ĐỘC GIẢ CỦA XUÂN DIỆU LÀ AI?
Nhà thơ Xuân Diệu
Câu hỏi này đặt ra khi chúng ta hình dung có một bộ phận công chúng bỏ tiền ra để mua báo, lựa chọn Phong Hóa - Ngày Nay, thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, truyện ngắn của Thạch Lam, phóng sự của Việt Sinh, Trọng Lang, kịch của Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ,… cùng các mục văn hóa, chính trị, xã hội quan trọng khác. Khảo sát những thông tin quảng cáo trên Phong Hóa - Ngày Nay có thể giúp chúng ta hình dung về bộ phận công chúng này thay vì một điều tra xã hội học không thể thực hiện được. Ai quảng cáo? Quảng cáo cái gì? Quảng cáo như thế nào? Quảng cáo hướng đến ai? Những người trong chuỗi cung - cầu này chính là độc giả của Phong Hóa - Ngày Nay mà Xuân Diệu là người từng bước được tạo dựng để trở thành: trước hết là sản phẩm văn hoá đáp ứng nhu cầu và sau đó từng bước đại diện cho cả chuỗi - hệ thống cung - cầu này. Từ những thông tin quảng cáo, chúng ta có thể đặt ra giả thuyết, độc giả của Xuân Diệu trước hết là thị dân. Cụ thể hơn, đó là tầng lớp tư sản đang lên, trung - thượng lưu thành thị, có tiền, có học - Tây học. Ai sẽ là người mua các trang phục tân thời của họa sĩ - nhà thiết kế Lemur, Lê Phổ; ai sẽ mua đất, mua nhà, mua xe hơi, mua bảo hiểm, thuê kiến trúc sư thiết kế nhà, đi hội chợ, mua son phấn, kim cương, ngọc trai, nước hoa, trang điểm, đi mĩ viện, khách sạn, nhà hát, chụp ảnh nghệ thuật, hút thuốc lá nhập khẩu, uống rượu Cognac, nghe đĩa nhạc, ăn cơm Tây, khiêu vũ, học trường tư thục Thăng Long, Hoài Đức, tham gia đua xe, chơi quần vợt, du lịch, tắm biển, bận đồ bikini,… Nội dung những quảng cáo tràn ngập trên các trang báo Phong Hóa - Ngày Nay đã giúp chúng ta hình dung về bộ phận công chúng của Xuân Diệu. Do đặc tính của lớp độc giả này: có tiền, có học, sống theo lối mới, ưa kiểu cách, trịnh trọng, đề cao sự lãng mạn, lịch duyệt,… Họ có nhu cầu thưởng thức một sản phẩm “chải chuốt” hơn. Bởi vậy, ta có thể lí giải được động cơ chỉnh sửa một số từ ngữ trong thơ Xuân Diệu từ bài thơ đầu đến khi xuất bản Thơ Thơ (Dấu vết của sự cải tạo này càng được nhìn rõ hơn nếu chúng ta xem xét giọng điệu, phong cách ngôn ngữ văn chương của Xuân Diệu từ truyện ngắn “Cái hỏa lò” - Ngày Nay, số 93, 9/1/1937 đến “Thương vay” - Ngày Nay, số 94, ngày 16/1/1937). Khi Thơ Thơ ra đời, Xuân Diệu đã chính thức trở thành người đại diện cho ngôn ngữ, văn hóa thị dân, tư sản trung lưu.
Xuân Diệu, trong chiến lược tạo dựng của Tự lực văn đoàn là một thi sĩ lãng mạn, thi sĩ của ái tình, tuổi trẻ và ánh sáng. Câu chuyện về lãng mạn, ái tình, tuổi trẻ và ánh sáng buộc chúng ta phải hình dung ở tầm chiến lược hoạt động của Tự lực văn đoàn. Những chủ điểm này, không gì khác chính là tâm điểm trong sứ mệnh của văn đoàn này. Từ tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, truyện ngắn của Thạch Lam, Xuân Diệu đến các bài thơ của Thế Lữ, Lan Sơn, Nguyễn Văn Kiện, Xuân Diệu độc giả hôm nay sẽ nhận thấy chủ đề mà các văn thi sĩ của Phong Hóa - Ngày Nay tập trung khai thác. Tuy nhiên, dữ kiện có tính xã hội học và dường như đáng tin cậy hơn cả vẫn là những quảng cáo trên các trang báo Phong Hóa - Ngày Nay. Chú ý đến các sản phẩm quảng cáo, nội dung, ngôn ngữ quảng cáo, giả thuyết về sự tạo dựng một người phát ngôn đại diện cho tinh thần của tầng lớp thị dân, trung lưu trở nên có lí. Các quý bà, quý cô, thiếu nữ tân thời cần phải đến mĩ viện Amy để có được hàm răng xinh, ngực nở, dùng kem dưỡng da để có làn da đẹp, tập luyện thể thao để có eo thon,… nhằm thu hút sự chú ý của đàn ông, để giữ chồng, để kiếm tìm tình yêu. Muốn giữ được hạnh phúc cần phải biết khiêu vũ. Muốn đời sống hôn nhân - tình ái được mãn nguyện phải dùng dược phòng. Muốn tiến bộ phải tham gia Hội Ánh Sáng và các chương trình xã hội khác,… Ở phạm vi hẹp, hiện diện hữu hình của ái tình là thân thể, thơ Xuân Diệu đã nói lên một cách táo bạo, thiết thực nhất những nhu cầu của bộ phận công chúng này. Xem xét các tác phẩm thơ trên Phong Hóa - Ngày Nay với chủ yếu là sáng tác của Thế Lữ, Nguyễn Văn Kiện, Lan Sơn, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính cho đến khi Với bàn tay ấy, Vì sao?, Xa cách, Đơn sơ của Xuân Diệu xuất hiện, các thực thể đôi ngực, mái tóc, đôi vai, sóng mắt, cặp môi, đôi hàm ngọc của răng, tay trong tay… với trạng thái ân ái (sát, kề, gần thêm nữa, quấn riết, trộn nhau,…) lần đầu tiên được thể hiện rạo rực và đắm say, gần gụi đến thế. Xét về mặt tư tưởng, ái tình trong thơ Xuân Diệu đã đi xa hơn, mạnh bạo hơn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ. Người ta không thể cam chịu như Nhung (Lạnh lùng), yêu nhau dưới bóng từ bi của Đức Phật như Tiểu Lan và Ngọc (Hồn bướm mơ tiên), cũng không thể cứ cách ngăn, lỡ dở như Loan - Dũng (Đoạn tuyệt), mộng mơ viển vông như trong thơ Thế Lữ. Chế Lan Viên quá xa lạ với cộng đồng này. Nguyễn Bính lại quê mùa quá. Chỉ có Xuân Diệu, ái tình của Xuân Diệu đã đến được với thế giới sâu kín, ẩn mật của tầng lớp thị dân, trung lưu, đang khao khát ái tình, khao khát tự do. Vẫn từ những thông tin quảng cáo, có thể nói, thuốc lậu Hồng Khê, Thanh Hà, Hưng Bình, dược phòng, hải sâm kiện thận, thuốc phòng tích, mĩ viện sửa ngực - eo Amy cho đến nước hoa Con Voi và khách sạn,… đã nói lên cụ thể phần nào nhu cầu ái tình - tình dục trong xã hội bấy giờ. Phóng sự của Việt Sinh về gái mại dâm (Hà Nội ban đêm), Trọng Lang về gái nhảy, cô đầu, nhà thổ (Hà Nội lầm than) càng giúp ta tin vào một giả thuyết về đời sống tình dục của tầng lớp thị dân. Không bàn đến phần tiêu cực, trụy lạc của tệ lậu, từ vũng tối của đời sống tinh thần - thể xác, Xuân Diệu đã nói một cách tinh tế, bằng những vần thơ bay bổng, du dương những rạo rực trong lòng người. Thơ Xuân Diệu buổi ấy làm hiện hình “Nàng thơ” trong mơ tưởng của cư dân đô thị, có tiền, sống đủ đầy, và dần biết hưởng thụ - mà trước hết là hưởng thụ đời sống cá nhân, thân thể của mình. Không gì gần gũi hơn với cá nhân bằng ái tình - tình dục. Nếu để nói về nhu cầu ấy theo ngôn ngữ của một phóng sự điều tra xã hội, người ta đã có Thạch Lam, Trọng Lang hay phóng sự - tiểu thuyết của một người ở phe đối lập - Vũ Trọng Phụng. Nhưng, lớp công chúng ấy lại ưa trang hoàng đời sống ái tình bằng những lời có cánh, bằng một thứ ngôn ngữ “trau chuốt”, lịch lãm. Vì thế, họ cần một thi sĩ lãng mạn (thi sĩ lãng mạn trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng không phải là không có căn cước từ nhu cầu thực tế này trong xã hội).
Tự lực văn đoàn là một “tập đoàn” (Vũ Bằng) với cả nghĩa văn hóa, chính trị và thương mại. Bởi thế, từ góc độ diễn ngôn quảng cáo, Xuân Diệu có thể được xem như một sản phẩm được tập đoàn này tạo dựng, sản xuất nhằm đáp ứng các mục đích văn hóa, chính trị, thương mại. Sự tồn tại vững mạnh, có tính chất bá chủ của Tự lực văn đoàn trong đời sống báo chí Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX là điều kiện thuận lợi để tạo dựng một tượng đài - một thứ hàng hóa và qua đó tiếp tục duy trì thế lực của mình trước các đối thủ khác (Tiểu thuyết thứ Bảy, Tân Việt Nam, Ích Hữu, Loa, nhóm Tân Dân,…). Lợi ích cụ thể nhất chính là, với Xuân Diệu, tập đoàn này sẽ thu hút được đông đảo công chúng, khách hàng, hội viên (Hội Ánh Sáng), sẽ có thêm lợi nhuận thương mại, sức mạnh về chính trị và văn hóa,… qua đó thực hành tư tưởng cải cách xã hội và sâu xa hơn nữa của Tự lực văn đoàn. Câu hỏi “Độc giả của Xuân Diệu là ai?” hóa ra lại không dừng lại ở câu chuyện văn chương hay thương mại, mà đó là một chất vấn về hệ giá trị của một cộng đồng, một thời đoạn lịch sử. Cho đến nay, điểm nhìn này vẫn không phải đã mất đi tính hiệu quả của nó trong việc nhận diện những chuyển động của xã hội.
M.D
Nguồn: Văn nghệ Quân đội