NHÀ VĂN NGUYỄN MỘT- NGƯỜI ĐI TÌM DÒNG SÔNG KÍ ỨC
Nhà văn Nguyễn Một
Với dân vùng tây Duy Xuyên, núi Chúa là ngọn trấn phong. Những người đi biển ở Cù lao Chàm, khi trời quang mây mà mất phương hướng, cứ lấy núi Chúa làm điểm đến. Giáo sư Trần Quốc Vượng từng viết: Từ Cù lao Chàm, kẻ một đường thẳng, ta sẽ gặp Mỹ Sơn. Mỹ Sơn ở ngay dưới chân núi Chúa. Đó là thung lũng thần linh.
Lũng thấp ấy, ngôi làng ấy có tên là A Đông. Trong tiềm thức của bà con làng này, thì ở đây nhiều gió, bởi núi bao bọc, gió sà xuống và bốc lên như trong truyền thuyết với những câu chuyện về loài chim dữ lao xuống, kẹp hai chân bất kì con vật nào mà nó thích, nó thù ghét, rồi bay mất dạng. Người ta gọi gió đó là ma rốt rốt với ám ảnh kinh hoàng. Ma đi kèm với những huyền tích, những câu chuyện lúc nửa đêm, tảng sáng, chiều muộn, lời người kể quyện trong sương và thâm u cây rừng, khiến ta đủ sợ đến mức kính cẩn. Sống ở nơi như thế, con người trở thành một vật truyền nối đất và trời, ma và điều linh thiêng, tự họ sẽ sắp xếp cuộc đời mình để tương thích, tựa vào giấc mơ mà sống. Và như là phép biện chứng ở đời, tôi vẫn tin rằng, những kẻ quẫy đạp chào đời ở chốn như vậy, nếu bứt ra khỏi “quê chốn tôi xưa”, dứt khoát sẽ thương tật tâm hồn vĩnh viễn. Nhà văn Nguyễn Một, kẻ lữ hành ra đi từ cái làng nghèo sỏi đá A Đông, là một người như thế.
Kẻ sáng tạo luôn phải có từ tiền kiếp cơn đau hành hạ, phải cô đơn đến tận cùng thì mới bật ra chữ nghĩa, như con chim yến va đầu vào vách đá, thổ ra huyết để trở thành báu vật. Trong trí nhớ của Hai Chơi, anh rể của Nguyễn Một, vùng đất này là niềm kinh sợ bởi gió, ma, và bom đạn. Hồi chiến tranh, đây là vùng tranh chấp, đánh nhau tưng bừng. Con đường dẫn vô Mỹ Sơn bây giờ, ngày xưa pháo suốt ngày, từ An Hòa chụp xuống, hạm đội ngoài biển nện vào, Ái Nghĩa quăng qua. Không ai sống nổi, phải chạy vào khu dồn, ở dưới đồn 45, cực khủng khiếp! “Thằng Một không cha mẹ, anh em ruột cũng không, mình là anh rể, thì cứ coi nó là em ruột mình”. “Nó tội nghiệp. Cha mất khi còn trong bụng mẹ. Được ba tuổi thì mẹ mất. Thì chiến tranh mà”. Chiến tranh, chính chiến tranh, đã găm nhát dao xuống gia đình, vào đời Nguyễn Một. Và chúng ta không khó nhận ra điều đó khi đọc những sáng tác của anh.
Trong trí nhớ của bà Trần Thị Hát, đứa cháu ruột của mình, số phận bi đát. Bà đã 87 tuổi rồi, nhưng chuyện ngày đó, như còn hiển hiện trước mắt. Anh em tám người, chết hết còn mình bà. Bà là chị của cha Nguyễn Một. “Hắn chết cha rồi chết mẹ, tên mẹ hắn đặt là Trần Viết Sanh, phía ngoại nuôi hắn, hắn ở với bà ngoại, rồi ở với cậu ruột, cậu hắn đi lính lấy tên Nguyễn Một để lãnh lương, rồi hắn lớn lên có cái tên đó luôn. Chiến tranh mà, ở với ai cũng được, họ tên chi cũng được, giữ được mạng sống là quý rồi”. Giọng người đàn bà quê, khi nói về những đau thương mất mát, nghe đến là chua xót nhưng nhẹ tênh.
Không phải cơn gió lốc xoáy, hay gọi là ma rốt rốt đã bốc Nguyễn Một ra khỏi ngôi làng này, mà chính chiến tranh đã ném anh vào vòng lao lửa, và người thân đã dìu anh đi qua cơn đau. Trong tiểu thuyết Đất trời vần vũ, anh nói về người cậu ruột, đó là ân nhân đời anh, thay mẹ nuôi dưỡng anh, dạy anh thành người. Chính người này đã rèn anh thành người đàn ông không bao giờ biết quỳ, đã gieo vào tuổi thơ dữ dội của anh ý chí làm người, phân minh trắng đen, dạy anh cái lí ở đời, cái thái độ sống nhân hòa nhưng ngay thẳng.
Tuổi thơ mưa nắng theo cậu vào rừng làm củi, chạy ra Hòa Khánh vì quá ác liệt, đi học, bán cà rem, biết bao cực khổ siết vào tấm thân thơ dại. Trong bút kí Thúng quà quê đăng lần đầu trên Văn nghệ Quân đội, Nguyễn Một đã dành hết tình thương, sự trân quý, biết ơn với chị Huỳnh Thị Sắt. Anh kể, sống ở Hòa Khánh, cuối tuần cuối tháng lại ngóng chị. Chị là chị con dì, nhưng coi nhau như chị em ruột. Mất mẹ, anh tựa vào chị, coi chị như mẹ. Những trưa nắng đổ lửa, bóng chị liêu xiêu với thúng tre trên tay, trong thúng là bánh tổ, là xôi đường, là chuối, những thức quà quê đong đầy tình thương.
“Hồi đó thằng Một còn có tên là thằng Xít, xanh và yếu như tàu lá, ốm nhách, cứ tưởng gió mạnh là nó bay. Trước ngày giải phóng, cậu cháu lên tàu di tản, cả chục năm không có tin chi, tưởng chị em không còn thấy mặt, chị khóc hết nước mắt. Cả chục năm sau, một bữa chị nghe con gái nói, hình như cậu Một về mẹ ơi, đang bắt cá ở mương đó! Nó mang đôi giày rách bươm, bước vào nhà, nói đi bộ mấy chục cây số dưới Nam Phước lên lội qua cầu chìm nước ngập tới lưng, chị em ôm nhau khóc. Không khóc sao được?” - chị nghẹn ngào kể.
Người đàn bà đi qua mưa nắng, một đời chân lấm tay bùn, khô quắt như cột thu lôi rút hết cực khổ vào mình. “Nhớ hồi nớ, nghèo đến mức chị làm đám cưới mà không có tiền mua cái nón lá đội, nhiều đêm nằm nghĩ, răng mà cực kinh, cực chưa từng dám nghĩ rứa. Một bữa, thằng Một ở Sài Gòn điện về báo vợ nó tai nạn. Thương em đứt ruột, chị chạy quanh xóm mượn được hai mươi ngàn gửi cho em, ra bưu điện gửi mà đứng khóc. Giờ nó làm ăn được rồi, mừng cho nó, nhưng nó tội lắm, về bao giờ cũng đi thăm hết bà con, tình cảm đủ đầy, lo lắng quan tâm em, cháu, chẳng khi mô nói mình giàu hay nghèo, làm chức chi.
Ở đây, cứ nói tào lao là chính, chẳng giận ai, ai khen cũng cười, chê cũng cười tào lao chi trợt rứa, mà cái thằng lạ đời...”. Chị kể tiếp chuyện cuối năm sửa sang mồ mả cha mẹ Nguyễn Một, mà chị quanh năm hương khói. “Tao làm xong hắn về đứng chỗ mả khóc chặp rồi vô nhà ăn hai ba bát mì với rau sống chuối cây...”. Nghe chị kể, bật cười mà thấm cái tình thương em lặn vô trong nỗi lo. Giọng chị thật thà, rằng hắn làm chi đó tau mô có biết, nghe nói tùm lum việc. Và khi được hỏi, rằng chị có biết mình từng là nguyên mẫu nhân vật văn học của Nguyễn Một không, chị lắc đầu, nông dân mà em, chữ nghĩa chi mô ai biết được, lo làm ăn cực thấy bà, hắn viết chi ai biết mô...
Nguyễn Một đã viết gì về quê xứ mình? Một người Quảng Nam tha hương, theo chân cậu khi còn thơ trẻ dạt về miền Đông Nam Bộ kiếm sống rồi lập gia đình. Cái khổ đeo đuổi chưa hết. Một buổi đi dạy, buổi kia đi bán cà rem, nuôi heo, trồng bông bán kiếm ăn độ nhật ở thời khốn khó. Và tôi vẫn cho rằng, Nguyễn Một nên cảm ơn văn học. Không phải nhờ văn học mà anh thành danh, mà là chính chữ nghĩa đã giúp anh trả nợ quê hương, trả nợ chính mình với tuổi thơ cay đắng nhưng không thiếu ngọt ngào.
Tản mát trong các truyện ngắn, bút kí của anh là nỗi nhớ quê, nhưng phải chờ đến tiểu thuyết, anh mới trải hết lòng mình. Đất trời vần vũ và Ngược mặt trời là sự trả ơn quê hương. Anh viết đề từ “Cám ơn quê hương độ lượng và u buồn”. Thường trực trong anh là câu thơ của Nguyễn Bính: Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay. Quê hương, có lúc nói thẳng dưới chân núi Chúa, có lúc nói gián tiếp qua những hoang tháp, những ruộng đồng bom cày đạn xới, những người thân yêu li tán xa khuất. Thủ pháp huyền ảo, sự pha trộn lúc kịch, lúc tiểu thuyết, lúc thơ, truyện ngắn… tạo dựng những hỗn độn nhưng khá rạch ròi trên cái nền của chiến tranh từ thuở mở cõi phương Nam đến thời đánh Mĩ.
Nhà thơ Miên Trường, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Chạc, người đẹp Ngân Hà, Linh Chi trong hai tiểu thuyết nói trên chính là những mảnh hóa thân của Nguyễn Một, lúc lộ, lúc ẩn. Đi tìm dòng sông kí ức, tìm quê mình, tìm tuổi thơ, tìm mẹ, tìm cha, tìm vẻ đẹp đã mất… Cứ đi, cứ trôi, bình minh hay hoàng hôn, quê nhà thảy như vô ảnh mà hiển hiện, lửng lơ. Quê đó có ma, có truyền thuyết giấu bí mật về thế giới nhung lụa, bạc vàng, nhưng hòn đá để mở cánh cửa vào thế giới đó đi liền với những lời nguyền rùng rợn, rằng con người sẽ phải trả giá kinh hoàng nếu để lòng tham chế ngự, chiếm đoạt thiện tâm. Những vẻ đẹp đã mất. Những tình yêu bị cưỡng chiếm. Sự trinh bạch bị chà đạp…
Nguyễn Một viết về chiến tranh, li tán, ma người lẫn lộn, máu chảy thành sông, ai oán ngút trời để rồi bật khóc. Anh viết về sự tàn bạo nhưng không oán hờn mà chỉ là để giải mã cho những phi nhân, u tối của con người. Dòng sông cứ chảy và tác giả cứ đi tìm, để khai quật ở chính mình, một kẻ đã trải nghiệm thương đau nhưng được nuôi dưỡng bằng lòng nhân của quê hương đói nghèo. Chính quê hương đã dạy anh, đừng nên căm hận. Anh viết trong tiểu thuyết Ngược mặt trời: Có thể sai nhưng đừng ác, có thể ghét nhưng đừng hận thù. Rồi chính quê nghèo đã dạy anh rằng, nếu có nhà cửa tiền bạc, ngập trong nhung lụa, thì thế giới vật chất chính là con mồi quyến rũ đẩy người ta đến chỗ tha hóa. Vì thế, anh không ngừng tra vấn, lội ngược chính mình, rằng ta ở đây nhưng ta ở đâu. Muốn truy tìm bản thể, không cách nào khác, là quay lại nơi chính mình đã ra đi. Và như là lẽ tất nhiên, nơi đó là cha là mẹ, đau đến bật máu. Bố anh, một người nông dân hiền lành, một đêm bị nhóm người mang súng dẫn đi. Mẹ anh nghẹn tim biết rằng, vĩnh viễn từ đây mất chồng, thân phận con người trong chiến tranh như chiếc lá. Rồi bà sinh con trong buồn tủi, cô đơn. Một đêm trăng sáng bồng con chờ chồng, viên đạn đâu đó xuyên qua trán bà, để sau đó bà ngoại tìm thấy thằng bé nằm trên ngực mẹ đẫm máu... Làng Chạc Chìu trong tiểu thuyết Ngược mặt trời với hành trình đi tìm quê xứ của nhà nhiếp ảnh ấy, là Nguyễn Một sau hai mươi năm trở lại quê nhà, chỉ còn thấy mộ ba mẹ mình cỏ đã lên xanh.
Viết về quê hương, Nguyễn Một chưa một lần mặc cảm, than trách, mà luôn thấy ở đó nước mắt của lòng biết ơn, từ nguồn mạch sâu thẳm, đất mẹ đã dạy anh thành người. Hình tượng tác giả trong văn Nguyễn Một là một người nông dân xứ Quảng tính khí ngang ngược, rạch ròi, trào lộng và nhân ái. Làng A Đông, núi Chúa trong anh vẫn là cành củi khô, là gánh than, là bụi sim rừng và khe nước đã sắp cạn, nhưng như con ma hời quấn quýt đuổi bắt, dễ gì buông bỏ. Ta là ai, ở đâu, luôn là ám ảnh hiện sinh, để anh kiến dệt câu chữ làm nên cả gần chục đầu sách của mình.
Nguồn: Văn nghệ Quân đội