VanVN.Net - Khoan hãy nói đây là bản dịch hay, hay dở. Nguyên một công sức, một nhiệt huyết trong tình yêu với áng văn cổ nước nhà của Vương Trọng đã là điều đáng kể, nhất là giữa thời buổi ly tâm và nếu không nói về hiện đại, hậu hiện đại thì e rằng lỗi nhịp. Nhưng dịch giả lại dùng thể lục bát thuần, chứ không song thất lục bát là thể dường như còn cần nương tựa vào Đường luật như dịch giả trước. Điều này lại cho thấy một tình yêu tiếng Việt sâu sắc của Vương Trọng, một sự phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt kể từ thời bà Đoàn Thị Điểm đến giờ. Xin ghi nhận và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc…
TÔI DỊCH LẠI CHINH PHỤ NGÂM
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là tác phẩm thơ chữ Hán xuất sắc trong Văn học cổ điển nước ta. Từ xưa đến nay đã có nghiều người dịch ra quốc âm, trong đó bản dịch của Đoàn Thị Điểm ( hay của Phan Huy Ích?) là bản dịch thông dụng nhất (BDTDN), xuất sắc nhất. Cái hay của bản dịch này vượt trội so với các bản dịch khác, vì thế, nhiều bạn đọc chỉ biết duy nhất bản dịch này. Sự xuất sắc của BDTDN là một thực tế, được nhiều nhà giáo, nhà phê bình phân tích, ở đây cho phép tôi không nói tới. Tuy nhiên, đối với bạn đọc ngày nay, bản dịch này cũng có một số câu không rõ nghĩa, khó hiểu, vì có khi dịch giả dùng nguyên một số từ Hán Việt, có thể không có điều gì bất cập với bạn đọc ngày xưa, nhưng lại gây trở ngại với ngày nay, ví như:
Hãy tính lại diễn khơi ngày ấy
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Khuê ly mới biết tân toan dường này…
Diễn khơi, lâm hành, đăng đồ, khuê ly, tân toan… là những từ Hán Việt không dễ hiểu với hầu hết bạn đọc ngày nay.
Tôi có đứa cháu gái là giáo viên văn của một trường chuyên . Cháu ao ước có một bản dịch Chinh phụ ngâm mà không phải chú thích những phần không thuộc điển tích như mấy từ Hán Việt kể trên. Hãy đợi đấy! Tôi đã hứa với cháu, và đây là bản dịch của tôi theo thể thơ lục bát. Có thể bản dịch này còn nhiều hạn chế, nhưng tôi tin khá sát nghĩa với nguyên bản và chắc rằng cũng dễ hiểu hơn trong nhiều trường hợp.
CHINH PHỤ NGÂM
Đặng Trần Côn
Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng
Cao xanh hỡi, biết hay không
Trần gian bao chuyện đau lòng, ai sinh?
Trăng rung nhịp trống Tràng Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây
Vua chống kiếm, đứng lên ngay
Tướng quân nhận gấp hịch này, nửa đêm
Áo nhung quan võ khoác lên
Hết ba thế kỷ ấm êm, thanh bình
Cửa triều giục sớm khởi hành
Người vì việc lớn, nhẹ tênh chia lìa
Cung tên lưng khoác chỉnh tề
Vợ con theo tiễn não nề giọt châu
Cờ bay phần phật ải sầu
Thùng thùng trống oán giục đau biệt nhà
Oán vì đôi lứa chia xa
Nuốt sầu, ước hẹn ngày ta trùng phùng
Chàng hai mươi tuổi, con dòng
Bút nghiên xếp lại, đao cung sẵn sàng
Đoạt thành dâng Chuá – ý chàng
Muốn đem lưỡi kiếm chém ngang giặc này
Lấy da ngựa bọc chí trai
Thái Sơn tay nhấc nhẹ thay lông hồng
Chiến chinh, xa chốn khuê phòng
Gió ào cầu Vị, roi vung hành trình
Đầu cầu Vị nước thanh thanh
Bên bờ nước chảy cỏ xanh biếc đường
Tiễn chàng lòng thiếp buồn thương
Giận không bằng ngựa theo chàng đường đi
Thua thuyền, theo nước chuyển di
Nước trôi thế ấy ước gì sầu tan!
Cỏ thơm, sầu vẫn muôn vàn
Cầm tay chàng nói chứa chan những lời
Bước đi, níu áo chẳng rời
Theo chàng, lòng thiếp sáng ngời vầng trăng.
Lòng chàng chiến trận dõi trông
Buông ly rượu tiễn, gươm vung múa rền
Chỉ hang hổ, giáo vung lên
Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan
Như Mã Viện ở khe Man
Áo chàng ráng đỏ theo làn gió bay
Ngựa chàng lông tuyết đẹp thay
Hoà trong trống trận ngựa này rung chuông
Gần nhau, chốc đã chia đường
Chia đường ở chốn Hà Lương lạnh người
Lề đường thiếp đứng bồi hồi
Lề đường thiếp ngửng nhìn trời cờ bay
Tiền quân Tế Liễu rồi đây
Hậu quân còn ở nơi này Tràng Dương
Ngựa đưa chàng tới biên cương
Biết chăng lòng thiếp đoạn trường, tái tê
Người đi, nhạc tiễn vọng về
Cờ đưa quân tiến mấy bề bóng loang
Trông mây biết thiếp xa chàng
Quay về nhìn núi ngổn ngang nhớ, buồn
Chàng đi nắng dãi, mưa dồn
Thiếp thì về lại cái buồng đêm qua
Quay đầu nhìn lại – hai ta
Một vùng núi biếc la đà mây vương
Chàng vời trông thiếp, Hàm Dương
Thiếp buồn từ chốn Tiêu Tương vọng chàng
Cây Hàm Dương, khói Tiêu Tương
Hai nơi hai xứ, dặm đường xa nhau
Cùng nhìn, cùng chẳng thấy đâu
Chỉ xanh xanh những hàng dâu bên đường
Dâu bên đường gợi buồn thương
Thiếp, chàng ai chịu đoạn trường hơn ai?
Chàng đi mưa gió cõi ngoài
Đêm trăng không biết đâu nơi nghỉ dừng?
Xa xôi ngàn dặm chiến trường
Không nhà, không cửa lẽ thường xưa nay
Gió phang, tiều tuỵ mặt mày
Nước sâu rúm vó ngựa hay phải chờn
Chinh phu bãi cát làm giường
Bên đường hổ báo, đêm thường ngủ say
Bạch Thành, Hán chiếm sớm nay
Còn vùng Thanh Hải sáng mai Hồ rình
Thấp cao Thanh Hải núi xanh
Suối trong trước núi hiện hình sau cây
Lên cao, đầu tuyết phủ đầy
Xuống khe phút chốc ngập ngay bụng rồi
Thương thay lính trận bao người
Lòng quê ủ rũ khi ngồi nhớ mong
Quân vương trướng gấm biết không
Chinh phu vất vả, đau lòng vì ai?
Bàn chân đặt bước hôm mai
Khi trong Hãn Hải, khi ngoài Tiêu Quan
Mưa dầm, hổ dữ, rắn đàn
Ngủ sương, ăn gió dung nhan thảm sầu
Nhìn mây khi bước lên cao
Làm sao dẹp nhớ, làm sao khỏi buồn?
Chàng đi về phía đông nam
Trận nào chàng dự, thiếp làm sao hay?
Biết rằng chinh chiến xưa nay
Mạng người như thể cỏ cây, chẳng gì.
Ơn vua ấm dạ mang đi
Trải qua lắm chốn hiểm nguy, khó tồn
Trăng soi mộ cũ Kỳ Sơn
Bến Phì mộ mới gió than canh trường
Khóc hồn tử sĩ bi thương
Mang mang phủ ánh trăng suông mặt người
Chinh phu khi đã lìa đời
Không ai tô mặt, không ai gọi hồn
Thương ai đền nợ nước non
Người đi qua đó chạnh buồn tái tê
Ban Siêu đầu bạc lại quê
Mấy ai chinh chiến trở về xưa nay
Cõi ngoài chàng sống dạn dày
Kiếm dài, yên ngựa đêm ngày kề bên
Gió thu, bãi cỏ từng quen
Tên vèo trước ngựa, quan san trăng đầy
Trên thành gíao phóng, đạn bay
Công danh lận đận biết ngày nào ngơi?
Khổ, nhàn khó nói nên lời
Thiếp, chàng: khung cửa, chân trời biệt nhau
Cửa này, phận thiếp từ lâu
Bình sinh chàng có phải đâu chân trời?
Tưởng rằng cá nước sánh bơi
Ngờ đâu nên nỗi xa vời nước mây!
Thành chinh phụ, thiếp không hay
Ý chàng chẳng muốn một ngày vương tôn
Vì sao cách trở núi non
Để cho sớm tối sầu tuôn nối dài?
Phong lưu, tuổi trẻ chàng ơi
Gái khuê phòng, thiếp xứng đôi với chàng
Thương thay đôi lứa tròn trăng
Đôi nơi cách trở nói năng được gì?
Nhớ ngày biệt thiếp chàng đi
Liễu vườn bóng dáng hoàng ly chưa về
Hỏi chàng ngày trở lại quê
Chàng rằng : khi cuốc gọi hè, gặp nhau
Hoàng ly, chim cuốc qua lâu
Ý nhi đã hót trước lầu liễu xanh.
Biệt chàng buổi ấy nhìn quanh
Gió đông chưa đến rung cành mai kia
Hỏi chàng, chàng hẹn ngày về
Khi hoa đào nở trên quê đỏ hồng
Nay đào tàn tạ gió đông
Mai già nở với phù dung bờ này
Chàng hẹn thiếp: đến Lũng Tây
Giữa trưa chẳng thấy bóng ai, hút tầm
Chỉ nghe lá rụng chạm trâm
Chim kêu, người đứng khóc thầm, mà thương.
Chàng hẹn thiếp: cầu Hán Dương
Hết ngày nào thấy bóng chàng, chàng ơi
Gió bay cuốn áo không thôi
Nước sông dâng, nước mắt rơi đầm đìa.
Năm xưa nhắn nhủ chàng về
Năm nay nhắn gọi rằng quê đang chờ
Tin về, người vẫn rằng chưa
Hoa dương rụng xuống nằm hờ rêu xanh
Rêu xanh loang nỗi buồn tênh
Dạo sân lòng nghĩ quẩn quanh, bộn bề
Thư chàng năm ngoái hẹn về
Năm nay lại hẹn, hẹn gì chàng ơi?
Thấy thư mà chẳng thấy người
Rèm treo tịch mịch một trời tà huy
Tà huy nối bóng chiều đi
Mười lần chàng hẹn, chín thì sai ngoa.
Từ ngày chàng bước chân ra
Lá sen non nhú đã ba lần rồi
Sinh ra khổ nhất trên đời
Biên cương, lính thú tháng dài, năm qua
Lính đồn, lính ải biệt xa
Ai người chẳng có mẹ cha mỏi mòn
Mấy ai không có vợ con
Cớ sao biền biệt héo hon thế này?
Mẹ chàng tóc ngả màu mây
Con chàng đang tuổi thơ ngây bế bồng
Mẹ chàng tựa cửa vời trông
Con thơ đợi bữa, cầm lòng sao đây?
Nuôi mẹ già, thiếp hoá trai
Dạy con suốt tháng năm dài, làm cha.
Một thân gánh vác việc nhà
Đêm nằm thao thức xót xa nỗi chàng
Nhớ chàng năm hết, năm sang
Nhớ chàng tàn lụi thời gian đợi người
Chàng xa ba, bốn năm rồi
Trăm, nghìn, vạn nhớ đắp bồi thiếp đây
Sao gần chàng được một ngày
Để chàng thâú tỏ nỗi này chàng ơi
Chiếc thoa – đồ cưới một thời
Tấm gương in bóng hai người cùng soi
Nhờ ai gửi được tới nơi
Để chàng hiểu thiếp không nguôi nhớ đầy
Còn đây, chiếc nhẫn đeo tay
Từng quen nhìn ngắm những ngày bên nhau
Nhỏ nhoi chiếc ngọc cài đầu
Đồ chơi thuở bé, từ lâu với người
Nhờ ai gửi được tới nơi
Chắc chàng ở chốn quê người nâng niu.
Năm xưa tin tức ít nhiều
Năm nay âm tín vắng teo thế này!
Mong thư khi thấy nhạn bay
Nghe sương nặng hạt khâu dày áo bông
Gió tây, chẳng thể gửi cùng
Tuyết, mưa biên ải một vùng chan chan
Tuyết, mưa lạnh cả trướng màn
Xót người tuyết núi, mưa ngàn xông pha
Phong chữ gấm, lại mở ra
Bói tiền tin dở thấy mà không tin
Một mình đứng lặng trong hiên
Bao lần chập choạng bóng đêm loang dần
Bơ phờ tóc rối lặng nằm
Bỏ quên bao độ trăng rằm ngoài kia
Nào hay là tỉnh hay mê
Bàng hoàng, ngây ngất ra bề rượu say
Vui , buồn chẳng thể nào hay
Ngơ ngơ, ngác ngác như ngây, như khờ
Trâm nghiêng, tóc rối – thờ ơ
Lưng gầy, quần lỏng – bao giờ biết chi
Hiên nhà ngày lặng lẽ đi
Đêm đêm cuốn , rủ rèm tre âm thầm
Ngoài rèm chim thước chẳng thăm
Trong rèm đèn biết được tâm tư này!
Đèn ơi đèn biết chi đây?
Chỉ riêng một thiếp lòng đầy sầu bi
Lặng sầu chẳng nói năng chi
Hoa đèn, bóng thiếp nặng vì buồn thương
Gà đua nhau gáy canh trường
Bóng hoè đêm phất phơ buông quanh nhà
Mối sầu như thể bể xa
Khắc qua lòng những tưởng qua năm dài
Muốn theo hương khói lên trời
Soi gương lệ ngọc thầm rơi thành dòng
Gượng đàn, đàn gảy chẳng xong
Lòng này muốn mượn gió đông gửi chàng
Chiến khu gửi đến được chăng
Giúp ta, ta trả ngàn vàng gió ơi
Nhớ dài như thể lên trời
Trời cao vô tận, không nguôi nhớ chàng
Người sầu đối cảnh buồn thương
Lá xanh sương dập, tiếng trùng mưa chan.
Liễu dương sương bổ héo tàn
Mưa như cưa sắt cưa ngang ngô đồng
Sương rơi, tiếng dế não nùng
Trăng thanh, xa vẳng tiếng chuông mấy hồi
Gió lay tàu chuối không thôi
Khe màn gió lách, gió chui vào nhà
Trên rèm bóng nguyệt, bóng hoa
Trăng thanh, hoa nở thiết tha lòng người
Nghìn sự biếng, vạn sự lười
Dệt thêu bướm cặp, oanh đôi – chẳng màng!
Mặt mày thiếp ngại điểm trang
Suốt này tựa cửa, nói năng ngại lời
Suốt ngày tựa cửa chàng ơi
Xa chàng trang điểm vì ai lúc này?
Chàng đi cách trở núi mây
Một thân thiếp ở nơi đây đợi chờ
Khác nào Chức Nữ, Hằng Nga
Sông Ngân, Cung Quảng xót xa, lạnh buồn
Sầu làm gối, muộn làm cơm
Rượu, hoa đến giải càng đơm muộn, sầu.
Muộn, sầu nguồn khổ, gốc đau
Muộn, sầu thôi thúc người mau lìa đời
Gỗ sênh lạc tiếng, lệch hồi
Ôm đàn chưa gảy đã rời đàn ra
Gian nan quan ải chàng qua
Lệ theo tiếng cuốc tuôn ra ướt đầm
Trống tiều nhói đến tận tâm
Chia ly cay đắng bào thân yếu mềm.
Đắng cay vò xé ngày đêm
Đắng cay hành hạ triền miên, vì chàng
Vì chàng dòng lệ chứa chan
Vì chàng thiếp lẻ chiếc thân ôm sầu
Nơi chàng, thiếp đến được đâu
Khăn chàng, lệ thiếp làm sao lau giùm?
Duy nhờ cõi mộng đến cùng
Đêm đêm lần tới bãi sông vì người
Tìm chàng ở chốn Dương Đài
Gặp nhau Tương Thuỷ vui vầy mộng xuân
Mộng tan, luyến tiếc vô ngần
Mộng ơi, thân chẳng được gần với nhau!
Hư không, mộng hão qua mau
Chỉ riêng lòng thiếp trước sau vẹn toàn
Trước sau vẫn chẳng xa chàng
Mênh mông trời đất, tấc gang cõi lòng
Lên cao mấy độ vời trông
Bóng chàng sao vẫn mịt mùng phương nao?
Cỏ yên, tần trắng, ngàn dâu
Xóm thôn bụi nhuốm nửa màu nam phương
Chiều hôm nhạn đậu bãi bằng
Đường ghềnh quán khách, ngóng chàng vắng tanh
Một vùng mây biếc, cây xanh
Màu trời chen sắc thanh thanh núi đồi.
Lúa ngô lấn nửa thành rồi
Bắc phương sáo trúc vẳng lời trong mưa
Ngóng chàng chẳng thấy, ngẩn ngơ
Thấy cây rụng lá vàng khô trên đồi
Ơ kìa, chim trĩ bay đôi
Bờ sông mưa xuống ngàn mai nở dày.
Phương đông ngưng tụ khói mây
Cánh chim bạt gió kêu đầy bi thương
Ngóng trông chẳng thấy bóng chàng
Thuyền xuôi, cánh nhạn bay ngang trên đầu.
Phương tây tùng tiếp ngàn lau
Người đi khuât bóng nương dâu xa mờ
Vọng nhìn bốn cõi, ngẩn ngơ
Lên lầu bao bận mà mơ bóng chàng
Mắt nhìn, mây núi che ngang
Biết đâu chiến địa Ngọc Quan chốn nào?
Gậy tiên rút đất có đâu
Khăn tiên dùng để bắc cầu cũng không
Là khi hoá đá nỗi lòng
Lên lầu, lệ đã cạn dòng ráo khô.
Ngoái trông dương liễu xanh bờ
Hối vì đã xúi chàng mơ phong hầu
Chàng đi ngàn dặm xa nhau
Lòng chàng, lòng thiếp có đâu khác gì
Khác gì kẻ ở, người đi
Thiếp không oán thán điều chi ở chàng
Thiếp như một đoá hương dương
E chàng là ánh dương quang bầu trời
Ánh dương không biết phản hồi
Để cho tàn héo, tả tơi hoa này
Hoa vàng biết hướng về ai
Ánh dương đi bặt một hai không hoàn
Để cho tàn úa hoa vàng
Đêm sương rụng rắc miên man quanh tường.
Lan dịp hái, tần mùa hương
Trước nhà đêm vắng thiếp thường nhẩn nha
Ngửng nhìn bốn cõi trời xa
Khuê Tiền ẩn hiện, tỏ mờ sông Ngân
Mây bông lơ lửng xa gần
Chòm sao Bắc Đẩu nghiêng dần, nằm ngang
Ánh trăng chiếu đến tận giường
Có bao nhiêu gió qua tường đêm nay
Dung nhan ngày một héo gầy
Chàng ơi có tỏ những ngày tha phương?
Xưa, ta: hình, bóng như gương
Giờ, ta: cách trở Sâm, Thương thế này!
Nơi chàng, lưng ngựa phủ mây
Lối rêu hôm sớm dép, giày thiếp in
Gió xuân ít ghé vào hiên
Thiên nhiên đã sắp hết phen đẹp trời
Đẹp trời vàng tía sánh đôi
Ngưu Lang, Chức Nữ tái hồi dưới trăng
Thương thay thiếp chỉ phòng không
Ngày lành bỏ phí, lạnh lùng vắng nhau
Ngày lành vun vút qua mau
Tuổi xuân, thời trẻ trôi đâu kém gì
Lo xuân hết, buồn thu đi
Sum vầy chỉ một, biệt ly thì mười
Buồn thu như xát lòng người
Những ngày bồ liễu xanh ngời mấy đâu
Thở than, lo sợ chen nhau
Thời gian bạc cả mái đầu Văn Quân!
Phan Lang chẳng mãi tuổi xuân
Hay chi than thở, ai cần rên la?
Thương mệnh bạc, tiếc tuổi hoa
Hôm nay thiếu phụ, bà già ngày mai.
Chàng đi hằng nhớ nét cười
Mùi hương quấn quýt, đầy vơi trên lầu
Trách trời nỡ để xa nhau
Còn đâu cơ hội, còn đâu xuân thời
Lỡ thời đành chịu vậy thôi
Uyên ương trên nội sánh đôi, chàng kìa!
Bên nhau, chẳng phải chia lìa
Cả đôi chim yến nữa kia, cạnh nhà
Bạc đầu, tình vẫn không già
Bên nhau bay, nhảy thiết tha trọn đời
Liễu, sen thành cụm, thành đôi
Kiếp người sao nỡ chia phôi dường này!
Thiếp mong có được một ngày
Hoá chim liền cánh, thành cây liền cành.
Xa nhau khi chết đã đành
Cớ sao sống phải biệt tình đôi nơi ?
Ước sao đoàn tụ sinh thời
Hay chi đợi đến thác rồi gần nhau
Mong chàng mãi chẳng già đâu
Thiếp thì giữ trọn cái màu xuân xanh
Thiếp, chàng như bóng với hình
Thiếp mừng khi hưởng hiển vinh cùng chàng
Lòng son chàng phụng giang san
Sức cường đã nguyện giúp dân chẳng từ
Hạ Nhục Chi, giết Thuyền Vu
Máu thù làm nước, thịt thù làm cơm
May sao chiến trận vung gươm
Trời già đã tỏ ý thương anh hùng
Giúp cho trăm trận nên công
Ải đông, ải bắc thôi không lệnh truyền
Đầu non treo gác cung tên
Lá cờ thắng trận biệt miền biên cương
Chiến công bia đá ghi tường
Mang dâng chiến tích, quân vương đón chào
Kéo sông Ngân rửa cung đao
Bài ca thắng trận xôn xao bệ rồng
Bằng Tần Thúc Bảo tước phong
Ngang Phiêu Diêu khoản ghi công chiến trường
Ngàn năm bia đá, bảng vàng
Vợ con ân thưởng vững vàng, dài lâu
Thiếp và Tô Phụ khác nhau
Lạc Dương trai giỏi có đâu hơn chàng
Nếu chàng về với ấn vàng
Thiếp rời khung dệt rỡ ràng nét hoa
Chiến bào gió bụi thay ra
Vì chàng dâng chén rượu ngà tận tay
Vì chàng thiếp chải tóc mây
Vì chàng trang điểm mặt mày trẻ thêm
Giở khăn lệ cũ chàng xem
Đọc thơ sầu viết những đêm ngậm ngùi
Thơ sầu chuyển tiếp thơ vui
Thơ ngâm, rượu chuốc liên hồi cùng nhau
Rượu thường ta chẳng dùng đâu
Thơ không ngâm lại khúc sầu bi ai
Thơ hay, rượu quý nối dài
Cùng chàng gắn kết duyên hài ngày xưa
Bõ khi xa cách mong chờ
Thanh bình, lệ thiếp từ giờ thôi rơi
Chuyện trò, quấn quýt chẳng rời
Ô hay! Như thế là người trượng phu.
Tháng 9 -2011
VanVN.Net - Khoan hãy nói đây là bản dịch hay, hay dở. Nguyên một công sức, một nhiệt huyết trong tình yêu với áng văn cổ nước nhà của Vương Trọng đã là điều đáng kể, nhất là giữa thời buổi ly tâm và nếu không nói về hiện đại, hậu hiện đại thì e rằng lỗi nhịp. Nhưng dịch giả lại dùng thể lục bát thuần, chứ không song thất lục bát là thể dường như còn cần nương tựa vào Đường luật như dịch giả trước. Điều này lại cho thấy một tình yêu tiếng Việt sâu sắc của Vương Trọng, một sự phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt kể từ thời bà Đoàn Thị Điểm đến giờ. Xin ghi nhận và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc…
TÔI DỊCH LẠI CHINH PHỤ NGÂM
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là tác phẩm thơ chữ Hán xuất sắc trong Văn học cổ điển nước ta. Từ xưa đến nay đã có nghiều người dịch ra quốc âm, trong đó bản dịch của Đoàn Thị Điểm ( hay của Phan Huy Ích?) là bản dịch thông dụng nhất (BDTDN), xuất sắc nhất. Cái hay của bản dịch này vượt trội so với các bản dịch khác, vì thế, nhiều bạn đọc chỉ biết duy nhất bản dịch này. Sự xuất sắc của BDTDN là một thực tế, được nhiều nhà giáo, nhà phê bình phân tích, ở đây cho phép tôi không nói tới. Tuy nhiên, đối với bạn đọc ngày nay, bản dịch này cũng có một số câu không rõ nghĩa, khó hiểu, vì có khi dịch giả dùng nguyên một số từ Hán Việt, có thể không có điều gì bất cập với bạn đọc ngày xưa, nhưng lại gây trở ngại với ngày nay, ví như:
Hãy tính lại diễn khơi ngày ấy
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Khuê ly mới biết tân toan dường này…
Diễn khơi, lâm hành, đăng đồ, khuê ly, tân toan… là những từ Hán Việt không dễ hiểu với hầu hết bạn đọc ngày nay.
Tôi có đứa cháu gái là giáo viên văn của một trường chuyên . Cháu ao ước có một bản dịch Chinh phụ ngâm mà không phải chú thích những phần không thuộc điển tích như mấy từ Hán Việt kể trên. Hãy đợi đấy! Tôi đã hứa với cháu, và đây là bản dịch của tôi theo thể thơ lục bát. Có thể bản dịch này còn nhiều hạn chế, nhưng tôi tin khá sát nghĩa với nguyên bản và chắc rằng cũng dễ hiểu hơn trong nhiều trường hợp.
CHINH PHỤ NGÂM
Đặng Trần Côn
Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng
Cao xanh hỡi, biết hay không
Trần gian bao chuyện đau lòng, ai sinh?
Trăng rung nhịp trống Tràng Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây
Vua chống kiếm, đứng lên ngay
Tướng quân nhận gấp hịch này, nửa đêm
Áo nhung quan võ khoác lên
Hết ba thế kỷ ấm êm, thanh bình
Cửa triều giục sớm khởi hành
Người vì việc lớn, nhẹ tênh chia lìa
Cung tên lưng khoác chỉnh tề
Vợ con theo tiễn não nề giọt châu
Cờ bay phần phật ải sầu
Thùng thùng trống oán giục đau biệt nhà
Oán vì đôi lứa chia xa
Nuốt sầu, ước hẹn ngày ta trùng phùng
Chàng hai mươi tuổi, con dòng
Bút nghiên xếp lại, đao cung sẵn sàng
Đoạt thành dâng Chuá – ý chàng
Muốn đem lưỡi kiếm chém ngang giặc này
Lấy da ngựa bọc chí trai
Thái Sơn tay nhấc nhẹ thay lông hồng
Chiến chinh, xa chốn khuê phòng
Gió ào cầu Vị, roi vung hành trình
Đầu cầu Vị nước thanh thanh
Bên bờ nước chảy cỏ xanh biếc đường
Tiễn chàng lòng thiếp buồn thương
Giận không bằng ngựa theo chàng đường đi
Thua thuyền, theo nước chuyển di
Nước trôi thế ấy ước gì sầu tan!
Cỏ thơm, sầu vẫn muôn vàn
Cầm tay chàng nói chứa chan những lời
Bước đi, níu áo chẳng rời
Theo chàng, lòng thiếp sáng ngời vầng trăng.
Lòng chàng chiến trận dõi trông
Buông ly rượu tiễn, gươm vung múa rền
Chỉ hang hổ, giáo vung lên
Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan
Như Mã Viện ở khe Man
Áo chàng ráng đỏ theo làn gió bay
Ngựa chàng lông tuyết đẹp thay
Hoà trong trống trận ngựa này rung chuông
Gần nhau, chốc đã chia đường
Chia đường ở chốn Hà Lương lạnh người
Lề đường thiếp đứng bồi hồi
Lề đường thiếp ngửng nhìn trời cờ bay
Tiền quân Tế Liễu rồi đây
Hậu quân còn ở nơi này Tràng Dương
Ngựa đưa chàng tới biên cương
Biết chăng lòng thiếp đoạn trường, tái tê
Người đi, nhạc tiễn vọng về
Cờ đưa quân tiến mấy bề bóng loang
Trông mây biết thiếp xa chàng
Quay về nhìn núi ngổn ngang nhớ, buồn
Chàng đi nắng dãi, mưa dồn
Thiếp thì về lại cái buồng đêm qua
Quay đầu nhìn lại – hai ta
Một vùng núi biếc la đà mây vương
Chàng vời trông thiếp, Hàm Dương
Thiếp buồn từ chốn Tiêu Tương vọng chàng
Cây Hàm Dương, khói Tiêu Tương
Hai nơi hai xứ, dặm đường xa nhau
Cùng nhìn, cùng chẳng thấy đâu
Chỉ xanh xanh những hàng dâu bên đường
Dâu bên đường gợi buồn thương
Thiếp, chàng ai chịu đoạn trường hơn ai?
Chàng đi mưa gió cõi ngoài
Đêm trăng không biết đâu nơi nghỉ dừng?
Xa xôi ngàn dặm chiến trường
Không nhà, không cửa lẽ thường xưa nay
Gió phang, tiều tuỵ mặt mày
Nước sâu rúm vó ngựa hay phải chờn
Chinh phu bãi cát làm giường
Bên đường hổ báo, đêm thường ngủ say
Bạch Thành, Hán chiếm sớm nay
Còn vùng Thanh Hải sáng mai Hồ rình
Thấp cao Thanh Hải núi xanh
Suối trong trước núi hiện hình sau cây
Lên cao, đầu tuyết phủ đầy
Xuống khe phút chốc ngập ngay bụng rồi
Thương thay lính trận bao người
Lòng quê ủ rũ khi ngồi nhớ mong
Quân vương trướng gấm biết không
Chinh phu vất vả, đau lòng vì ai?
Bàn chân đặt bước hôm mai
Khi trong Hãn Hải, khi ngoài Tiêu Quan
Mưa dầm, hổ dữ, rắn đàn
Ngủ sương, ăn gió dung nhan thảm sầu
Nhìn mây khi bước lên cao
Làm sao dẹp nhớ, làm sao khỏi buồn?
Chàng đi về phía đông nam
Trận nào chàng dự, thiếp làm sao hay?
Biết rằng chinh chiến xưa nay
Mạng người như thể cỏ cây, chẳng gì.
Ơn vua ấm dạ mang đi
Trải qua lắm chốn hiểm nguy, khó tồn
Trăng soi mộ cũ Kỳ Sơn
Bến Phì mộ mới gió than canh trường
Khóc hồn tử sĩ bi thương
Mang mang phủ ánh trăng suông mặt người
Chinh phu khi đã lìa đời
Không ai tô mặt, không ai gọi hồn
Thương ai đền nợ nước non
Người đi qua đó chạnh buồn tái tê
Ban Siêu đầu bạc lại quê
Mấy ai chinh chiến trở về xưa nay
Cõi ngoài chàng sống dạn dày
Kiếm dài, yên ngựa đêm ngày kề bên
Gió thu, bãi cỏ từng quen
Tên vèo trước ngựa, quan san trăng đầy
Trên thành gíao phóng, đạn bay
Công danh lận đận biết ngày nào ngơi?
Khổ, nhàn khó nói nên lời
Thiếp, chàng: khung cửa, chân trời biệt nhau
Cửa này, phận thiếp từ lâu
Bình sinh chàng có phải đâu chân trời?
Tưởng rằng cá nước sánh bơi
Ngờ đâu nên nỗi xa vời nước mây!
Thành chinh phụ, thiếp không hay
Ý chàng chẳng muốn một ngày vương tôn
Vì sao cách trở núi non
Để cho sớm tối sầu tuôn nối dài?
Phong lưu, tuổi trẻ chàng ơi
Gái khuê phòng, thiếp xứng đôi với chàng
Thương thay đôi lứa tròn trăng
Đôi nơi cách trở nói năng được gì?
Nhớ ngày biệt thiếp chàng đi
Liễu vườn bóng dáng hoàng ly chưa về
Hỏi chàng ngày trở lại quê
Chàng rằng : khi cuốc gọi hè, gặp nhau
Hoàng ly, chim cuốc qua lâu
Ý nhi đã hót trước lầu liễu xanh.
Biệt chàng buổi ấy nhìn quanh
Gió đông chưa đến rung cành mai kia
Hỏi chàng, chàng hẹn ngày về
Khi hoa đào nở trên quê đỏ hồng
Nay đào tàn tạ gió đông
Mai già nở với phù dung bờ này
Chàng hẹn thiếp: đến Lũng Tây
Giữa trưa chẳng thấy bóng ai, hút tầm
Chỉ nghe lá rụng chạm trâm
Chim kêu, người đứng khóc thầm, mà thương.
Chàng hẹn thiếp: cầu Hán Dương
Hết ngày nào thấy bóng chàng, chàng ơi
Gió bay cuốn áo không thôi
Nước sông dâng, nước mắt rơi đầm đìa.
Năm xưa nhắn nhủ chàng về
Năm nay nhắn gọi rằng quê đang chờ
Tin về, người vẫn rằng chưa
Hoa dương rụng xuống nằm hờ rêu xanh
Rêu xanh loang nỗi buồn tênh
Dạo sân lòng nghĩ quẩn quanh, bộn bề
Thư chàng năm ngoái hẹn về
Năm nay lại hẹn, hẹn gì chàng ơi?
Thấy thư mà chẳng thấy người
Rèm treo tịch mịch một trời tà huy
Tà huy nối bóng chiều đi
Mười lần chàng hẹn, chín thì sai ngoa.
Từ ngày chàng bước chân ra
Lá sen non nhú đã ba lần rồi
Sinh ra khổ nhất trên đời
Biên cương, lính thú tháng dài, năm qua
Lính đồn, lính ải biệt xa
Ai người chẳng có mẹ cha mỏi mòn
Mấy ai không có vợ con
Cớ sao biền biệt héo hon thế này?
Mẹ chàng tóc ngả màu mây
Con chàng đang tuổi thơ ngây bế bồng
Mẹ chàng tựa cửa vời trông
Con thơ đợi bữa, cầm lòng sao đây?
Nuôi mẹ già, thiếp hoá trai
Dạy con suốt tháng năm dài, làm cha.
Một thân gánh vác việc nhà
Đêm nằm thao thức xót xa nỗi chàng
Nhớ chàng năm hết, năm sang
Nhớ chàng tàn lụi thời gian đợi người
Chàng xa ba, bốn năm rồi
Trăm, nghìn, vạn nhớ đắp bồi thiếp đây
Sao gần chàng được một ngày
Để chàng thâú tỏ nỗi này chàng ơi
Chiếc thoa – đồ cưới một thời
Tấm gương in bóng hai người cùng soi
Nhờ ai gửi được tới nơi
Để chàng hiểu thiếp không nguôi nhớ đầy
Còn đây, chiếc nhẫn đeo tay
Từng quen nhìn ngắm những ngày bên nhau
Nhỏ nhoi chiếc ngọc cài đầu
Đồ chơi thuở bé, từ lâu với người
Nhờ ai gửi được tới nơi
Chắc chàng ở chốn quê người nâng niu.
Năm xưa tin tức ít nhiều
Năm nay âm tín vắng teo thế này!
Mong thư khi thấy nhạn bay
Nghe sương nặng hạt khâu dày áo bông
Gió tây, chẳng thể gửi cùng
Tuyết, mưa biên ải một vùng chan chan
Tuyết, mưa lạnh cả trướng màn
Xót người tuyết núi, mưa ngàn xông pha
Phong chữ gấm, lại mở ra
Bói tiền tin dở thấy mà không tin
Một mình đứng lặng trong hiên
Bao lần chập choạng bóng đêm loang dần
Bơ phờ tóc rối lặng nằm
Bỏ quên bao độ trăng rằm ngoài kia
Nào hay là tỉnh hay mê
Bàng hoàng, ngây ngất ra bề rượu say
Vui , buồn chẳng thể nào hay
Ngơ ngơ, ngác ngác như ngây, như khờ
Trâm nghiêng, tóc rối – thờ ơ
Lưng gầy, quần lỏng – bao giờ biết chi
Hiên nhà ngày lặng lẽ đi
Đêm đêm cuốn , rủ rèm tre âm thầm
Ngoài rèm chim thước chẳng thăm
Trong rèm đèn biết được tâm tư này!
Đèn ơi đèn biết chi đây?
Chỉ riêng một thiếp lòng đầy sầu bi
Lặng sầu chẳng nói năng chi
Hoa đèn, bóng thiếp nặng vì buồn thương
Gà đua nhau gáy canh trường
Bóng hoè đêm phất phơ buông quanh nhà
Mối sầu như thể bể xa
Khắc qua lòng những tưởng qua năm dài
Muốn theo hương khói lên trời
Soi gương lệ ngọc thầm rơi thành dòng
Gượng đàn, đàn gảy chẳng xong
Lòng này muốn mượn gió đông gửi chàng
Chiến khu gửi đến được chăng
Giúp ta, ta trả ngàn vàng gió ơi
Nhớ dài như thể lên trời
Trời cao vô tận, không nguôi nhớ chàng
Người sầu đối cảnh buồn thương
Lá xanh sương dập, tiếng trùng mưa chan.
Liễu dương sương bổ héo tàn
Mưa như cưa sắt cưa ngang ngô đồng
Sương rơi, tiếng dế não nùng
Trăng thanh, xa vẳng tiếng chuông mấy hồi
Gió lay tàu chuối không thôi
Khe màn gió lách, gió chui vào nhà
Trên rèm bóng nguyệt, bóng hoa
Trăng thanh, hoa nở thiết tha lòng người
Nghìn sự biếng, vạn sự lười
Dệt thêu bướm cặp, oanh đôi – chẳng màng!
Mặt mày thiếp ngại điểm trang
Suốt này tựa cửa, nói năng ngại lời
Suốt ngày tựa cửa chàng ơi
Xa chàng trang điểm vì ai lúc này?
Chàng đi cách trở núi mây
Một thân thiếp ở nơi đây đợi chờ
Khác nào Chức Nữ, Hằng Nga
Sông Ngân, Cung Quảng xót xa, lạnh buồn
Sầu làm gối, muộn làm cơm
Rượu, hoa đến giải càng đơm muộn, sầu.
Muộn, sầu nguồn khổ, gốc đau
Muộn, sầu thôi thúc người mau lìa đời
Gỗ sênh lạc tiếng, lệch hồi
Ôm đàn chưa gảy đã rời đàn ra
Gian nan quan ải chàng qua
Lệ theo tiếng cuốc tuôn ra ướt đầm
Trống tiều nhói đến tận tâm
Chia ly cay đắng bào thân yếu mềm.
Đắng cay vò xé ngày đêm
Đắng cay hành hạ triền miên, vì chàng
Vì chàng dòng lệ chứa chan
Vì chàng thiếp lẻ chiếc thân ôm sầu
Nơi chàng, thiếp đến được đâu
Khăn chàng, lệ thiếp làm sao lau giùm?
Duy nhờ cõi mộng đến cùng
Đêm đêm lần tới bãi sông vì người
Tìm chàng ở chốn Dương Đài
Gặp nhau Tương Thuỷ vui vầy mộng xuân
Mộng tan, luyến tiếc vô ngần
Mộng ơi, thân chẳng được gần với nhau!
Hư không, mộng hão qua mau
Chỉ riêng lòng thiếp trước sau vẹn toàn
Trước sau vẫn chẳng xa chàng
Mênh mông trời đất, tấc gang cõi lòng
Lên cao mấy độ vời trông
Bóng chàng sao vẫn mịt mùng phương nao?
Cỏ yên, tần trắng, ngàn dâu
Xóm thôn bụi nhuốm nửa màu nam phương
Chiều hôm nhạn đậu bãi bằng
Đường ghềnh quán khách, ngóng chàng vắng tanh
Một vùng mây biếc, cây xanh
Màu trời chen sắc thanh thanh núi đồi.
Lúa ngô lấn nửa thành rồi
Bắc phương sáo trúc vẳng lời trong mưa
Ngóng chàng chẳng thấy, ngẩn ngơ
Thấy cây rụng lá vàng khô trên đồi
Ơ kìa, chim trĩ bay đôi
Bờ sông mưa xuống ngàn mai nở dày.
Phương đông ngưng tụ khói mây
Cánh chim bạt gió kêu đầy bi thương
Ngóng trông chẳng thấy bóng chàng
Thuyền xuôi, cánh nhạn bay ngang trên đầu.
Phương tây tùng tiếp ngàn lau
Người đi khuât bóng nương dâu xa mờ
Vọng nhìn bốn cõi, ngẩn ngơ
Lên lầu bao bận mà mơ bóng chàng
Mắt nhìn, mây núi che ngang
Biết đâu chiến địa Ngọc Quan chốn nào?
Gậy tiên rút đất có đâu
Khăn tiên dùng để bắc cầu cũng không
Là khi hoá đá nỗi lòng
Lên lầu, lệ đã cạn dòng ráo khô.
Ngoái trông dương liễu xanh bờ
Hối vì đã xúi chàng mơ phong hầu
Chàng đi ngàn dặm xa nhau
Lòng chàng, lòng thiếp có đâu khác gì
Khác gì kẻ ở, người đi
Thiếp không oán thán điều chi ở chàng
Thiếp như một đoá hương dương
E chàng là ánh dương quang bầu trời
Ánh dương không biết phản hồi
Để cho tàn héo, tả tơi hoa này
Hoa vàng biết hướng về ai
Ánh dương đi bặt một hai không hoàn
Để cho tàn úa hoa vàng
Đêm sương rụng rắc miên man quanh tường.
Lan dịp hái, tần mùa hương
Trước nhà đêm vắng thiếp thường nhẩn nha
Ngửng nhìn bốn cõi trời xa
Khuê Tiền ẩn hiện, tỏ mờ sông Ngân
Mây bông lơ lửng xa gần
Chòm sao Bắc Đẩu nghiêng dần, nằm ngang
Ánh trăng chiếu đến tận giường
Có bao nhiêu gió qua tường đêm nay
Dung nhan ngày một héo gầy
Chàng ơi có tỏ những ngày tha phương?
Xưa, ta: hình, bóng như gương
Giờ, ta: cách trở Sâm, Thương thế này!
Nơi chàng, lưng ngựa phủ mây
Lối rêu hôm sớm dép, giày thiếp in
Gió xuân ít ghé vào hiên
Thiên nhiên đã sắp hết phen đẹp trời
Đẹp trời vàng tía sánh đôi
Ngưu Lang, Chức Nữ tái hồi dưới trăng
Thương thay thiếp chỉ phòng không
Ngày lành bỏ phí, lạnh lùng vắng nhau
Ngày lành vun vút qua mau
Tuổi xuân, thời trẻ trôi đâu kém gì
Lo xuân hết, buồn thu đi
Sum vầy chỉ một, biệt ly thì mười
Buồn thu như xát lòng người
Những ngày bồ liễu xanh ngời mấy đâu
Thở than, lo sợ chen nhau
Thời gian bạc cả mái đầu Văn Quân!
Phan Lang chẳng mãi tuổi xuân
Hay chi than thở, ai cần rên la?
Thương mệnh bạc, tiếc tuổi hoa
Hôm nay thiếu phụ, bà già ngày mai.
Chàng đi hằng nhớ nét cười
Mùi hương quấn quýt, đầy vơi trên lầu
Trách trời nỡ để xa nhau
Còn đâu cơ hội, còn đâu xuân thời
Lỡ thời đành chịu vậy thôi
Uyên ương trên nội sánh đôi, chàng kìa!
Bên nhau, chẳng phải chia lìa
Cả đôi chim yến nữa kia, cạnh nhà
Bạc đầu, tình vẫn không già
Bên nhau bay, nhảy thiết tha trọn đời
Liễu, sen thành cụm, thành đôi
Kiếp người sao nỡ chia phôi dường này!
Thiếp mong có được một ngày
Hoá chim liền cánh, thành cây liền cành.
Xa nhau khi chết đã đành
Cớ sao sống phải biệt tình đôi nơi ?
Ước sao đoàn tụ sinh thời
Hay chi đợi đến thác rồi gần nhau
Mong chàng mãi chẳng già đâu
Thiếp thì giữ trọn cái màu xuân xanh
Thiếp, chàng như bóng với hình
Thiếp mừng khi hưởng hiển vinh cùng chàng
Lòng son chàng phụng giang san
Sức cường đã nguyện giúp dân chẳng từ
Hạ Nhục Chi, giết Thuyền Vu
Máu thù làm nước, thịt thù làm cơm
May sao chiến trận vung gươm
Trời già đã tỏ ý thương anh hùng
Giúp cho trăm trận nên công
Ải đông, ải bắc thôi không lệnh truyền
Đầu non treo gác cung tên
Lá cờ thắng trận biệt miền biên cương
Chiến công bia đá ghi tường
Mang dâng chiến tích, quân vương đón chào
Kéo sông Ngân rửa cung đao
Bài ca thắng trận xôn xao bệ rồng
Bằng Tần Thúc Bảo tước phong
Ngang Phiêu Diêu khoản ghi công chiến trường
Ngàn năm bia đá, bảng vàng
Vợ con ân thưởng vững vàng, dài lâu
Thiếp và Tô Phụ khác nhau
Lạc Dương trai giỏi có đâu hơn chàng
Nếu chàng về với ấn vàng
Thiếp rời khung dệt rỡ ràng nét hoa
Chiến bào gió bụi thay ra
Vì chàng dâng chén rượu ngà tận tay
Vì chàng thiếp chải tóc mây
Vì chàng trang điểm mặt mày trẻ thêm
Giở khăn lệ cũ chàng xem
Đọc thơ sầu viết những đêm ngậm ngùi
Thơ sầu chuyển tiếp thơ vui
Thơ ngâm, rượu chuốc liên hồi cùng nhau
Rượu thường ta chẳng dùng đâu
Thơ không ngâm lại khúc sầu bi ai
Thơ hay, rượu quý nối dài
Cùng chàng gắn kết duyên hài ngày xưa
Bõ khi xa cách mong chờ
Thanh bình, lệ thiếp từ giờ thôi rơi
Chuyện trò, quấn quýt chẳng rời
Ô hay! Như thế là người trượng phu.
Tháng 9 -2011
VanVN.Net – Như tin đã đưa, ngày 20/10/2011, Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam – nhà thơ Đỗ Hàn, được sự ủy quyền của nhà văn Nguyễn Trí Huân – Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đã ...
VanVN.Net – Như tin VanVN.Net đã đưa, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa ký Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Nguyễn Hoàng Ca (tức nhà văn Nguyễn Thi, Nguyễn ...
VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...
VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...
VanVN.Net – Sáng nay, 06/12/2011, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội), cuộc tọa đàm văn học tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ được tổ ...
VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn