NHÀ THƠ BẾ KIẾN QUỐC: HÃY NHÌN ANH NHƯ NHÌN MỘT DÒNG SÔNG/LUÔN LUÔN CHẢY, LUÔN LUÔN ĐI TỚI
Ảnh nhà thơ Bế Kiến Quốc và Nguyễn Việt Chiến
Người biên tập: “Cái đêm hôm ấy đêm gì!”
Tưởng như cứ nằm xuống là con người sẽ bị thời gian phủ lên ngay một lớp bụi dày của sự quên lãng rất vô tâm, nhất là vào cái thời hối hả sống, hối hả quên trong các đô thị chật ních người và khói bụi công nghiệp này. Nhưng hình ảnh Bế Kiến Quốc vẫn còn tươi nguyên trong ký ức bạn bè văn chương, bạn bè báo chí và trong những bài thơ mà ông để lại.
Bế Kiến Quốc sinh ngày 19.5.1949 tại Nam Định, tốt nghiệp khoa ngữ văn đại học Tổng hợp Hà Nội. Hơn hai chục năm công tác ở Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Bế Kiến Quốc đã gắn bó và trải qua nhiều thăng trầm với nghề báo. Ông là một nhà báo đầy tâm huyết, sáng tạo và giầu nghị lực. Hơn thế nữa, ở anh luôn tràn đầy niềm tin yêu vào sự tốt lành và cái thiện trong mỗi con người, cũng như luôn luôn trăn trở, thao thức trước nỗi bất công mà mỗi một số phận phải gánh chịu.
Trong những năm báo chí cùng với đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, một loạt ký sự trên Báo Văn Nghệ đã gây tiếng vang lớn trong dư luận cả nước. Một trong những tác giả nổi bật thời đIểm ấy là nhà báo Phùng Gia Lộc, người đã phải lánh nạn “cường hào mới” ở xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá đến tá túc ít tháng tại gia đình Bế Kiến Quốc- Đỗ Bạch Mai (lúc đó đang ở nhờ một căn buồng của Báo Văn Nghệ, 17 Trần Quốc Toản, Hà Nội). Trước đó, vào năm 1980, trong một chuyến đi công tác vào Thọ Xuân, Thanh Hoá, vợ chồng Bế Kiến Quốc đã quen biết với Phùng Gia Lộc, lúc đó đang là cán bộ văn hoá của huyện Thọ Xuân.
Sáu, bảy năm sau, khi ra Hà Nội tìm vợ chồng Bế Kiến Quốc ở Báo Văn Nghệ thì Phùng Gia Lộc đang gặp hoàn cảnh khá bi đát ở quê hương. Sau khi kể cho Quốc nghe nỗi “đoạn trường” mà những người nông dân ở một số làng quê của huyện Thọ Xuân đang phải nếm trải, được sự động viên của Quốc và một số bạn bè văn chương, Lộc đã viết luôn 2 bài ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì” và “Sau cái đêm hôm ấy đêm gì” (do Bế Kiến Quốc biên tập) đăng trên báo Văn Nghệ đã làm xôn xao dư luận cả nước. Theo đánh giá của nhà báo Lê Xuân Kỳ về tính tích cực của các bài ký này: “ Vào thời điểm ấy, nông thôn về cơ bản vẫn là bùn lầy, nước đọng, không điện, không nước tưới và một lớp “cường hào mới” đã xuất hiện, không xót xa sao được, nhưng trên các mặt báo toàn thấy những chuyện “đáng yêu”. Giữa lúc đó “Cái đêm hôm ấy đêm gì” và một loạt bài báo của các tác giả khác ra đời. Trên mặt báo, Lộc đã gửi thông điệp nhắc nhủ toàn xã hội : nông thôn Việt Nam, nông nghiệp Việt Nam đang có vấn đề, đang kêu cứu và cần được đổi mới. Công của anh là ở chỗ đó. Nhiều người cũng nghĩ như Lộc, cũng có thực tế và chữ nghĩa, nhưng không đủ dũng khí và tâm huyết để viết lên giấy. Bài báo có tiếng vang lớn trong cả nước, được hoan nghênh, nhưng ở quê của Lộc, cả xã chỉ có một thầy giáo đặt báo nên phản ứng không mãnh liệt như người ta đồn và điều đáng quý là mọi người đã tự điều chỉnh được…”.
Sau các bài ký ấy, Phùng Gia Lộc trở về quê hương, tiễn ông đi, bạn bè ở báo Văn Nghệ quyên góp được dăm chục cân gạo, ít quần áo, chăn màn cho gia đình anh. Năm 1992, Phùng Gia Lộc qua đời, một con người quanh năm suốt tháng phải vật lộn với khốn khó để mưu sinh, mà văn chương nhiều khi cũng chẳng mang lại cơm áo cho người cầm bút. Những năm sau đó, Bế Kiến Quốc và một số bạn bè văn chương, báo chí cả nước còn một số lần quyên góp, gửi tiền về giúp đỡ gia đình cố nhà báo Phùng Gia Lộc. Tình cảm nồng ấm này còn đựoc Bế Kiến Quốc nhắc đến trong bài thơ “Nhớ bạn” trong một dịp cùng hoạ sĩ Thành Chưong về thăm gia đình Phùng Gia Lộc ở Thọ Xuân, Thanh Hoá:Ta theo như mộng/bạn đã mùa đông/Cát trơ bờ cạn/Chu đấy ư sông?/Đời người thấm thoát/Tri kỷ nhiều đâu/Đời sông bao chốc/Thay mấy phen cầu/Đầu làng cổ thụ/Chờ ta mà già/Bạn đừng khuất nữa/Sông đừng nước qua
Luôn tin yêu cuộc đời và khát vọng lý tưởng sống
Tâm sự với tôi, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, nguyên Tổng biên tập Báo Văn Nghệ xúc động nhớ về Bế Kiến Quốc: “ Bế Kiến Quốc là một con người rất khao khát về lý tưởng, khao khát đến độ trong sáng, thủy chung với sự lựa chọn của mình. Bế Kiến Quốc là một nhà thơ đầy lý tưởng và khát vọng; Là một người chịu khó đọc nhiều, hiểu rộng và luôn vươn tới để chiếm lĩnh các nền tảng văn hoá. Ngọn lửa tinh thần sáng tạo ông mang trong mình từ thủa là sinh viên còn cháy mãi trong cuộc đời làm thơ, làm báo cho đến lúc Quốc qua đời. Khi nhà thơ còn sống, chưa bao giờ tôi thấy ngọn lửa ấy, niềm tin trong sáng ấy suy sụp trong Quốc- một con người trung thực, nhất quán, đòi hỏi rất cao ở mình và bạn bè, đồng nghiệp. Trong thơ ca, chất lý tưởng của Bế Kiến Quốc cũng là một chủ đề xuyên suốt với những khát khao về lẽ sống, về cái cao đẹp của con người và đất nước, từ những bàI thơ đầu tay hồi sinh viên cho tới những sáng tác sau này về thân phận, về những nỗi buồn thấm thía trong đời con người, ở đâu ta cũng thấy một nhân cách thơ Bế Kiến Quốc.
Điều thứ hai, Quốc là một người luôn luôn nén mình, đốt cháy mình cho sự nghiệp thơ ca. Cái ngọn lửa sáng tạo say mê luôn thôi thúc ông. Tôi chưa thấy ai luôn đau đáu bàn về nghề thơ đắm đuối như thế. Phẩm chất này thể hiện cả trong mấy chục năm Quốc làm báo Văn Nghệ. Trách nhiệm lắm, cần mẫn lắm. Bế Kiến Quốc là một nhà thơ tiêu biểu của lớp chống Mỹ về khát vọng sống, lý tưởng sống nhưng lúc còn sống thì ông chưa “xuất lộ” hết diện mạo thơ ca của mình và vì thế chưa được đánh giá đầy đủ. Chỉ đến khi ông qua đời, qua một số tập thơ in sau đó, ta mới thấy Bế Kiến Quốc là một nhà thơ thật sự xuất sắc mà trước đó thơ của ông chỉ như một tảng băng nhô trên biển còn phần chìm bề thế của tảng băng thì chưa lộ diện. Đọc thơ Quốc thấy ông là người nhiều thương cảm lắm, tin yêu cuộc đời lắm, tốt lắm, thiện căn lắm… phẩm chất cao quý ấy, nhân cách sống ấy giúp cho nguồn thơ của ông không vơi cạn, không thấy sự bế tắc khi ông đã lựa chọn đường đời và đường thơ rất chính xác. Quốc là người rất trách nhiệm trong công việc cũng như trong cuộc đời”.
Thơ phải nâng cao tâm hồn con người
Khi nhắc đến Bế Kiến Quốc người ta thường nói đến người bạn tri âm, tri kỷ nhất của nhà thơ là hoạ sĩ Thành Chưong. Chơi thân thiết và gắn bó với nhau như bóng với hình suốt hơn hai mươi năm làm báo ở Văn Nghệ, tình bạn đặc biệt của họ còn ảnh hưởng tới một số quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhau. Hoạ sĩ Thành Chương bùi ngùi cảm động nhớ lại: “ Có một số người chỉ đánh giá cao thơ Bế Kiến Quốc trên những tập thơ in sau lúc nhà thơ qua đời. Riêng tôi thì tôi đánh giá cao phẩm chất tài năng thơ của Quốc ngay khi ông còn sống. Chính vì thế góc độ bàn bè, tôi thường tâm sự với Quốc “ông chỉ nên làm thơ thôi- đừng nên làm lãnh đạo vì cái ông để lại cho đời là thơ ca, đấy mới là sự nghiệp chính của đời ông, cho nên tôi muốn ông chuyên tâm về việc đó ”. Trong cuộc đời tôi, điều may mắn nhất là có được một người bạn thân thiết và tâm giao như Bế Kiến Quốc. ít người biết rằng trong một số giai đoạn sáng tác hội hoạ của tôi, Bế Kiến Quốc lại có những “cú hích” mở đầu quyết định. Cho đến nay, nhiều người không hiểu vì sao tôi lại vẽ tự hoạ nhiều đến thế. Nhưng mọi việc bắt đầu từ một lần Bế Kiến Quốc tặng một bức chân dung gương mặt tôi do chính anh vẽ, với những đường nét giản đơn, rất hay mà lại hiện đại. Tôi thao thức mãi về bức chân dung này và phát hiện ra guơng mặt con nguời có rất nhiều nét biểu cảm đầy tính suy tư của hội hoạ.Từ đấy, tôi vẽ tự hoạ rất nhiều bằng các thể loại: sơn dầu, sơn mài, bột mầu…và tạo nên một phong cách tự hoạ riêng. Thât ra, tự hoạ là mảnh đất mà mình được phép tự do sáng tạo nhiều nhất, vì không ngại ngần va chạm đến ai cả, vì mình chỉ vẽ chính mình chứ có vẽ gương mặt ai đâu. Nhưng cái bước ngoặt và động lực chính khiến tôi vẽ tự hoạ nhiều lại là từ Bế Kiến Quốc đấy! Cũng như, một bài thơ của Bế Kiến Quốc cũng chính xuất phát từ một câu chuyện do tôi kể lại về một lần một có một đám khách nước ngoàI (người Mỹ) đến mua tranh của tôI, họ hỏi chuyện và tôI cũng kể về cuộc đời của tôi trong những năm tháng chiến tranh khi xung phong vào bộ đội ra chiến trường chống Mỹ, thì lúc ấy một cậu phiên dịch có khuyên tôi: “nếu anh nói về chuyện ấy thì có thể họ sẽ ngạI anh và không mua tranh của anh nữa đâu”, nhưng tôI nói với cậu ta rằng: “ Tôi sẽ vẫn nói tất cả những chuyện ấy, tôi là tôi và tôi đã lựa chọn con đường ấy và không bao giờ chối bỏ cả, còn chuyện họ có mua tranh của tôI hay không lại là chuyện khác”. Khi tôi kể chuyện này cho Bế Kiến Quốc nghe, ông rất xúc động và sau đó có làm một bài thơ có những câu sau : Chúng ta không thể không thuộc về đâu/Khi tôi làm thơ, khi bạn vẽ/Đừng ai hỏi vì sao/Đã như thế, vẫn đang như thế/Từ những tháng năm nào/Không chọn lựa, nhưng không chối bỏ/Mảnh đất nơI mình cắt rốn chôn rau/Như người mẹ, ai có quyền chọn lựa?/Xin cảm ơn buồng trứng, bầu sữa và lời ru của mẹ/Chúng ta không thể không thuộc về đâu cả/Khi tôI làm thơ, khi bạn vẽ/Ta yêu thương, ta dại khờ, lầm lỡ/Trong một đời đầy thử thách ta qua/Xin cảm ơn đồng đội đã cùng ta/Chung cơn đói, chia niềm vui nỗi khổ/Người con gái ta yêu và cũng yêu ta/Xin cảm ơn mái tóc, làm môi, đôi tay, cặp vú/Ta chọn lựa và ta không chối bỏ...
Suốt một đời trằn trọc với công việc thầm lặng của người làm thơ, Bế Kiến Quốc dường như rất ít khi ngủ trước một, hai giờ sáng. Anh thường viết về đêm nhưng lại hút thuốc quá nhiều. Tôi đã từng thấy anh lục ngăn kéo bàn viết mỗi đêm, nếu chỉ còn một bao thuốc là Quốc không yên tâm, phải tìm cách bổ sung ngay cho đủ “cơ số” ni-cô-tin để đối mặt với trang viết qua từng đêm trắng. Anh hút thuốc ngay cả lúc ốm mệt và trong những cơn ho. Khi ấy, Quốc thường bôi đẫm dầu cao Sao Vàng bên ngoài điếu thuốc và tiếp tục hút. Quốc hút thuốc và làm thơ từ thời còn là học sinh cấp III, hút hối hả và viết cần mẫn cho đến cuối đời. Là người trầm tính và luôn nghiền ngẫm, ở giữa mọi người, Bế Kiến Quốc thường lắng nghe và cần mẫn làm việc nhiều hơn là nói. Chỉ có lúc nào đó ngồi tri kỷ với bạn bè thân thiết, anh mới bộc lộ hết tâm trạng và những dự định, hoài bão của mình về văn chương và thời cuộc.
Tuy thành đạt sớm về thơ, nhưng Bế Kiến Quốc vẫn luôn là người khiêm nhường, lặng lẽ. Anh không thích những “tuyên ngôn” ồn ào về thơ ca có tính khoe khoang, phô trương hình thức. Bởi thật ra, kể cả về mặt lý luận, phê bình thơ lẫn sáng tác, trong nhiều năm Bế Kiến Quốc đã có hẳn một cái nền tri thức rất cơ bản, phong phú về nhiều mặt. Anh tự bạch: “...Theo tôi, thơ có giá trị là thơ phải nâng cao tâm hồn con người. Những nhà thơ thành công là những nhà thơ nói được tiếng nói của thời đại, của đất nước, chứ không phải những nhà thơ chỉ có “kỹ thuật cao”.