Thời sự văn học nghệ thuật

13/8
6:11 AM 2018

THƠ CHỌN CỦA 7 NHÀ THƠ VIỆT NAM VÀ 6 NHÀ THƠ ĐÀI LOAN TRONG GIAO LƯU VĂN HỌC VIỆT NAM-ĐÀI LOAN TẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM

Ngày 13.8. 2018 tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam ở Hà Nội đã diễn ra cuộc giao lưu thơ văn Việt Nam – Đài Loan giữa các nhà văn VN và đoàn học giả và tác gia văn học tiếng Đài gồm các thành viên của: Hội Nhà văn Đài Loan, Hiệp hội Văn hóa Việt Đài, Hiệp hội Chữ Latinh Đài Loan, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam (Đại học Quốc gia Đài Loan), đến thăm và làm việc với Hội Nhà văn Việt Nam.

                                        Các nhà thơ Việt Nam và Đài Loan tham gia buổi giao lưu văn học- ảnh Hữu Đố

Hai bên cùng nhau thảo luận về phương hướng hợp tác sáng tác, dịch thuật tác phẩm văn học trong tương lai. Cùng ngày, diễn ra lễ ra mắt hai cuốn sách mới và giao lưu đọc các bài thơ tiêu biểu của các tác gia Việt Nam và Đài Loan. Cuốn sách thứ nhất ra mắt là “Truyện các anh hùng Đài Loan: Quyết chiến Siraya”. Đây vốn là cuốn kịch bản vở rối cạn Pồ-tề-hì, một loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian của Đài Loan, được viết bằng tiếng Đài Loan. Cuốn sách đã được dịch giả Lù Việt Hùng chuyển ngữ sang tiếng Việt, Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản. Đây là lần đầu tiên, một tác phẩm văn học Đài ngữ được dịch sang tiếng Việt và sự kiện này đã đặt nền móng đầu tiên cho sự giao lưu văn học giữa Việt Nam và Đài Loan.

Điểm nhấn của chương trình là phần biểu diễn một số trích đoạn trong vở rối nêu trên do Đoàn nghệ thuật múa rối của nghệ nhân Vương Nghệ Minh đảm nhiệm. Trưởng ban thư ký Hội Nhà văn Đài Loan, kiêm trưởng đoàn giao lưu lần này, ông Tưởng Vi Văn cho biết: “Nghệ thuật múa rối cạn Pồ-tề-hì là nghệ thuật biểu diễn dân gian mang tính đặc trưng của văn hóa và xã hội Đài Loan. Hiện nay, ở Đài Loan, loại hình này vẫn lưu hành rộng rãi và phát triển mạnh mẽ. Loại hình nghệ thuật này rất giống với nghệ thuật biểu diễn múa rối nước của Việt Nam. Chúng tôi hy vọng người Việt Nam khi xem chúng tôi biểu diễn, sẽ hiểu thêm về văn hóa Đài Loan.”

Cuốn sách thứ hai được giới thiệu ra mắt là “Đi ngang thế gian”, tuyển tập thơ của nhà thơ Trần Nhuận Minh. Tuyển tập thơ này được chọn lựa kỹ lưỡng từ khâu tuyển chọn, biên tập và xuất bản. Điều đặc biệt nhất là tuyển tập thơ này được phiên dịch sang Đài ngữ và trước đó đã được dịch sang tiếng Hoa ngữ ở Bắc Kinh, đồng thời được xuất bản và phát hành tại Đài Loan. Đây là tuyển tập thơ đầu tiên của Việt Nam được giới thiệu tới bạn đọc Đài Loan.

Cuối chương trình là phần giao lưu thơ văn của hai bên. Các nhà thơ lần lượt đọc một số bài thơ của mình và trao đổi về những vần thơ đẹp. Những bài thơ này đã được chọn lựa và dịch song ngữ. Các nhà thơ đại diện của Việt Nam gồm có Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Vũ Quần Phương, Y Phương, Trần Ninh Hồ, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Đức Mậu. Các nhà thơ Đài Loan gồm có Trần Minh Nhân, Trần Chính Hùng, Tưởng Vi Văn, Cao Nguyệt Viên, Tưởng Nhật Doanh.

THƠ CHỌN CỦA 7 NHÀ THƠ VIỆT NAM VÀ 6 NHÀ THƠ ĐÀI LOAN ĐỌC TRONG BUỔI GIAO LƯU

 

 

 

HỮU THỈNH

 

THƠ VIẾT Ở BIỂN

 

Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em...

 

NGUYỄN QUANG THIỀU

 

Hồi tưởng tháng Giêng

 

 

Trong chiếu chăn ẩm ướt

Mơ con đường hoa tầm xuân

Chạy qua nghĩa địa

 

Đã tản mát đồ cúng lễ đầu năm

Một bà già ốm dậy

Hé cửa cảnh giác nhìn

 

Chạy trốn trong chính bộ lông mình

Con chó mơ một ngày

Sang tận bên kia đường viền ánh sáng

 

Hy vọng đổ vô hồi

Vào tháng Giêng câm tiếng

Nhưng mùa xuân vẫn còn giấu mặt

Chỉ thả ra một cánh bướm thăm dò

 

Vào một ngày cuối Giêng

Người hàng xóm goá chồng

Trở về từ nghĩa địa

Cắm đầy hoa tầm xuân trong phòng ngủ của mình.

 

January Reminiscence

 

In a blanket of mist

A row of wild roses   

Stretches a path to the village cemetary.

 

New Year’s offerings almost gone,

An old vllage woman rises from her bed,

Opens her door and looks anxiously out.

 

In the garden a solitary dog crouches in its stiff coat,

Dreams of the time

It may travel beyond the borders of light.

 

Again and again, hope pours itself out

Into January’s cold silence.

Spring veils its face, sends a butterfly searching.

 

The last days of the year,

A village widow returns from the cemetery,

Sets a bouquet of wild roses down by the bed.

 

 

VŨ QUẦN PHƯƠNG

 

 

Những cánh diều không bay

 

 

Những cánh diều vướng trên dây điện

Giấc mơ bay dừng lại nửa chừng

Mùa đang gió, trời đang rộng thế.

 

Những chú nhỏ đòi gì cũng được

Lần đầu tiên bất lực nhìn lên

Đôi tay xuôi như lá im lìm

 

Những chú nhỏ thở dài, vĩnh biệt

Giấc mơ bay treo ở lưng trời

Giấc mơ khóc cùng mưa tháng chín:

 

Những chú nhỏ kia đã lớn rồi !

 

8-1-1988

 

 

 

Y PHƯƠNG

 

MÙA HOA

 

Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Ðủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi
 

Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ.

 

 

 

NGUYỄN VIỆT CHIẾN

 

 

CẨM THẠCH VÀ CỎ XANH

 

1

 

Bức tượng ấy được dựng bằng cẩm thạch

Mắt xa xôi người góa phụ buồn rầu

Giai điệu xám ngân rung trong đá lạnh

Những nốt trầm mặc tưởng nữ nhân đau

 

Cũng đá này, người tạc cánh chim câu

Cánh khao khát đập qua bao thế kỷ

Trên bóng đêm chiến tranh đục ngầu

Tự do trắng bay lên không tàn phế

 

Cũng đá ấy được tạc thành bia mộ

Nhạc khúc buồn tưởng niệm một thời qua

Những họng súng hành trình cùng bão tố

Máu của người và khói đạn chiến xa

 

Hỡi cẩm thạch xin đừng là bia mộ

Tuổi xuân người đâu chỉ máu và hoa

2

 

Cỏ từ đất và lưỡi lê trên đất

Những gót giầy xâm lược cắm toàn đinh

Rơi từ mắt và cháy lên từ mắt

Giọt lệ đen, ngọn lửa rực hờn

 

Nhưng cỏ biếc không chỉ là nước mắt

Chảy trên mình trái đất những dòng xanh

Bị nghiến nát ở dưới vòng bánh xích

Những xe tăng và đại bác tự hành

 

Những con người gục ngã giữa chiến tranh

Giờ cỏ đã rờn xanh trên ngực họ

Dẫu ngày xưa lưỡi lê và giày đinh

Bước khốc liệt họ xéo dày lên cỏ

 

Hỡi những ai đã yên nằm dưới mộ

Cỏ bốn mùa xanh một khúc ru

Hỡi những ai chưa phải nằm dưới đó

Đừng làm đau một ngọn cỏ bao giờ

 

NGUYEN VIET CHIEN

 

MARBLE AND GREEN GRASS

 

1

That statue is erected from marble

The widow is so sad,her eyes are distant

Grey melodies tremble in the cold stone

Low notes souldịn quiet remembrance of the woman in pain

 

With the same stone,people carve dove’s wings

Wings beat with longing over the centuries

On the night shadow of the muddy war

White freedom rises without disability

 

With the same stone,we carve the gravestones’ head

Sad melodies remember passing time’s death

The guns’muzzles and storms journey together

People’s blood and the far-away bullet smoke

 

Please marble,don’t become gravestones’heads

People youth doesn’t only have flowers and blood

2

Grass from the earth and bayonets on the earth

The invading shoe heels stuck with hobnails

Fallen from the eyes and burning from the eyes

Black tears,resentment burns a fire

 

But emerald grass isn’t only tears

On the earth’s body the green streams flow

Crushed and destroyed under the wheel chains

Of the self-propelled tanks and canons

 

People who fell during the war

Now the grass has greened on their chests

The grass they tramped on in the past

With their bayonet and hobnailed boots

 

Oh all those who are resting under the graves

Four seasons of grass sing one lullaby

Oh all those under the earth – they haven’t lied

Please never hurt a blade of green grass

(Ngườidịch: NguyễnPhanQuế Mai vàEdwad Tick)

 

 

TRẦN NINH HỒ

 

VIẾNG CHỒNG

 

 

- Chị ơi!

Chỉ gọi được thế thôi

Anh chiến sỹ đưa đường bỗng thấy nghẹn lời

Không làm sao anh còn nói nổi:

Chị đặt hoa nhầm rồi

Mộ anh ấy ở bên tay trái

Chỉ có một vòng hoa chị mang từ quê lại

Hoa viếng mộ bên này đã có chúng tôi!

 

- Chị hiểu ý em rồi

Xin cho chị đặt hoa bên mộ đó

Cả cánh rừng chỉ có hai ngôi mộ

Viếng mộ anh có chị đến đây rồi.

 

 

NGUYỄN ĐỨC MẬU

 

Bảy vầng trăng khuyết

 

 

Binh trạm Trường Sơn năm đánh Mỹ

Có bảy người con gái trúng bom

Đám tang họ không ai đưa tiễn

Giữa rừng chiều ngổn ngang núi non

 

Những khuôn mặt lấm lem không bàn tay vuốt mắt

Bảy chàng trai của các cô đâu?

Bảy chàng trai trong chiến tranh khốc liệt

Sao biết được người yêu mình đã chết?

 

Không tiếng mẹ gọi tên con khản giọng

Tên các cô lạc vào hoa, hoa cũng nát nhàu

Da thịt các cô lẫn vào da thịt đất

Người chết và người chết tiễn đưa nhau

 

Bảy chàng trai là ai, ai biết?

Nhưng nhất đinh là có bảy chàng trai

Nếu không chiến tranh, họ đã thành đôi lứa

Như bao lứa đôi hạnh phúc trên đời

 

Bảy cô gái, bảy vùng quê xa lắm

Hố bom vùi hóa nấm mồ chung

Các cô chết giữa vùng đất chết

                     Cành cây cháy đen như bàn tay chới với của rừng

 

 Những lá thư tình, những manh áo mới

Bảy cô gái chết rồi chẳng kịp mang đi

Chết tuổi đang yêu, chết còn quá trẻ

Tuổi mộng mơ không kịp trối trăn gì

 

Đám tang vắng bảy chàng trai ấy

Vắng trắng hoa rừng, vắng nước mắt ngày ngâu

Bảy cuộc chiến tranh, bảy vầng trăng khuyết

Một nấm mồ chìm khuất rừng sâu...

 

 

 

 

          6 NHÀ THƠ ĐÀI LOAN

 

Con Sùng đất 

(Tưởng Nhật Doanh – Lù Việt Hùng dịch)[1]

 

 

Hàng chục triệu năm nay

Có đất mẹ che chở

Con sùng đất mềm yếu

Chẳng ai làm hại đến

Chẳng buồn cũng chẳng phiền

Đời đời qua kiếp kiếp

Mấy nghìn, mấy vạn năm

Vẫn Trải qua như vậy

 

Ngày nọ

Vô tình

Đất bị bới tung

Ánh sáng chói mắt chiếu xuống

Người đời bảo trời sáng

Biết đâu là tai ương

Đất mẹ nay không che nổi

Lương thiện nào thấy phúc báo

Người đời bảo trời sáng

Ngờ đâu kéo đến rặt ác điểu, bọ sâu

Thân sùng thành thức ăn

 

Chim đến ăn

Gà đến ăn

Đến ngay kiến bé tí

Cũng kéo nhau lại

Chục triệu năm nay

Con sùng đất mềm yếu

Không muốn làm hại ai

Cũng chưa từng hại ai

Nay

Bị coi là thức ăn

Chim đến ăn

Gà đến ăn

Đến ngay kiến bé tí

Cũng kéo nhau lại

 

Mau lớn nhanh đi

Hỡi sùng đất

Mau thành bọ cánh cứng[2]

Khoác vỏ cứng của ngươi

Ôm chặt lấy thân mình

Sâu bọ không hại được

 

Mau lớn nhanh đi

Hỡi sùng đất

Mau thành bọ cánh cứng

Đội những chiếc sừng nhọn

Mài cho thật sắc

Chống chọi với kẻ thù

 

 

 

Đấu giá Đài Loan xưa

 Ký sự Đông Môn Đinh

 

(Trần Minh Nhân– Lù Việt Hùng dịch)

 

 

Tiếp nữa... một đôi gối

Mời ra giá, đợi chút...

Ân ái qua hàng chục năm trời

Anh chị em tôi đều đã ra đời

Anh muốn trả bao nhiêu

Đây, nghe kỹ nhé

Một đôi gối cũ kỹ

Qua cuộc chiến tranh Đông Á

Qua những ngày hai tám tháng Hai

Này nước mắt gối chiếc đơn côi không ngủ

Này tuế nguyệt lúc hoang mang, rợn người

Nếm trải hết nỗi buồn và niềm vui của Đài Loan

Anh trả được bao nhiêu?

 

Ta chẳng phải nhà buôn

Hãy cùng kiếm tìm một thứ cảm xúc

Kết nối xưa và nay

Giống như chiếc đồng hồ

Cứ đi, cứ chạy

Lòng nhiệt tình làm dây cót

Đi qua lịch sử Đài Loan

Hãy cùng kiếm tìm một thứ cảm xúc

Kết nối ta và em

Như bề mặt gương kia

Hoa văn dù bạc màu

Vẫn rọi nỗi cô đơn

 

Đợi chút, chờ chút hãy trả giá

Đồng hồ đang chạy

Hồng nhan trong gương

Đã thôi màu

Thanh xuân có giá nào

Mới mua lại được

Lịch sử có giá nào

Mới đổi được nụ cười

Đêm nổi cơn giông gió

Cảnh đêm Đông Môn Kinh như xưa

Qua nỗi trống vắng của nhau

Ta đấu giá cảm xúc

Tấm chân tình Đài Loan xưa

Nào, xin mời trả giá

Tấm tình này, một cân giá bao nhiêu?

 

 

 

Thi sĩ cánh diều 

(Tưởng Vi Văn – Lù Việt Hùng dịch)

 

 

Thi sĩ đang bay

Từ khắp nơi trên thế giới quay tròn

Bay tới Hà Nội

Miếng ghép trong tay

Xếp thành một bức

Với tiếng mẹ cha và hòa bình

Viết nên

Bản đồ thế giới bằng thơ

 

Thi sĩ đang bay

Từ Thăng Long đến Hạ Long

Từ thành phố đến biển bờ

Áo dài như gương mặt em tươi sáng, ngọt ngào nhất

Giống như Phở và Nem

Cho linh hồn thi sĩ no nê không ngấy

 

Thi sĩ như cánh diều

Nơi cố đô Đài Nam ở Đài Loan

Kéo một sợi dây

Bay tới Hà Nội Việt Nam

Tận mắt thấy truyền thuyết Lý Thái Tổ và rồng bay

Tận mắt thấy mảnh đất này

Cuộc sống rực rỡ ánh cầu vồng

Những mầm non ngậm sương mai

Trong tiếng hát Quan Họ

Đang mạnh mẽ vươn lên

 

-- Tại Liên hoan Thơ châu Á - Thái Bình Dương lần thứ hai & Hội nghị quảng bá văn học Việt Nam lần thứ 3, Hà Nội, Việt Nam ngày 2/3-6/3/2015

 

 

Nhớ tiếng mẹ giọng cha 

(Cao Nguyệt Viên – Lù Việt Hùng dịch)

 

 

Tiếng nói, là

Cuộc sống của cha

Văn hóa của mẹ

Chúng con sinh ra từ đó

 

Đêm tối tĩnh lặng

Cha biết

Trăng dịu dàng

Mặt trời hiến ánh sáng vinh quang vẫn vậy

 

Gió thổi qua dòng sông lịch sử

Mẹ biết

Vui buồn có nhau

Lòng nhiệt tình khi nào sẽ ngơi nghỉ

 

Ruộng vườn, nay đã gieo hạt

Kỳ vọng khắp chốn nở hoa, chúng ta

Ngắm chim bay, đùa bướm lượn

Phồn hoa như mộng

Ai gặt hái, mồ hôi

Đừng để hoang phí

 

Tóc đen đã đượm màu hoa râm

Vô thường

Vết thanh xuân qua, tuế nguyệt

Chỉ còn trong cuốn nhật ký

 

Người trong gương

Đem lòng thương, cho người khác

Tình yêu, buộc ta lại với nhau

Cả đời.

6/12/2017

 

 

Thanh minh   

(Trần Chính Hùng – Lù Việt Hùng dịch)

 

Một năm mới gặp một lần

Bia mộ vẫn tỏ thái độ lạnh lùng

Cự tuyệt

Cản con lại gần

 

Cỏ trên mộ bố để lại cho con

Từng câu từng câu

Như tiếng lòng của bố

 

Thếp giấy trên mộ[3]... lá thư viết cho bố

Từng tờ từng tờ

Chứa đầy nỗi nhớ của con

 

Một năm mới một lần gặp bố

Thời gian vẫn vậy

Vô tình

Nói

Về thôi!

 

 

 

 

[1]Con sùng đất là ấu trùng của bọ cánh cứng, toàn thân mềm, chỉ có miệng cứng, gà rất thích ăn, ngay cả những con kiến bé cũng kéo đến khiêng về.

[2]Con bọ cánh cứng thường đục lỗ từ dưới phân trâu bò khô, vậy nên người đời thường gọi là rùa cứt trâu (con bọ hung)

[3]Trong lễ Thanh Minh, người ta đặt một tờ hoặc thếp giấy màu lên mộ, để chứng tỏ là mộ phần có chủ và được tu sửa hoặc làm sạch cỏ.

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *