nó trộm cắp thành tinh, tin ngờ dùng dằng khiến mồm anh muốn cất tiếng kêu oan cho thằng em kết nghĩa song hai mắt anh cứ truội đi như nhìn cây nứa trôi sông.
Phù đã để mặc hai anh dân quân dong On về xã để làm rõ việc mất vật tổ dòng họ Mã. Ba người đi được chừng nửa canh giờ thì Phù giật mình khi nhìn thấy bát rượu tiết On làm vỡ lênh láng dưới nền nhà vẫn còn nguyên màu máu. “Đúng là thằng On bị oan rồi”, Phù phóng vội theo đường sang phía ủy ban xã, đến đoạn vực thuồng luồng, anh thấy dưới đó mọi người đang huyên náo. Phù tìm đường tụt vội xuống vực, đến mép nước, anh thấy mọi người xúm đông xúm đỏ, anh rẽ mọi người lao vào, vừa nhìn thấy thằng em kết nghĩa nằm ngửa trên bãi cát anh đã thấy dòng máu đỏ tươi trào ra khỏi miệng nó. Thấy Phù, hai anh dân quân vội phân bua, rằng khi ba người đang đi trên bờ vực thì bất ngờ On hét lên rồi lao cắm đầu xuống, rằng hai người đã tìm cách xuống cứu nhưng không kịp, rằng không biết tại sao On không no nước mà lại tắt thở…
Những giọt máu oan của thằng On làm Phù sững sờ, mọi người sững sờ, ai nấy còn sững sờ hơn khi đứa cháu của dòng họ Mã phóng ngựa tới hào hển nói đã tìm được vật tổ, ông trưởng họ chiều qua sợ On lấy trộm nên đã vùi trong bồ thóc rồi lú lẫn quên mất, mãi lúc này con cháu mới tìm ra.
Việc đã rõ sáng rõ tối, mọi người ngậm ngùi đưa thằng On về bản làm ma, chỗ thằng On được vớt lên tự dưng mọc lên một cái cây rễ trắng, thân trắng, lá trắng. Cái cây ấy, ban ngày phát ra mùi hôi thối đến mức quanh bãi không con trâu con ngựa nào dám đến gần, nhưng ban đêm lại tỏa ra mùi hương kỳ lạ. Mùi hương lạ đó đã làm cho dưới vụng cá tôm hân hoan bơi lặn. Trên trời, dơi háo hức lượn lờ, đom đóm rủ nhau về đậu quanh khiến cây trắng thành cây đuốc lạnh. Già bản bảo giời đất thần nhân luôn rõ trắng rõ đen, vong hồn của thằng On vừa siêu thoát vừa không siêu thoát, đừng có chặt cây lạ đó mà mang tội.
Truyện dự thi: Gương đồng
Đỗ Xuân Thu
Đêm cuối năm. Gió mùa đông bắc tràn về. Túp lều cá ông Chiến nằm cô độc, lạc lõng giữa cánh đồng mênh mông của làng Cổ Cò. Nó như trêu ngươi thách thức các cơn gió.
Đang phóng túng ào ào tràn qua mọi nơi, về đây gặp túp lều này, bước chân của gió như khựng lại. Cáu kỉnh bực mình, gió lớn, gió bé liền tập trung lại quây lấy túp lều thi nhau giật xoáy. Chúng lồng lộn rít lên. Hun hút. Vù vù. Mấy mảnh bạt che lều bị gió thổi bung mối buộc, quăng bên nọ, quật bên kia, đập vào nhau kêu phành phạch. Gió lách qua những khe hở chui vào trong lều, luồn vào da thịt như những kim châm buốt nhói.
Rét. Sao mà lại rét thế không biết? Mấy hôm nay nhiệt độ dễ chừng xuống đến ba, bốn độ C chứ chẳng bỡn. Rải thêm bó rơm lên những tấm ván làm ổ, ông Chiến cuộn mình trong chăn bông. Đầu ông trùm mũ len. Chân tay ông găng tất bịt kín mít. Cạnh đó, một gốc cây to tướng đang âm ỉ cháy. Thế mà người ông vẫn cứ run lên nhong nhóc. Có lúc, ông phải ngồi nhổm dậy, vừa trùm chăn, vừa hơ tay lên bếp lửa cho đỡ cóng. Người ta bảo khi trời rét chạy ấm hơn đi, đi ấm hơn đứng, đứng ấm hơn ngồi, ngồi ấm hơn nằm. Đêm tối thế này mà chạy với đi ở ngoài kia thì không được rồi. Gió thổi vù vù. Mưa rơi lất phất. Có hâm tỉ độ mới làm thế. Đứng ở trong lều cũng không hay lắm. Chỉ có ngồi trùm chăn sưởi là thượng sách. Mưa phùn, gió bấc, rét căm căm. Chẳng khác mấy cái thời ông còn ở chốt trên biên giới.
Khu đầm này là khu trũng nhất của cánh đồng Cây Sung. Trước đây, hồi còn hợp tác xã nó là vùng chiêm trũng của làng, thuộc chân một cá một lúa. Sản lượng cả cá và lúa đều rất bấp bênh. Cá cũng kém mà lúa cũng chẳng được bao nhiêu. Khi khoán hộ, với phương châm “có gần có xa, có dễ có khó”, khu này được băm nhỏ chia đều. Ai cũng phải gánh lấy một mảnh. Thế là từ chân một lúa một cá bây giờ chỉ còn làm được một vụ lúa thôi. Năng suất cũng thấp lắm. Mùa mưa, ruộng bỏ hoang. Làm sao mà thả cá chung được vào khu này cơ chứ.
Trước tình hình đó, nhân dịp dồn điền đổi thửa, ông Chiến thương lượng với các hộ, đề xuất với xã khoanh bao khu này lại, giữ nước chỉ để nuôi thả cá. Các hộ có ruộng ở đây mừng rơn. Họ đổi ngay. Chẳng ai muốn ôm loại ruộng đầu thừa đuôi thẹo, vừa lầy thụt vừa cỏ năn cỏ lác mọc đầy này làm gì. Tống khứ của nợ này đi càng sớm càng tốt. Đến ruộng “bờ xôi ao mật” kia người ta còn bỏ để chạy chợ nữa là. Cá với chả mú. Làng Cổ Cò này đã có ai giàu được từ cá đâu? Mấy người đào ao, thả được vài vụ rồi, cuối cùng cũng phải lấp lại như cũ để làm vườn đó thôi. Cứ tưởng “thả cá gá bạc”, vậy mà cũng lỗ chỏng vó.
Mặc lời ra tiếng vào, mặc cho vợ con ngăn cản, ông Chiến vẫn quyết nhận thầu với xã. Ông đón ông Thắng, bạn ông, là kỹ sư thủy sản về ở hẳn nhà ông, giúp ông khâu quy hoạch, thiết kế hồ. Ông này trước cùng sư đoàn với ông. Ban hậu cần hẳn hoi nhé. Khi đó, Thắng là nhân viên tổng hợp ở trên ban, còn Chiến là tổ trưởng ở dưới tổ cá. Hàng tuần họ thường gặp nhau qua các buổi giao ban, trao đổi với nhau về công tác tăng gia của sư đoàn, trong đó có kỹ thuật nuôi thả cá. Ra quân, hai người cùng thi vào đại học thủy sản. Thắng đỗ tiếp tục đi học. Chiến trượt nên phải về quê. Xong đại học, Thắng được tỉnh nhận về công tác tại trung tâm khuyến nông, phụ trách mảng thủy sản. Rồi hai người đều lấy vợ, sinh con và yên bề gia thất. Vợ chồng Thắng đều là kỹ sư nông nghiệp. Họ say sưa với các chương trình dự án của tỉnh. Chiến bằng lòng với cuộc sống ở quê. Về với đời thường họ vẫn giữ liên hệ thân thiết với nhau. Họp hội đồng ngũ hàng năm hai người đều gặp nhau. Chiến Thắng ôm nhau cười hể hả, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm năm tháng đời quân ngũ.
Theo chỉ đạo của Thắng, ông Chiến thuê người vật đất đắp bờ, nhổ sạch cỏ năn, cỏ lác. Bao nhiêu bờ con chia cắt ông cho phá bỏ hết. Thửa nào cao ông vượt đất hạ cấp xuống. Thửa nào trũng thì ông cho người bón vôi khử trùng, vệ sinh sạch sẽ. Tất cả nạo vét thống nhất một độ sâu. Gần năm mẫu mặt nước được chia làm hai khu. Khu thả cá thịt và khu ương cá giống, cá con. Xung quanh là bờ bao chắc chắn. Ông Chiến cho trồng chuối, trồng cả mấy cây sung các góc ao nữa. Chuối thì lấy ngắn nuôi dài. Đất mới đắp lên màu mỡ thế này chúng lớn nhanh lắm. Trồng năm trước, năm sau sẽ cho quả ngay. Trẻ trồng na, già trồng chuối. Các cụ đã dạy rồi. Còn sung thì sau này vừa lấy bóng mát cho ao, vừa lấy quả cho cá. Mỗi cây sung một bóng điện bảo vệ. Đêm đến, bật đèn lên tha hồ sáng. Kẻ trộm cũng phải gờm. Mất hơn tháng trời huy động anh em, người nhà thi công, công trình hồ cá của ông Chiến đã hình thành. Xong đâu đó, ông dẫn nguồn nước vào. Vừa lúc mùa mưa cũng tới. Đứng trên đỉnh gò Rùa nhìn xuống, hồ cá trông như một cái gương của cánh đồng Cây Sung.
Những ngày cải tạo ruộng làm hồ là những ngày ông Chiến vất vả nhất. Ngày, ông cùng mọi người lặn lội với công trình. Đêm, ông lại cùng ông Thắng nghiên cứu sách vở và lên mạng. Ông Thắng nhiệt tình chuyển giao kỹ thuật nuôi thả cá cho ông khá tỉ mỉ. Có nhiều đêm họ thức mãi tới tận khuya. Vừa tâm sự chuyện đời, chuyện lính vừa trao đổi với nhau về kỹ thuật nuôi thả cá. Càng nghiên cứu, học hỏi, ông Chiến càng ngộ ra nhiều điều về cá. Mỗi loài cá có một loại thức ăn và tập tính sinh hoạt khác nhau. Cả thời điểm thả và tầng sống của chúng nữa.
- Phải biết kết hợp thả các loại cá để tận dụng môi trường thức ăn - ông Thắng nói như tâm sự - Đồng thời, không để chúng làm ảnh hưởng lẫn nhau theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Ông hiểu câu thành ngữ này của các cụ chứ?
- Hiểu - ông Chiến gật gù đáp.
- Phải chú ý cả khâu phòng bệnh nữa - ông Thắng tiếp tục - Không được chủ quan. Phương châm là phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chăm cá còn hơn cả chăm người đấy. Không chủ động với nó thì dễ thất bại lắm, ông ạ. Ông cứ nghe tôi, theo sách mà làm. Càng khó làm càng lãi lớn.
- Chả thế lại không ư - Ông Chiến nắm tay bạn nói - Ông là thầy giáo của tôi. Nhất định tôi phải theo ông và sách chứ.
Sau một thời gian, được ông Thắng hướng dẫn đầy đủ, tỉ mỉ, ông Chiến đã nắm khá chắc các công đoạn. Ông tiếp thu nhanh lắm. Đúng là có năng khiếu có khác. Thì từ bé ông Chiến đã mê cá rồi. Hồi trên biên giới, cứ ở đâu có suối, có hồ, có ông Chiến là thể nào đơn vị cũng có cá ăn. Sau đó, ông được rút từ chốt về bổ sung cho ban hậu cần, ở tổ chăn nuôi cá, phụ trách cả khu ao của sư đoàn. Ông gặp ông Thắng cũng từ cái duyên ấy. Dạo đó, ông làm theo bản năng, có được học hành gì đâu. Cả ông Thắng cũng thế. Mãi sau, Chiến mới được gửi theo một lớp tập huấn ngắn hạn về nuôi cá do địa phương tổ chức. Thắng vẫn làm tổng hợp trên ban. Đứng về kỹ thuật nuôi thả cá thì Chiến khi đó hơn hẳn Thắng. Thế nên, cá mú ao hồ anh luôn đạt chỉ tiêu sản lượng. Thắng tập hợp số liệu thống kê cũng vui lây cùng Chiến. Tổ tăng gia của Chiến luôn được biểu dương trước sư đoàn. Lần này, có hẳn gần năm mẫu ao hồ riêng, lại được Thắng, bạn chí cốt của ông, kỹ sư thủy sản, chuyên gia về cá, ăn dầm ở rề, cầm tay chỉ việc bảo sao mà ông không vững được chứ? Hai người vẫn như cặp bài trùng. Tên họ ghép lại đúng là Chiến Thắng rồi. Bây giờ, chỉ cần nhìn màu nước, cách cá bơi là ông Chiến biết cá no hay cá đói, bệnh tật của chúng ra sao và cách xử trí từng trường hợp cụ thể thế nào rồi. Đúng là có học có hơn. Ông Thắng rất yên tâm về sự khởi nghiệp của bạn mình. Bốn lăm tuổi đâu phải là muộn?
Ông Thắng có điện phải về cơ quan nhận nhiệm vụ mới. Mấy xã miền xuôi triển khai dự án về thủy sản trong chương trình xây dựng nông thôn mới rất cần có ông. Hôm chia tay, ông Thắng vỗ vai ông Chiến nói:
- Yên trí đi. Tôi vẫn theo dõi giúp đỡ ông. Có gì khó khăn cứ a-lô cho tôi. Có điều kiện thì tôi tạt về hướng dẫn ông cụ thể. Nếu không, thì ta xử lý qua mạng. Bây giờ, các bệnh viện họ còn khám và điều trị qua mạng được nữa là.
Ông Chiến gật đầu, nắm chặt tay ông Thắng:
- Tôi hiểu rồi. Ồng cứ về giúp họ đi. Đừng quên tôi là được. Có gì tôi sẽ gọi. Za-lô, “phây búc”, chụp ảnh, video hỏi ông là được chứ gì?
- Bác phải cố vấn cho vợ chồng em đến cùng đấy nha - bà Trang nói theo chồng - Chúng em lo lắm bác ạ.
- OK - ông Thắng đáp - Chả giúp ông bà thì giúp ai. Cứ thế nhé. Chúc ông bà thành công. Hẹn gặp lại.
Vợ chồng ông Chiến bịn rịn chia tay ông Thắng. Đàn cá đang ăn bơi lao xao mặt nước. Hình như chúng cảm nhận được cuộc chia tay này của họ. Sớm mai, cánh đồng Cây Sung gió mơn man mát rượi.
Chờ cho chiếc xe máy của ông Thắng khuất hẳn sau cuối cánh đồng, vợ chồng ông Chiến mới lên thuyền bơi ra giữa hồ cá. Ông Chiến cầm chèo. Bà Trang rải cỏ cho cá ăn. Khu cá ăn được quây riêng hình chữ nhật bằng những cây sào đấu nối nhau nổi trên mặt nước. Cách này được ông Thắng chỉ cho vợ chồng ông Chiến làm. Khi cho cá ăn, bơi thuyền quanh khu này thả cỏ vào trong để cá tập trung đến ăn. Nếu chúng ăn không hết thì vớt bỏ cuỗng, cẳng, lá thừa đổ lên bờ. Làm vậy nước sẽ không bị ô nhiễm. Đây vừa là kinh nghiệm thực tiễn vừa là lý thuyết sách vở. Thế nên, khu hồ cá của ông Chiến nước lúc nào cũng sạch. Chẳng như những hộ có ao trước đây cứ vứt bừa bãi cỏ xuống, cá ăn không hết, cỏ thừa, lá già ngâm mãi rồi thối rữa ra, hỏng hết cả ao. Môi trường sống bị ô nhiễm nặng, cá nào mà sống nổi.
Vừa bơi chèo, ông Chiến vừa nghĩ. Thật may cho mình có Thắng. Chính nó đã khuyến khích mình bước vào nghề cá. “Ông cứ mạnh dạn đầu tư đi. Tôi sẽ giúp ông về kỹ thuật. Đảm bảo thắng to đấy. Hồi trước ở đơn vị, cả tôi và ông có biết gì về cá mú đâu mà cũng làm được đó thôi. Bây giờ, tôi được học hành, ông có mặt nước, ta hợp tác với nhau dứt khoát là ổn”. Thế mà thành thật. Vụ cá đầu tiên năm ngoái khá ổn. Vụ này là vụ thứ hai dứt khoát hơn hẳn vụ trước. Nhìn cá ăn thì biết. Tết này sẽ tiếp tục thu hồi vốn và có lãi là cái chắc.
Phải nói rằng tay Thắng này thật chí lý. Nó bảo mình phải xác định rõ là ông chủ. Không được tự ti. Như thế mới có chí để mà phấn đấu. Tuy nhiên, ông phải nhớ cho chủ cá khác với chủ doanh nghiệp nha. Chủ doanh nghiệp xí nghiệp thì đối tượng của họ là vật tư, sản phẩm, là vô tri vô giác, là ở trong nhà, trong tầm tay, dễ quản lý. Còn ông, đối tượng của ông là những con cá đang bơi kia kìa. Chúng là những cơ thể sống, ở ngoài trời, chịu sự tác động rất lớn của thiên nhiên. Chỉ sơ sểnh một tí là đổ bể ngay. Chí lý. Rất chí lý. Mấy tay đào ao thả cá trong làng chưa chi đã vênh vang. Ra cái điều ta đây là ông chủ nhưng chẳng hiểu chó gì về nghề. Thế nên thất bại là phải. Còn mình, nhờ bạn, nhờ kinh nghiệm trong quân ngũ và kiến thức trên sách vở, trên mạng, mình đã cơ bản làm chủ được kỹ thuật. Nhất định sẽ thành công cho mà xem. Vừa nhìn đàn cá tranh nhau ăn ông Chiến vừa nghĩ vậy. Bất giác ông mỉm cười. Thì ra mình đã là ông chủ rồi đấy. Oách phết đấy chứ.
Nhưng mà đúng là giời đày. Nhà cao cửa rộng không ở, ông lại một thân một mình ra giữa đồng không mông quạnh này. Trong khi đó, vợ ông cũng thế. Một thân một mình bà ấy ở nhà. Hai đứa con ông đều đi học xa. Đứa đại học dưới Hà Nội. Đứa trường chuyên ở tỉnh. Hai cái cối xay tiền này xay khá nhiều tiền của vợ chồng ông. Cùng với đó, bao nhiêu tiền của ông đổ xuống cái hồ này nữa. Cũng may, ngân hàng cho ông vay đầu tư sản xuất theo dự án. Thời hạn và lãi xuất cũng hợp lý. Mặt khác, ông Thắng lại vẽ ra viễn cảnh hồ cá, khích lệ ông liên tục bắt ông phải động não. Không có ông ấy chưa chắc ông Chiến đã dám làm. Thích thì thích thật đấy nhưng đây là làm kinh tế, sai một li đi một dặm ngay. Hồi còn trong quân ngũ, dầu sao hệ thống ao đó, tiền của đó vẫn là của sư đoàn. Ông chỉ cùng anh em mang cơ bắp, sức lực ra làm thôi. Còn bây giờ là của ông, ông phải chịu trách nhiệm với chính mình. Lời ăn, lỗ chịu. Vì thế, vợ con ông lo lắm. Họ gàn ông đừng có phiêu lưu, mạo hiểm. Thế nhưng, ông vẫn quyết làm. Hồ cá đồng Cây Sung của ông đã ra đời.
Từ khi có hồ cá, cánh đồng này khác hẳn. Nước có chỗ chứa. Mưa không lo úng. Nắng không lo hạn. Khi nào hạn quá thì ông Chiến cho các hộ bơm nước từ hồ cá của mình lên. Làm vậy, sản lượng cá của ông sẽ bị ảnh hưởng đôi chút nhưng bù lại, các hộ có ruộng được tưới nước lại rất vui. Đủ nước, lúa sinh trưởng phát triển đều, năng suất cao. Ai cũng cảm ơn ông Chiến. Thì mình cũng từ người trồng lúa chuyển sang nên hiểu điều này quá đi chứ. Riêng lũ trẻ trâu thì khoái hơn ai hết. Thả trâu trên gò Rùa, chơi trận giả quanh khu miếu cổ, chán trò thì vào lều của ông chơi. Chúng còn lục lọi xem có cái gì ăn không để giải quyết cái đói. Củ khoai, củ sắn, nải chuối, cá kho… Thôi thì có gì cho được vào mồm là chúng tranh nhau đánh chén. Tính ông Chiến dễ dãi, yêu trẻ. Thấy chúng vậy ông càng vui. Ông còn chủ động lấy chia cho chúng nó. Chiều về, lũ trâu no lặc lè. Cả trâu và người ào xuống tắm ở hồ cá. Bơi lội, đùa giãy với nhau thỏa thích. Những đêm trăng, trai gái lấy bờ hồ làm nơi hò hẹn. Sau đó, từng nhóm, từng đôi kéo nhau đi dạo chơi trên cánh đồng hoặc lên khu gò Rùa tình tự.
Đêm về, đứng trên đỉnh gò Rùa nhìn xuống sẽ thấy khu hồ cá của ông Chiến được ánh trăng phản chiếu như một tấm gương lớn. Và thực sự, nó đã trở thành cái gương cho các cô gái làng Cổ Cò từ lâu rồi. Mỗi khi làm đồng về, các cô qua đó rửa chân tay, soi mình xuống mặt nước kiểm tra dung nhan sau một ngày cày cấy. Thế nên, người ta gọi hồ cá của ông Chiến là cái gương của cánh đồng Cây Sung. Đặc biệt, sau vụ cá đầu tiên năm ngoái thắng to, xã đã lấy ông là điển hình làm kinh tế cho mọi người học tập thì hồ cá Cây Sung này được gọi là tấm gương theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Mấy cụ trong tổ thơ của làng còn làm cả thơ về nó nữa. Ông Chiến cũng cảm thấy hãnh diện lắm. Công của ông bỏ ra đã được đền đáp phần nào.
Càng khuya càng rét ngọt. Ông Chiến cứ ngồi trùm chăn co ro. Nghe đài hết “Bạn hãy nói với chúng tôi” rồi “Đọc truyện đêm khuya”, cả chương trình dạy tiếng nước ngoài nữa mà ông vẫn không sao chợp mắt được. Phần vì rét, phần vì lo an toàn cho hồ cá. Cả đống tiền ở dưới nước kia, chỉ ít ngày nữa thôi sẽ thu về một món lớn. Không trông coi cẩn thận trộm nó bắt thì mất trắng. Leo cây tới ngày hái quả rồi, phải cố. Trong lều đài hát. Ngoài đồng, gió mùa đông bắc gào rít. Lắc rắc tiếng mưa rơi. Chẳng nghe thấy tiếng cá ăn đêm tùm tũm như mọi khi. Thì rét thế này cá nào còn đi ăn nữa? Trăng suông đầu tháng cũng mất tăm tự bao giờ. Đồng làng Cổ Cò tối om. Ánh sáng của những bóng điện trên cây sung quanh hồ và mấy bóng cắm ở giữa hồ nữa tỏa ra chẳng thấm gì với màn đêm đặc quánh, đen thui. Nhìn chúng yếu ớt run rẩy trong giá lạnh. Thi thoảng, ông Chiến nhoi đầu ra khỏi lều, dọi đèn pin quét một lượt lên mặt hồ. Mặt nước lấp loáng. Không động tĩnh gì. Ông Chiến lại tiếp tục co ro ngồi huơ tay bên bếp lửa.
Phía bên kia bờ đầm là gò Quy Sơn. Trên đỉnh gò cây si già cỡ vài trăm năm tuổi đen thẫm như cây nấm trong đêm. Dưới tán cây si ấy là ngôi miếu Ba Cô hoang tàn, lạnh lẽo. Thiêng lắm. Chỉ có lũ trẻ trâu là chẳng sợ gì cả. Chúng lấy cây si, chọn ngôi miếu cổ để chơi trò đuổi bắt, náu tìm, đánh trận giả. Chán trò chúng tụ tập ở lều cá xin ông nước uống, nghe ông kể chuyện. Ông kể chuyện hồi đánh nhau trên biên giới. Rồi chuyện về ngôi miếu Ba Cô. Cả những chuyện ma nữa. Ông Chiến có tài bịa chuyện và khiếu kể rất cuốn hút nên lũ trẻ thích lắm. Tuy vậy, ban ngày chúng háo hức táo tợn thế nhưng đêm về thì đứa nào đứa nấy đều sợ són đái. Ngay cả thằng Hiếu là trẻ trâu nghịch ngợm nhất làng, bày đủ trò ở khu miếu cổ cũng phải sợ. Một đêm, nó ra lều cá chơi với ông. Hai ông cháu ngồi bên hồ ngắm trăng suông mờ mờ ảo ảo. Nó mải mê nghe ông kể chuyện. Khuya, ông giục nó về. Nhìn sang khu gò Rùa, nó thấy bên đó cây si già và ngôi miếu cổ lù lù trong đêm với đủ các hình thù ma quái. Thằng Hiếu lắc đầu lè lưỡi:
- Cháu không về đâu. Ông cho cháu ngủ với ông đêm nay nha.
Ông Chiến cười cười nói với nó:
- Sợ rồi hả? Đúng là loại già dái non hột. Mày ngủ đây, mai mẹ mày lại mắng tao.
- Không sao đâu ông ạ. Để cháu điện về nói với mẹ cháu. Ông nói đỡ cháu một câu cho mẹ cháu tin nha.
Cả đêm ấy, nó rúc vào nách ông. Lần sau rủ nó, cấm thấy nó ra nữa.
Trong ánh lửa bập bùng, bóng ông Chiến in lên vách lều trông như con gấu đen. Chợt có tiếng sột soạt bên ngoài. Ông Chiến dỏng tai lên nghe ngóng. Tiếng sột soạt càng lúc càng to. Bật đèn pin dọi ra, qua khe cửa, ông giật mình. Một bóng người lù lù đứng ngay trước cửa lều. Theo phản xạ, ông vớ cây gậy.
- Ai?
Bóng đen không nói không rằng. Ông Chiến rọi đèn pin khắp người nó. Thì ra là thằng Tình rồ. Dựng cây gậy trở lại chỗ cũ, ông đằng hắng. Nó vẫn đứng như trời trồng, co ro trong gió rét. Ông Chiến mở cửa lều. Gió ào vào thổi bùng bếp than hồng. Những cục than gặp gió đỏ rực.
- Vào trong đi! Kẻo chết rét bây giờ.
Ông Chiến giục. Thằng Tình run rẩy cúi đầu bước vào lều. Nó sà ngay vào bếp lửa. Đầu tóc, mặt mũi nó ướt đẫm nước mưa. Ông Chiến lấy cái khăn bảo nó lau mặt. Hai tay nó run run cầm lấy rồi lóng nga lóng ngóng hơ cái khăn lên bếp lửa.
Bảo mày lau mặt, lau tóc cơ mà?
Ông Chiến nói. Thằng Tình nhe răng cười. Ánh mắt nó ngây dại. Ông Chiến đành cầm lại cái khăn lau cho nó. Xong xuôi, nó lí nhí:
- Cảm ơn!
- Ơn huệ gì. Sao không ở chợ cho đỡ gió? Ra giữa đồng này làm gì? Muốn chết rét hả?
Thằng Tình vẫn im lặng. Mắt nó hau háu nhìn vào cái nồi để ở góc lều. Ông Chiến biết ý, hỏi:
- Đói hả?
- Tình gật đầu.
- Cởi cái áo ướt ra tao hơ lửa cho. Mặc tạm cái này vào rồi ăn.
Với tay lấy cái áo bông bộ đội cũ ông Chiến đưa cho Tình. Nó lóng ngóng cởi thay. Rõ khổ. Ba chục tuổi đầu hóa rồ hóa dại chỉ vì thất tình. Đàn ông lấy chỗ đếch nào chả được vợ mà cứ đắm đuối với cái cô Mai Khanh ấy làm gì? Nó chả lấy mình thì mình lấy đứa khác. Thiếu gì gái đẹp. Mình là cái nơm. Úp đâu chả được cá. Hóa điên, hóa dại làm gì ra cho nó khổ cơ chứ. Cả làng này gọi mày là Tình rồ đấy. Biết chửa? Vừa thay áo cho Tình, ông Chiến vừa lẩm bẩm nói vậy. Tình ngúc ngoắc cái đầu cười dài dại. Mặc xong cái áo bông cho Tình, ông Chiến lấy cơm cho nó. Nó ngấu nghiến ăn.
Từ ngày phát hiện ra cái lều cá này, Tình thường xuyên đến đây. Thường thì nó qua đêm ở chợ ngủ trên những tấm phản mà ban ngày người ta dùng để bán thịt. Về lều cá này, Tình vừa được ấm, vừa được ăn, lại vừa được nói chuyện. Hình như chỉ có ông Chiến mới là chỗ để nó dốc bầu tâm sự. Còn những kẻ khác nó nói có ai nghe đâu. Thế nên, bao giờ cũng thế, cứ ăn xong là Tình bắt đầu huyên thuyên. Nó lẩm bẩm một mình. Chẳng biết cũng chẳng cần ông Chiến có nghe không nó vẫn cứ nói. Những câu chuyện chẳng đâu vào đâu. Thỉnh thoảng, ông Chiến cũng chêm vào đôi câu theo kiểu “ông nói gà bà nói vịt”. Được thể, thằng Tình lại càng nói. Chắc nó nghĩ ông Chiến là người “hiểu” nó. Nó cảm thấy bình an bên ông. Còn ông Chiến lại nghĩ nói chuyện với thằng dở người như nói với đầu gối vậy. Chẳng qua là nghịch nhĩ ông buột ra đôi câu thôi, chứ biết chuyện trò gì với nó. Thế mà vui đáo để. Từ lúc Tình rồ đến, không khí trong lều ấm hẳn lên. Cùng với tiếng gió thổi vù vù, tiếng mưa lắc rắc rơi là tiếng người thì thầm rủ rỉ trong đêm.
Đêm khuya thanh vắng, có Tình, ông Chiến như thêm một phụ tá, thêm một người bạn coi cá cùng. Lều cá có tiếng người, có ánh lửa, kẻ có ý định trộm cá cũng phải gờm. Chuyện chán, thằng Tình buông mình xuống, cuộn mình như con tôm trên ổ rơm. Loáng cái nó đã ngáy pho pho. Đúng là ông giời. Bắt nó khổ cái này thì lại cho nó sướng ở cái khác. Cứ vô tư như không. Chẳng quan tâm để ý đến sự đời, Tình thoải mái trùm chăn kín đầu kéo gỗ. Gió bên ngoài vẫn thổi vù vù. Mưa có vẻ nặng hơn. Rét lắm. Buốt thon thót. Đã quá nửa đêm rồi còn gì.
Nhìn Tình ngủ, ông Chiến lại nhớ đến hôm giỗ mẹ vợ mình. Hôm đó, ông Thắng cũng về dự. Ông phấn khởi giúp ông Chiến tiếp đãi họ hàng, bạn bè. Cỗ toàn cá là cá. “Sản phẩm của nhà tôi đấy. Mời các cụ, các ông, các bà thưởng thức”, ông Chiến hồ hởi nói với mọi người. Ai cũng khen cá béo, cá ngon. Vui nhất là trong bữa rượu đó, ông trưởng ban quản lý siêu thị Aloha Mall đã nhận bao tiêu toàn bộ hồ cá. “Ông cứ đánh bắt đi. Được mẻ nào tôi lấy tất mẻ đó cho. Giá cả thì vô tư đi. Chợ bao nhiêu, tôi trả ông bấy nhiêu”. Ông ta cầm chén rượu cụng chén với ông Chiến và nói. Ông Thắng đến bên cổ vũ: “Hàng chuẩn gin đấy sếp ạ. Tôi bảo đảm về mặt kỹ thuật, chất lượng. Cá sạch một trăm phần trăm luôn”. “Thì thế tôi mới ký hợp đồng chứ. Nếu không, còn lâu!”, ông trưởng ban siêu thị đáp. Phải nói là ông này lọc lõi tinh đời. Cá ở hồ ông Chiến ngon thì chỉ có nhất. Bằng chứng là bữa cỗ hôm nay đấy. Ba ông cạn chén với nhau rồi cùng cười ha hả. Bà Trang, vợ ông Chiến thấy vậy cũng lâng lâng.
Đang mải nghĩ, ông Chiến lại nghe thấy tiếng động ngoài cửa. Ngóc đầu dậy, ông nhẹ nhàng lắng tai nghe. Tay ông sờ vào cây gậy. Quái! Sao đêm nay mưa rét lại lắm tiếng động lạ vậy? Hết thằng Tình rồ đến giờ lại ai nữa đây? Đang định quát thì bóng đen lách cửa vào. Kẻ nào mà liều lĩnh vậy nhỉ?
- Ai?
Vừa quát, ông vừa bấm đèn pin soi vào mặt kẻ vừa tới. Đồng thời tay kia ông vung cây gậy lên. Bóng đen giơ tay lên đầu có vẻ chống đỡ. Tay còn lại nó khua loạn lên, miệng rối rít:
- Em! Em đây! Anh không nhận ra em à?
- Trang hả?
Nhận ra vợ mình, ông Chiến bỏ cây gậy xuống nói:
- Thế mà anh cứ tưởng kẻ trộm. Suýt nữa thì ăn cây gậy rồi đấy. Mà sao em lại ra vào giờ này?
- Rét quá, không ngủ được - Bà Trang nói - Em ra kiểm tra anh chứ sao? Anh vẫn chưa ngủ à?
- Chưa. Ngủ thế nào được. Còn phải trông cá.
Ông Chiến đáp lời vợ. Chợt nhớ ra điều gì, ông hỏi:
- Nhà cửa khóa chưa? Trộm mà biết thì gay. Nó vào khoắng sạch đấy. Cẩn thận, không giữ được trôn l…lại hở.
- Biết rồi! Ăn với chả nói. Em khóa kỹ rồi. Mà… anh… anh nằm… nằm với ai thế này?
Bà Trang giật mình, tròn mắt nhìn đống chăn lù lù hình người bên cạnh chồng. Lúc này, ông Chiến mới quay lại nhìn đống chăn. Tình rồ vẫn ngủ vô tư. Ba máu sáu cơn, bà Trang lao tới giật phăng tấm chăn lên. Tình rồ choàng mở mắt. Nó ú ớ hết nhìn bà Trang lại nhìn sang ông Chiến.
- Sao… Sao cái thằng rồ này lại ngủ ở đây?
- Rét quá! Ở chợ không chịu được, nó lên đây với anh - Ông Chiến thanh minh - Thi thoảng nó vẫn vậy.
- Giời ạ! Người hôi như tổ cú này mà anh cho nó ngủ chung à?
Bà Trang rền rĩ. Tình rồ lúc này mới ú ớ:
- Ăn… ăn nằm với nhau mà. Yêu lắm í.
- Rõ khổ. Nó đói. Nó rét. Nó mò đến đây. Anh cho nó ăn. Lau rửa qua loa cho nó rồi. Cũng không hôi lắm đâu. Xong thì nó lăn ra, chui vào chăn mà ngủ. Cũng biết rét đấy em ạ. Em bảo nó vậy, anh phải làm sao? Đuổi nó đi chắc? Thế nên, anh phải ngồi đây với nó đấy. Mà coi cá ngủ thế chó nào được. Hôm nào anh chả ngủ bù vào ban ngày.
Ông Chiến phân trần, nói một mạch như thanh minh. Bà Trang nghệt ra nhìn Tình rồ từ đầu đến chân. Nó co ro, hai tay ôm đầu gối, cười ngây dại. Đoạn, nó lại lăn khểnh ra, kéo chăn trùm kín đầu. Ông Chiến lôi vợ ngồi xuống mép ổ rơm. Tay ông chọc chọc vào gốc cây trên bếp lửa. Than gặp gió bùng lên, tàn tro nổ lép bép. Khuôn mặt bà Trang bắt ánh lửa ửng hồng. Thấy vậy, đôi mắt ông Chiến hấp háy.
- Sao? Có việc gì mà em phải lặn lội đêm hôm ra đây? Nhớ… nhớ lắm hả?
Bà Trang ngúng nguẩy:
- Nhớ? Nhớ cái phải gió í. Báu lắm à.
- Chứ lại không? Chắc rét quá… them… thèm chứ gì?
- Có mà thèm! Còn lâu nha - Bà Trang tiếp tục ngúng nguẩy.
Ông Chiến chẳng nói chẳng rằng, liền kéo vợ ngồi xuống bên cạnh. Bà Trang đưa mắt, lấy tay chỉ chỉ về phía Tình rồ. Nó trùm chăn kín đầu và đã ngáy pho pho trở lại.
- Giờ thì có pháo nổ ở đít nó cũng chẳng biết gì - Ông Chiến nói - Em yên tâm đi.
Từ ngày có hồ cá, vợ chồng ông Chiến như ông Ngâu và bà Ngâu vậy. Gần gũi nhau cứ phải lựa. Có đêm ông đảo về nhà gặp bà ân ái xong thì lại ra lều. Ngược lại, nhiều khi thèm ông quá, nửa đêm gà gáy bà lại mò ra lều với ông. Như đêm nay chẳng hạn. Lại có hôm họ ân ái với nhau giữa ban ngày ban mặt. Thì nhà chỉ có hai vợ chồng, có ai nữa đâu mà sợ. Sao phải hoãn cái sự sung sướng lại được cơ chứ? Đang độ hồi xuân, hừng hực thế, ai mà chịu được? Phải nói rằng đêm trăng hồ cá lãng mạn thật. Giữa đồng khuya vắng lặng, trăng sáng ngời ngời, ngồi trên thuyền bồng bềnh giữa hồ thì không còn gì bằng. Gió hạ mơn man. Làng quê yên ả. Cá đi ăn đêm tì tũm. Họ đã quấn lấy nhau, vật lộn ngay trong lòng thuyền. Mùi tanh của cá, mùi nồng của thức ăn cho cá, cả mùi bùn nữa… Tất cả quyện vào nhau rất hoang dại. Chao đảo. Chòng chành. Phấn khích. Ông Chiến chồm tới ngấu nghiến. Bà Trang hào hển, rên rỉ, ứ hự.
Chẳng kịp để bà Trang yên vị, ông Chiến vòng tay ôm vợ vào lòng. Bà Trang luống cuống nhìn ông rồi lại nhìn đống chăn có thằng Tình rồ. Hiểu ý, ông Chiến vội nhìn ra cửa lều. Chiếc thuyền đang neo đậu ở đó. Ông chỉ chỉ về phía đó. Đang lúc bà Trang còn lưỡng lự, ông liền cầm tay bà lôi tuột đi. Họ hấp tấp trèo lên thuyền. Gió thông thốc thổi tới. Chiếc thuyền chòng chành chao đảo. Bà Trang lóng ngóng co rúm lại vì rét. Ông Chiến thấy vậy vội bế bà chạy phăm phăm vào trong mui thuyền. Sau đó thì mặc kệ gió mưa, hai người cuống cuồng cởi hết quần áo rồi quấn lấy nhau không biết trời đất là gì nữa. Xong việc, họ ôm lấy nhau nằm ngay trong khoang thuyền mãn nguyện.
- Này. Điện thoại anh để đâu mà em gọi mãi chẳng được thế?
Bà Trang xoay người nghển cổ trên ngực ông Chiến hỏi.
- Hết pin từ tối. Đã nạp đâu. Có việc gì cần kíp mà em phải gọi anh đêm hôm khuya khoắt vậy? Phải việc lúc nãy không?
- Nỡm ạ! Còn lâu nha.
- Thế việc gì?
- Có. Có việc thì em mới gọi anh. Chả có thì em gọi làm gì. Ông Trọng - trưởng ban quản lý siêu thị điện cho anh không được lại điện cho em. Ông ấy bảo ngày mai cần khoảng hai tạ cá, yêu cầu mình đánh gấp giao cho ông ấy.
- Thế hả? Theo lịch là mấy hôm nữa cơ mà?
- Thì thế - bà Trang đáp - Chắc có vụ gì quan trọng nên ông ấy cần gấp. Thế nên em mới phải ra báo anh chứ. Nếu không, rét thế này còn lâu.
Đến lúc này hai người mới cảm thấy lạnh. Bà Trang rùng mình. Hai hàm răng va vào nhau lập cập. Bà run lên ôm chặt lấy chồng. Ông Chiến tiếp tục đùa với vợ:
- Thì em chả lãi quá rồi còn gì. Vừa được việc lại vừa được… ấy lại còn?
Bà Trang đấm vào lưng chồng thùm thụp.
- Thế anh thì không chắc?
- Tất nhiên là có chứ - Ông Chiến ngóc đầu lên nói với vợ - Thôi, ta vào lều đi kẻo chết cóng bây giờ.
Hai người dìu nhau trở lại túp lều. Trong lều, Tình vẫn trùm chăn ngủ vô tư. Thì có bao giờ nó được ấm êm thế này đâu?
Ngồi đoạn, bà Trang nói với ông Chiến:
- Thôi, em phải về trông nhà. Anh nhớ việc lúc nãy đừng để lỡ với người ta. Làm ăn bây giờ là phải giữ chữ tín.
- Biết rồi. Em yên tâm đi. Sớm mai anh sẽ gọi cánh lưới đến đánh bắt. Trưa mai giao cá cho ông ấy là được chứ gì?
Kéo cái mũ áo mưa trùm kín đầu, bà Trang bật đèn pin bước ra khỏi lều. Ông Chiến nhìn theo vợ đến khi không còn thấy ánh đèn nữa mới lại tiếp tục ngồi co ro bên bếp lửa. Gió vẫn vù vù thổi. Mưa vẫn lắc rắc rơi. Đêm cuối năm đặc quánh. Cánh đồng làng tối om. Ánh điện và mặt nước hồ cá tạo thành một khoảng sáng nhờ nhờ trong đêm. Đúng là gương đồng có khác. Gió to. Sóng nước vỗ vào mạn thuyền nghe ì oạp. Vừa lúc đó có tiếng cá quẫy dưới gốc sung. Chẳng lẽ chúng lại vật đẻ vào giờ này? Nghĩ lại giây phút lúc nãy, ông Chiến mỉm cười một mình.