TRANG THƠ TỰ CHỌN CỦA NHÀ THƠ ĐỖ TRUNG LAI
ĐỖ TRUNG LAI
THĂNG LONG
Có một Thăng Long huyền thoại
Rồng lên từ phía sông Hồng.
Có một Thăng Long áo mỏng
Gió đùa quanh tấm lưng ong.
Có một Thăng Long sát Thát
Tinh kỳ rợp Đông Bộ Đầu.
Có một Thăng Long thơm ngát
Mặt hoa nồng nàn đêm sâu.
Có một Thăng Long Nguyễn Trãi
Chong đèn viết sách bình Ngô
Có một Thăng Long mềm mại
Tựa vai ta, bước bên hồ.
Có một Thăng Long Lê Lợi
Giặc tan, trả lại gươm thần.
Có một Thăng Long mắt sẫm
Môi cười như đóa hoa xuân.
Có một Thăng Long Nguyễn Huệ
Ngựa phi trong sắc hoa đào.
Có một Thăng Long e lệ
Mắt nào góc phố tìm nhau.
Có một Thăng Long xa lắm
“Lối xưa, xe ngựa, hồn thu...”
Có một Thăng Long đang thở
Bên ta, từng phút từng giờ.
Có một Thăng Long Hoàng Diệu
Treo mình tử chiến giữ thành.
Có một Thăng Long chung thủy
Chờ nhau mấy cuộc chiến tranh.
Có một Thăng Long "Cờ đỏ
Bay quanh tóc bạc Bác Hồ".
Có một Thăng Long bé nhỏ
Không bao giờ thôi mộng mơ.
Có một Thăng Long bốc cháy
Đưa tiễn trung đoàn Thủ đô.
Có một Thăng Long hờn dỗi
Bên thềm, mắt ướt như mưa.
Có một Thăng Long mũ lưới
Bộ đội vào năm cửa ô.
Có một Thăng Long dẫn cưới
Bằng cả một đoàn xích lô.
Có một Thăng Long lẫm liệt
“Pháo đài bay” rụng mặt hồ.
Có một Thăng Long răng trắng
Cắn vào quả sấu đầu thu.
Có một Thăng Long bỏ ngỏ
Giặc vào không còn đường ra.
Có một Thăng Long gót đỏ
Tóc dài bên liễu thiết tha.
Có một Thăng Long thương nhớ
Người đi mở cõi mơ về.
Có một Thăng Long thon thả
Khép hờ vạt áo ngoài kia.
ĐÁ VÀ CỜ Ở ĐỒNG VĂN
Dưới bóng vàng sao đầu Lũng Cú
Đá cũng là dân đất nước tôi
Chiều xuống, sương bò ra mặt đá
Như người giữ nước đổ mồ hôi
Cả đá lẫn người đều lẫm liệt
Muôn kiếp thi gan nhật nguyệt rồi
Ngậm gió cổng trời buông tiếng thét
Đá thề sống chết tựa người thôi
Sống chết, tận trung mà báo quốc
Chầu bên cột mốc chốn biên thùy
Ấm lạnh với người trong sương tuyết
Che đỡ cho người lúc hiểm nguy
Rồi đá cho người thân kiếp đá
Dựng thành chót vót với uy nghi
Hồn nước ngày đêm theo thạch trụ
Phần phật reo trên ngọn quốc kỳ.
MŨI CÀ MAU
Nước, gió, cây, mây
Miền Tây Nam Bộ
Đi vào mênh mông
Dạ này chợt ngộ
Thấy một cây tàn
Trăm ngàn cây nở
Biết đón triêu dương
Từ trong nhật mộ
Thấy biển lui dần
Ba bề sóng vỗ
Biết đem bùn hoang
Làm nên quốc thổ
Nhìn kiếp lênh đênh
Cùng con xuồng nhỏ
Biết ta ở đời
Là hoa là cỏ
Nhìn sông lở bồi
Cánh chim bạt gió
Biết không ai người
Ra ngoài bể khổ
Rượu đong ly đầy
Đờn ca một trổ
Biết lấy tâm tư
Viết thành vọng cổ
Trông nước vơi đầy
Mây tan trong gió
Vỗ tay cả cười
Tang bồng hết nợ!
TỰ VỆ TẬP TRONG VƯỜN BÁCH THẢO
Như là hai mặt của một tờ giấy thôi
Mặt này viết thơ tình, còn mặt kia viết hịch
Phương tiện là mặt kia, mặt này là mục đích
Trong cái bề dày ngỡ như không của tờ giấy này, là toàn bộ triết học loài người- cổ, kim, đông, tây.
Từ đống xác B52 đến bãi trẻ con chơi
Đội tự vệ xếp hàng, đi từ mặt kia sang mặt này tờ giấy
Cái bề dầy ngỡ như bằng không ấy
Nhân loại đã bao giờ đi qua được đâu.
Giờ giải lao, tôi thấy có hai người trẻ tuổi yêu nhau
tách khỏi đám bạn bè, sau gốc cây, hôn nhau trên ghế đá
Hai người này, vô tình, bạn ạ!
Đã đi hết ngàn vạn năm, trong có một buổi chiều.
MÔI DỊU DÀNG, TA GỌI:
"BẮC GIANG THU"
(Kính tặng hương hồn Cụ Đề Thám và hương hồn những nghĩa quân Yên Thế)
Sông Lục Nam mềm xanh
Thành Nhã Nam rắn rỏi
Rừng Lục Ngạn không biết đâu là cuối
Bắc Giang thu, nắng trải đón chân người.
Đồng nhỏ trong thung, mảnh ruộng chân đồi
Màu lúa chín tràn về tận cửa
Sông Thương đục, sông Thương trong muôn thuở
Gió rải đồng trong tiết hanh heo
Trung du thơm như khay mật ong chiều
Đến sỏi đá cầm lòng còn chẳng được
Ai hát khúc núi đồi thuở trước
Dẫu không đò, ta cũng phải sang ngang.
Vạt lúa chín Phồn Xương như dải khăn vàng
Buông thơm thắm bên ngực trần sơn nữ
Quân Đề Thám còn đang ngồi đâu đó
Dưới bóng rừng, bên hồ rượu mùa thu
Tay đã buông gươm súng tự bao giờ
Rượu men lá, tấm lòng như nhật nguyệt
Ta cảm khái vén tay tìm nhập cuộc
Bát rượu đầu, xin cạn với non sông
Non sông đau, hào kiệt chẳng cam lòng
Trời không tựa, anh hùng đành ôm hận
Thân về đất, tim hồng thành ngọc nát
Thành hoàng hôn thắm đỏ đất trời thiêng
Đất trời thiêng thơm danh tiếng hùm thiêng
Tượng Đề Thám sừng sững trời Yên Thế
Người khởi nghĩa, áo mang màu đất mẹ
Đầu quấn khăn vồ, râu cọp phất phơ bay
Xin cạn với riêng ông bát rượu thứ hai này
Giặc đã chạy, quốc thù xưa đã báo
Quanh đồn luỹ, đá như nồi như đấu
Ngổn ngang nằm trong sắc cỏ mùa thu
Không phải đá đâu. Đó là những câu thề
đã hoá thạch- "Quyết không làm nô lệ!"
Lời thề đá, xưa xây thành đắp luỹ
Vẫn nguyên lành dù luỹ vỡ thành tan
Vẫn nguyên sinh trong cỏ nội hoa ngàn
Rồi sẽ lại gầm lên khi giặc đến
Bao trượng nghĩa mới nên bờ nên bến
Bát rượu thứ ba này, xin cạn với ba quân
Nắng nhuộm vàng cây, lúa trải đỏ đồng
Thu thắng trận, thu hoà đàm, thu thất thế
Thu chết tướng, thu tan quân, thu yên nghỉ
Thu lộng lẫy, thu hào hùng, thu giản dị
Chuốc rượu dưới quân kỳ, bao cung bậc thu qua.
Chuông thu không, rừng động dưới trăng già
Tiếng trống trận, tiếng tù và đã tắt
Nhưng tiếng hát thì không bao giờ chết
Tiếng hát giữa lòng người, tiếng hát giữa non sông
Rằng, "Muôn năm dòng máu anh hùng!"
Rằng, "Vạn tuế giống dòng hào kiệt!"
Thời gian trôi, thời gian trôi mải miết
Dạ ngọc gan vàng chói lọi giữa thiên thu.
Rượu Bắc Giang sóng sánh dưới trăng mờ
Bát này nữa, rồi xa miền cổ tích
Bát này nữa, rồi mỗi khi ấm lạnh
Môi dịu dàng, ta gọi: "Bắc Giang thu!".
LỜI MỴ CHÂU
Đêm khuya. Gió bấc. Mưa phùn. Chợt một người con gái đến bên đầu giường tôi, khóc, rồi than rằng:
- Sao các nhà thơ ta bất công thế này!
- Chúng tôi đã làm gì mà em bảo chúng tôi bất công? - Tôi hỏi lại.
- Thì đấy, mấy trăm năm nay, các anh chỉ một mực khóc thương Vương Thuý Kiều. Lại còn đồng thanh bảo rằng, đó là người đàn bà khổ nhất trời Nam.
- Nàng ấy không khổ thì còn ai khổ nữa?
- Sao lại nói thế được? Nàng ấy yêu và được yêu, được hẹn thề: Tóc mây một món dao vàng chia đôi. Bán mình chuộc cha là tự nguyện. Mười lăm năm lưu lạc cũng còn được nương bóng vua Từ Hải, được nhờ túi phong lưu của chàng Thúc. Sau lại được tái hồi Kim Trọng: Hoa tàn mà lại thêm tươi - Trăng tàn mà lại hơn mười lần xưa. Thân thì thế, danh thì ông Tiên Điền bênh cho: Chữ trinh kia cũng có ba, bảy đường; Rằng nàng lấy hiếu làm trinh. Thế là thân, danh đều vẹn. Nàng ấy khổ sao bằng em được?
Tôi giật mình vội hỏi:
- Thế chuyện của em ra sao?
- Em bị gả cho thằng gián điệp! Quay đi quay lại chưa hiểu ra sao thì bị chém đầu. Mà người chém, trời ơi, lại là cha mình! Nói rồi, nàng cứ khóc mãi không thôi, trong nước mắt hình như có máu. Tôi nhìn kỹ, đó là một nàng chừng tuổi trăng tròn, mặt hoa da phấn, cốt cách lá ngọc cành vàng, trên mình khoác chiếc áo lông ngỗng. Chợt hiểu, tôi bảo:
- Ra em là Mỵ Châu đấy ư? Đúng rồi, em mới là người đàn bà khổ nhất trời Nam! Nàng ấy nghe, nét mặt có vui lên một chút.
Khi tỉnh hẳn, chỉ còn mình tôi trong phòng. Trên bàn viết có mấy chiếc lông ngỗng trắng tinh. Lấy làm lạ, tôi cầm một chiếc lông ngỗng làm bút, viết bài thơ này tạ lỗi Mỵ Châu:
Cha ơi! Cha chọn rể
Cha đắp luỹ xây thành
Mà sao khi nước mất
Cha xử con tội hình?
Thần rùa biết cơ trời
Cớ sao còn tặng nỏ?
Sao nỡ trỏ vào em:
- Giặc đằng sau vua đó!
Chàng đã phụ đời ta
Từ khi chưa gặp mặt
Chuyện tình thành Cổ Loa
Đau trước ngày thứ nhất!
Sống cũng chẳng được nào:
Nước mất! Tình cũng mất!
Nhưng chết dưới gươm cha
Thì ngàn năm oan nghiệt!
Nỗi oan này hoá ngọc
Dưới chín tầng bể sâu
Thần với người đâu cả
Bao giờ thì biết yêu?
THƠ VIẾT Ở NGHĨA TRANG LIỆT SĨ PLÂY CU, GIA LAI
Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ trắng một mầu như mây
Mây trên ấy còn bay muôn thuở
Ba ngàn nay đã bỏ tay chèo
Ba ngàn mãi mãi buông neo
Ba ngàn mãi mãi nằm theo đội hình
Ba ngàn phận, tình ba ngàn khối
Vọng cố hương từ cuối chân trời
Ai người cha mẹ khuất rồi?
Ai người vợ góa con côi đến giờ?
Ai ngã lúc mịt mờ lửa đạn
Còn vùng lên trao bạn lá cờ?
Ai người lạc nước sa cơ
Mười năm thao lược, một giờ buông tay?
Ai đi nhẹ như mây như khói?
Ai đi sau cơn đói dài ngày?
Ai vì sốt rét về đây?
Ai vì lở đá, đổ cây giữa rừng?
Ai vượt thác nửa chừng cạn sức?
Ai bờ khe mép vực sa chân?
Ai người số phận xoay vần
Hùm xanh, báo trắng, voi thần đem đi?
Ai đã chẳng tiếc gì máu nóng
Bỏ thân mình cho sống bạn mình
Rồi đi, không ảnh không hình
Đem sinh mệnh đúc khối tình tặng nhau?
Những ai nghỉ cùng sâu một mộ
Biết tìm đâu cho đủ hình hài?
Chẳng sinh từ một bào thai
Ôm nhau, cốt nhục Đông- Đoài xá chi
Những ai kịp thầm thì trăng trối
Phút cuối cùng đứt nối lời thiêng?
Ai người lịm tắt trong đêm
Nằm im trên võng mà quên cuộc đời?
Ai người mười tám, đôi mươi?
Ai người tóc bạc? Ai người hoa râm?
Ai là cán? Ai là quân?
Bây giờ trắng xóa quây quần bên nhau.
Ngổn ngang mây trắng trên đầu
Ba ngàn mộ, trắng một mầu như mây.
THƠ BÊN MỘ LIỆT SĨ ĐỖ TRUNG CẨN
Ở NGHĨA TRANG LIỆT SĨ PLÂY CU, GIA LAI
Ước gì anh lên đây được
Ngồi nghe em kể chuyện nhà
Ước gì anh lên đây được
Nói cười như những ngày xưa
Cha mẹ chúng mình đã khuất
Không ai chống được tuổi già
Anh em yên bề gia thất
Mình anh nhân ảnh nhạt nhòa
Đồng làng giờ ba bốn vụ
Cơm làng thôi độn khoai ngô
Thế mà ngày anh đánh giặc
Lội rừng, lấy sắn làm no
Giờ vải lụa đâu nhiều quá
Làng mình thưa tiếng thoi đưa
Né kén nong tằm cũng ít
Làm nhiều, hàng bán ai mua?
Sông Đáy trước nhà vẫn thế
Mùa này nước màu xanh lơ
Cá tôm càng ngày càng hiếm
Ít ai cất vó đặt lờ
Mỗi bận về sông thấy cát
Em thường nhớ anh ngày xưa
Cao lớn, lông mày lưỡi mác
Sải tay bơi giữa hai bờ
Anh của em là thế đấy
Chỉ thích những con sông đầy
Để lao mình vào nước xiết
Thách cả trời cao đất dày
Bây giờ trời cao đã thắng
Vùi anh vào lòng cao nguyên
Bây giờ đất dày ba thước
Làm sao đưa được anh lên?
Bây giờ em ngồi bên mộ
Dưới lòng đất đỏ là anh
Trên trời, mây bông trắng nõn
Nhởn nhơ trông rất hiền lành
Thế mà lòng trời thuở ấy
Còn sâu hơn ngàn vực sâu
Ngày nào cũng đầy khói lửa
Đêm nào cũng đầy hỏa châu
Từ nay em không tin nữa
Rằng lượng trời rộng vô cùng
Trời mang bao người rất trẻ
Về nơi vô thủy vô chung
Vẫn biết vào cơn gió bụi
Xưa nay mấy kẻ trở về
Vẫn biết các nhà liệt sĩ
Đều vì lẽ sống mà đi
Nhưng trước nấm mồ ruột thịt
Em như người đứt cánh tay
Xin liệm thêm vào dưới ấy
Của em, lời xót thương này!
CHỊ TÔI
(Kính tặng chị Xa - vợ goá của liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn)
Anh tôi đi mãi không về
Không ai giải được lời thề chị tôi
Chị tôi giờ hết duyên rồi
Bao năm chỉ thấy gió trời trên cao
Bao năm chỉ những ra vào
Bao năm sáo chả lần nào sang sông
Đợi anh chả thấy vân mồng
Thôi còn biết gửi tơ lòng vào ai
Khi trăng lặn lúc sương mai
Một mình một ngõ lấy ai chuyện trò
Vàng xanh như cỏ đầu bờ
Cỏ còn đợi nước, chị chờ gì đâu?
Sông sâu mà giếng cũng sâu
Cau già đã đốn, giàn giầu đã khô
Rèm thưa trúc sót đung đưa
Trúc rơi từng đốt, người chưa gặp người
Chị tôi giờ hết duyên rồi
Gốc hồng cũng chẳng được ngồi hái hoa
Năm đi qua, tháng đi qua
Chị trôi trong ấy như là trong mơ
Đời người thế cũng xong ư?
Đầu xanh mà đã ba thu một ngày.
Nói chi đến chuyện hao gầy
Chị tôi đã chết từ ngày anh đi!
HANG NGẬM NGƯỜI
Thời chống Mỹ, bên đường 20, Tây Quảng Bình, có một hang đá rộng. Thường ngày, có 8 nữ chiến sĩ thanh niên xung phong ở đó để sẵn sàng cùng mọi lực lượng giữ đường, sửa đường cho cho quân ta vào mặt trận. Vì thế mà hang mang tên "Hang Tám cô".
Ngày 14-11-1972, bom Mỹ đánh sập cả một khối núi lớn, bịt chặt cửa hang! Phương tiện hiện đại không có, nổ mìn thì họ càng không thể sống! Sau 14 ngày cố gắng hết sức dưới bom đạn và chịu thêm nhiều hy sinh ở bên ngoài hang, để tránh những thương vong còn lớn hơn nhiều chắc chắn sẽ xảy ra, nếu tập hợp quá đông số người và phương tiện ứng cứu; để con đường ra trận không bị tắc; bất khả kháng, Bộ chỉ huy mặt trận 559 đã buộc phải quyết định dừng việc cứu nạn! Lúc ấy, trong hang có 4 nữ chiến sĩ thanh niên xung phong và 4 chiến sĩ pháo phòng không bảo vệ đường.
Tháng 4-1995, một đại đội công binh Quân khu 4, với đầy đủ phương tiện hiện đại, cùng nhiều đồng đội và thân nhân các liệt sĩ, do Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Nguyễn Lương Trào, dẫn đầu, đã đến thắp hương rồi mở hang suốt 2 tháng ròng, mới đục được một cửa nhỏ để vào hang. Lại phải đợi 14 ngày nữa, "khi trong hang không còn vọng ra tiếng kêu cứu nữa", mới có thể đưa hài cốt các liệt sĩ về mai táng tại quê nhà.
Mấy mươi năm nằm trong đá núi
Mới được đưa ra nhìn mặt trời
Công binh vừa mở hang vừa khóc
Đá âm thầm, đá toát mồ hôi!
Bao năm hang đá ngậm người
Có ai để lại một lời nào không?
Đâu lời tê tái đêm Đông?
Đâu lời Hạ với bão giông mịt mù?
Đâu lời héo của tàn Thu?
Lời Xuân mưa bụi thâm u ruột rừng?
Giữa đá lạnh - giữa âm cung
Lời nào trong phút cuối cùng? Người ơi!
Phút cuối cùng cũng xa lắm rồi
Đã trôi hun hút về cuối trời
Trôi về hoá thạch, về xương trắng
Rạch hồng hoang, bỏng rát tên người
Tám cái tên đã mất hình hài
Hương nến làm sao tỏ hết lời?
Tám cái tên thôi hát, thôi cười
Hương nến làm sao tỏ hết lời?
Tám cái tên vùi trong đá ngời ngời
Hương nến làm sao tỏ hết lời?
Tám tiếng kêu hiện ra từ đá
Hương nến làm sao tỏ hết lời?
Cuộc chiến đã sau đường chân trời
Tổ quốc từ lâu không bóng giặc
Đồng đội thấy đá là cay mắt
Cùng nhau đập đá tìm người
Người nhìn kìa: mây bay đầy vơi
Đưa người từ miền Tây về xuôi
Qua rừng xanh thắm, đồng xanh thắm
Ta về quê mẹ, người ơi!
Ai hay, đá khóc như người?
CHA
Da mồi, râu tóc bạc
Gậy trúc và thơ Đường
Thân thuộc mà xa cách
Cha như người trong gương.
MẸ
Lưng mẹ còng rồi
Cau thì vẫn thẳng
Cau - ngọn xanh rờn
Mẹ - đầu bạc trắng
Cau ngày càng cao
Mẹ ngày một thấp
Cau gần với trời
Mẹ thì gần đất!
Ngày con còn bé
Cau mẹ bổ tư
Giờ cau bổ tám
Mẹ còn ngại to!
Một miếng cau khô
Khô gầy như mẹ
Con nâng trên tay
Không cầm được lệ
Ngẩng hỏi trời vậy
- Sao mẹ ta già?
Không một lời đáp
Mây bay về xa.
CHẠP NÀY VỀ
Chạp này về với chiều sông Đáy
Rửa lá dong xanh, đám gái làng
Dìu dịu như ngà, như nếp trắng
Buộc người như những sợi lạt dang
Chạp này về với đường đi chợ
Đòn tre nhún nhẩy đổi hai vai
Mấy chị quẩy hàng xuôi huyện sớm
Cỏ dầy tơ nhện sương ngọc trai
Chạp này về với đường đi học
Lúa chửa xanh đồng, dâu đã gum(*)
Trâu đói gặm lười trong gió bấc
Mây ở trên trời, khói dưới thôn
Chạp này về với miền niên thiếu
Bánh chưng bắc bếp luộc trong nhà
Anh em trải chiếu nằm bên lửa
Ai biết rồi ra ngày một xa
Chạp này về với miền thơ ấu
Về với cha nghiêm, mẹ dịu dàng
Cha mẹ đã thành ra cổ tích
Cỏ nằm kể mãi dưới chân nhang.
(*) Uốn cong cây dâu theo luống để dâu bật mầm sớm.
ĐÊM SÔNG CẦU
Anh qua sông Hồng sông Đuống
Mùa mưa bọt nước đỏ ngầu
Không biết ở nơi em ở
Êm êm một khúc sông Cầu
Tiếng một con tôm búng nước
Vó bè ai cất sau lưng
Sao trời lọt qua mắt lưới
Rơi đầy xuống cả mặt sông
Con sông của người quan họ
Suốt đời nước chảy lơ thơ
Em ơi! Em là cô gái
Từ lâu anh đợi anh chờ
Em là cô Tấm thảo hiền
Đến giữa đời anh trẩy hội
Tình đã trao nhau êm đềm
Mà vẫn mắt nhìn bối rối
Sông Cầu khi đầy khi vơi
Chảy ngang qua câu quan họ
Ướt đầm vạt áo bao người
Vạt thương ướt cùng vạt nhớ
Em nói nhẹ như hơi thở
Anh nghe để nhớ suốt đời
Giữ tình yêu như giữ lửa
Đừng quên, đừng tàn, đừng nguôi!
Tình yêu có từ phương em
Đi qua năm tháng chờ đợi
Tình yêu có từ phương anh
Lửa rừng bồn chồn góc núi
Tình yêu có từ hai ta
Chẳng đủ gần mà giận dỗi
Nhà xa, mặt trận càng xa
Gặp nhau lần nào cũng vội
Ngày mai chắc là nhiều nắng
Nên sao giăng khắp trên đầu
Ngày mai chặn miền Ải Bắc
Tựa lưng vào đêm sông Cầu.
THƠ VUI TẶNG VỢ
Hằng ngày
sau giờ làm việc
em trở về nhà
xách trên tay cả một phiên chợ cóc
với thịt, cá, rau, dưa, tôm, cua, ốc, ếch...
Rồi em chế thành những món quê mùa
làm lu mờ mọi yến tiệc.
Anh và các con
nhờ thế
chưa bao giờ phải quá tôn trọng cái tủ lạnh.
Rồi em mỉm cười
nhìn chồng con
ngốn sạch những thứ em nấu.
Em là mảnh hồ cuối cùng
sau khi người ta lấp hết hồ đi
để lấy đất xây nhà.
Em là câu dân ca cuối cùng
của nền quốc gia âm nhạc.
Em là mảnh ruộng cuối cùng
sau đô thị hóa.
Em là Bảo tàng Dân tộc học nhà ta.
Hằng tuần
vào hai ngày nghỉ
em quét sạch mọi chỗ
em giặt sạch mọi thứ
(Chỉ có anh, các con và con mèo nhà ta là chưa bị em
cho vào máy giặt!).
Em là Nguyễn Đình Chiểu nhà ta - ghét bụi bặm như nhà nông ghét cỏ.
Anh đã thấy rất nhiều ngôi - nhà - hoang
vì vắng bàn tay phụ nữ.
Nhà mình giàu hơn người, là nhờ có em.
Hằng tháng
em đều nghĩ rằng lương anh đã lên
(Nếu thế thật thì rất là hay quá!)
Nhưng muốn Chính phủ tăng lương
phải đủ tháng, năm, ngạch, bậc, ngày, giờ em ạ!
Mà anh lại nằm ngoài các nhóm lấy tiền dự án, tiền cứu trợ
người nghèo, tiền đóng thuế của dân rồi tìm cách chia nhau.
Thôi thì bớt thịt thêm rau
Bớt rau thêm thịt, anh đâu nói gì.
Mỗi ngày dăm chén rượu quê
Ngắm em, dẫu chửa say nhè, cũng vui.
Họp phường bàn chuyện trên đời
Nhà ta chỉ cử một người, là em.
Hằng năm
em đều thay anh sửa sang lại đồ thờ
bổ sung nến, nhang, vàng mã...
Anh thấy đẹp nhất là mâm ngũ quả
các cụ nhà mình khỏi phải đi chợ xa.
Mai sau cũng thế thôi mà
Ta lên lưng nhà ngồi ngắm chuối xanh
Ngồi lâu thì hóa vô danh
Vô danh lâu, lại hóa thành tổ tiên
Tổ tiên thì vẫn anh em
Phù gia hộ quốc dưới đèn đêm đêm
Rồi ta hoá tượng trong đền
Nhìn xem cuộc thế qua thềm mà chơi.
TÔI RU CON GÁI TÔI
À ơi con ngủ cho ngoan
Đắp chăn rồi bố mắc màn cho con
Nửa đời nước nước non non
Con vừa một tuổi, bố tròn bốn mươi
Nửa đời đi ngược về xuôi
Đêm nay bố ngắm con cười trong mơ
Môi hồng, da trắng, tóc tơ
Bố cho máu đỏ, mẹ cho hình hài
Trời cho tính nết sau này
Cầu cho con những khéo tay, dịu dàng
Trong đêm con thở nhẹ nhàng
Cầu cho con khỏi bần hàn mai sau
À ơi con ngủ cho lâu
Cầu cho con chẳng một câu lụy người
À ơi thân gái ở đời
Những nơi tục lụy con thời tránh xa
"Thiện căn ở tại lòng ta"
Mạnh hơn lẽ quỷ lời ma dọc đường
À ơi thương đến là thương
Cầu cho Thánh Thiện dẫn đường con đi
Đừng ham ngũ sắc làm chi
Trời xanh muôn thuở có gì cũ đâu
Đò đầy, phá rộng, sông sâu
Có qua thì lúc bạc đầu hãy qua
Yêu thơ cùng với yêu hoa
Cũng đừng yêu quá như là bố yêu
Ở nhà biết vá biết thêu
Ra đường kẻ ghẹo người trêu mặc người
À ơi thân gửi ở đời
Cổ kim đâu cũng quý người thủy chung
Câu rằng, chị ngã em nâng
Là qua hết được mọi vùng khó qua
Đi cùng con lúc tuổi hoa
Đời người ngắn lắm! Bố già đến nơi
Nay mai trời gọi lên trời
Cũng là đã có mấy lời cho con
À ơi máu đỏ như son
Mai sau con lớn, con còn nhớ chăng?