TẬP THƠ “VŨ KHÚC TÀY” CỦA NHÀ THƠ Y PHƯƠNG- GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 2016
THƠ Y PHƯƠNG
KHÚC QUÀNH
Cố đạp ngươc chiều gió
Gió thổi ớt vào mắt
Mắt đỏ hoe như khóc
Đạp đến đây đành quành về nhà
Đường về nhà
Gió bay
Cát bay
Lá bay
May trái tim không bay
Gió từ đâu thế này
Lá từ đâu thế này
Cố tình ngáng chân
Không cho tôi tới
Gió làm sao hiểu nổi
Lá làm sao hiểu nổi
Người làm sao hiểu nổi
Cuộc đời
Đi tới đâu thì quành
BUỒN LẤP LÁNH
Người họa sĩ đi rồi
Những mảng mầu ra sao
Người nhạc sĩ đi rồi
Những nốt nhạc ra sao
Người thi sĩ đi rồi
Những con chữ ra sao…
Người cha mẹ đi rồi
Các con mình ra sao
Ồ không sao
Khi mặt trời rời bầu trời
Những đứa con của họ bắt đầu chín
NHAI NƯỚC
Nửa đời trước
Răng cắn ngập nỗi buồn
Nửa đời sau
Răng cắn ngập niềm vui
Còn bây giờ
Tôi đang nhai đau tôi
MẸ
Những giấc mơ ban đêm
Những giấc mơ ban ngày
Làm xô lệch cuộc đời
Nghiêng ngả người con
May mắn thay
Còn một người
Nâng bồng con đứng dậy
Ôi !
Mẹ của con
MƯA TRÊN CÁNH ĐỒNG CON GÁI
Mưa như phấn hoa
Rắc dày
Lên cánh đồng con gái
Mưa như râu ta
Cọ mài
Nhột cánh đồng con gái
Mưa như thế mãi
Cánh đồng kín hoa
ĐẤT SINH RA MÂY
Ở đâu có đất
Ở đấy có cây
Chắc gì!
Ở đâu có đất
Ở đấy có mây
Hẳn rồi.
TRẢ LỜI HỘ TÔI
Nếu đem người kia dìm xuống nước
Danh phận
Chức tước
Tiền bạc
Sẽ nổi lềnh bềnh cùng cỏ rác
Nếu đem người này dìm xuống nước
Tình yêu
Tình yêu
Tình yêu
Sẽ lắng đọng
Trầm tích
Vậy anh thích
Tiền bạc
Chức tước
Hay tình yêu
BÉ BỎNG YÊU THƯƠNG
Con gái bé bỏng trong vòng tay yêu thương của mẹ
Mẹ bé bỏng trong vòng tay yêu thương của bà
Bà bé bỏng trong vòng tay yêu thương trời đất
Trời đất bé bỏng vòng quanh yêu thương nhau
XÉ
Ta nhớ em đến chín
Ta nhớ em đến sống
Ta quên mình đang thai
Ta yêu em sớm mai
Ta yêu em chiều tà
Ta yêu em trùng điệp
Yêu như giông tới tấp
Ta xé thịt bắp đùi
Ta dâng lên em yêu.
SÓNG
Sóng cứ đi mãi đi mãi là sao
Không đứng lại làm núi
Ngày xưa
Núi chính là sóng
Ngày xưa
Người cũng chính là sóng
Bây giờ
Người vẫn chính là sóng
Một chút nhầm nhỡ thôi
Đã sóng ngầm một đời
Nguyễn Đức Hạnh
Y Phương là một trong số ít những nhà thơ xuất sắc của bộ phận thơ dân tộc thiểu số hiện đại nói riêng, của nền thơ Việt Nam hiện đại nói chung. Sau những tập thơ nổi tiếng: Tiếng hát tháng giêng; Đàn then; Thơ Y Phương; Nói với con…, Vũ khúc Tày là tập thơ mới nhất của nhà thơ người Tày này.
Điểm đặc biệt ở tập thơ song ngữ Việt - Tày này là cả 108 bài thơ trong tập hầu hết đều là thơ tình. Thực ra, trong các tập thơ trước, ta đã gặp rải rác không ít những bài thơ tình của Y Phương. Vậy, nếu so sánh với những bài thơ viết về tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng, tình yêu quê hương của Y Phương trước đây, tập thơ tình này có gì khác biệt, có gì đặc sắc? Theo cảm nhận của tôi, tập thơ này có một số điểm đặc sắc và khác biệt sau đây:
Triết luận đôi khi ngậm ngùi về tình yêu chứ không chỉ mô tả đắm say về tình yêu.
Với bài thơ Em - Cơn mưa rào - Ngọn lửa in trong tập thơ Tiếng hát tháng giêng, chúng ta gặp những câu thơ tuyệt hay của Y Phương:
“Em về cấy gặt
Có em rồi làm ngắn ngày tháng chạp
Bàn tay mềm ra suối lại thơ ngây
Bàn tay mềm nẩy búp trên cây
Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp”
Những câu thơ ấy diễn tả thật tài hoa một tình yêu nồng nàn, mang theo lòng biết ơn của nhà thơ dành cho nhân vật trữ tình “em” - người vợ: Bàn tay mềm mại kia, như có phép thần kì chạm vào cây thì búp non tơ nảy lộc - một hình ảnh tượng trưng cho sự sống, cũng bàn tay ấy “Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp” - ngọn khói bếp tượng trưng cho hạnh phúc gia đình, nhờ có bàn tay em mà hạnh phúc được vẹn nguyên trước dông bão cuộc đời. Khi viết những câu thơ này, Y Phương còn rất trẻ.
Còn trong Vũ khúc Tày, khi tuổi trẻ đã đi qua, nhà thơ viết những bài thơ tình giản dị mà nặng trĩu hơn, đó là sự chiêm nghiệm về tình yêu, để từ đó dồn nén bao triết lý nhân sinh dù buồn đau vẫn lấp lánh hi vọng và niềm tin:
“Khi tình yêu mủn rồi
Những nụ hôn ra sao
Ồ không sao!
Khi mặt trời rời bầu trời
Những đứa con của họ bắt đầu chín”
(Buồn lấp lánh)
Sự tiếp nối các thế hệ chính là sự tiếp nối tình yêu vĩnh hằng trong trái tim con người. Đó chính là triết lí mà Y Phương muốn gửi gắm qua chùm hình ảnh tượng trưng mang kích thước và sắc màu kì vĩ: cha mẹ như mặt trời với bầu trời. Khi mặt trời lặn vào bóng tối thì các con như những vì sao sẽ bắt đầu hành trình sống và yêu của mình. Bởi các vì sao đã nhận sự trao gửi ánh sáng từ mặt trời và bầu trời, để tạo ra một hành trình vĩnh cửu không bao giờ đứt quãng. Bài thơ Gọi vía của Y Phương trùng tên với một bài thơ nổi tiếng của một nhà thơ người Tày khác là Mai Liễu. Đọc gần hết bài thơ, ta vẫn tưởng Y Phương đang lặp lại tứ thơ của Mai Liễu: “trên đường đời gian khó, vía đã đi lạc mất rồi”, với Mai Liễu thì “chốn đô thành - ai gọi vía cho tôi?”, với Y Phương thì “thân xác này từng lên rừng xuống bể - gọi vía”. Nhưng khi đọc đến khổ thơ kết, ta mới ngỡ ngàng nhận ra sự chuyển hướng của tứ thơ, sự đa tình giấu kín của hồn thơ Y Phương:
“Giờ này
Thân xác tôi mỏi mệt
Vía ơi
Ơi vía
Về đi
Về đi mà
Về mau mà yêu nhau kẻo vía già”
(Gọi vía)
Đặc sắc của bài thơ nằm ở câu kết với ý nghĩa sâu xa: Sốt ruột không phải vì lo thân xác già mà lo hồn vía già không kịp yêu nữa. Đặc sắc ở triết lí hàm ẩn trong câu thơ: Hồn vía già thì tình yêu mới không còn nữa, đâu phải là chuyện tuổi tác hay thân xác. Yếu tố tinh thần mới quyết định chúng ta già hay trẻ và còn yêu thì còn trẻ bất cứ ở tuổi tác nào.
Lê Thị Bích Hồng
“Vũ khúc Tày” đã góp phần hoàn chỉnh sự nghiệp văn chương của Y Phương, cho thấy một tài năng đa dạng, sáng tạo bền bỉ và mang đến cho bạn đọc một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới về văn hóa dân tộc và nhà thơ Tày Hứa Vĩnh Sước - Y Phương (Đọc tập thơ song ngữ Việt-Tày "Vũ khúc Tày" của nhà thơ Y Phương do Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên ấn hành-2015).
Chạm mắt vào bản thảo song ngữ “Vũ khúc Tày” (Tủng Tày), tôi thực sự bị cuốn hút, bị thôi miên, bị dẫn dụ đến mê muội ngay từ lời đề từ “Xin thưa” (Xo chiềng) cho tập thơ song ngữ Việt - Tày:
“Khi chưa có tình yêu
Con người chỉ là từng hạt thóc riêng lẻ
Có tình yêu rồi
Con người mới trở thành cơm nghi ngút trắng”
(Pửa xằng mì slim điếp
Tuô cần tồng khẩu cóc táng lé
Mì slim điếp dá
Tuô cần chắng pền pát khẩu khao)
Thế là sau gần 9 năm tập thơ song ngữ đầu tiên “Thất tàng lồm” (Ngược gió, 2006) ra đời, bạn đọc đã “thỏa nỗi nhớ mong” được đón “Vũ khúc Tày” - tập thơ song ngữ Việt - Tày tiếp theo của anh. Vượt qua cảm giác lống loáng rỗng ruột vắt kiệt mình cho trường ca “Chín tháng”, “Đò trăng”, người con trai làng Hiếu Lễ không cho phép ngừng viết dù bất cứ lý do nào, dẫu bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả khi chân chậm, mắt mờ theo tuổi tác “Đêm đêm” chỉ còn “chân gác chăn”, kể cả đang mang tâm trạng bải hoải mệt mỏi “Bung buồn”, “Cô đơn lên chót vót”, “Nhai đau”... Phải viết, phải viết… đó là “mệnh lệnh trái tim” cất lên những hồi róng riết và thế là “bầu khí quyển thơ” Y Phương trở lại với 108 bài thơ đầy đặn, nói đúng hơn là 108 bài thơ tình yêu nồng ấm yêu thương tung tẩy, quậy cựa như “một bầy ngựa hoang”, “ngùn ngụt núi lửa”, “trùng điệp nhớ”, “giông bão chờ”, trái tim đỏ máu “khe khẽ người”… Cũng chẳng lạ, nói như nhà văn Phạm Quang Trung kẻ “Tử vì Đạo - Đạo yêu” lại không say, không viết thơ tình. 108 bài chứ đến 1080… bài cũng là lẽ thường, là “chuyện thường ngày ở huyện”, quá hiển nhiên với một nhà thơ được bạn bè yêu mến “tróc nã” đến tận cùng trúng phóc “tim đen” để rồi “Nhà yêu học” chỉ cười trừ và thầm nghĩ “họ chỉ được cái nói đúng”. Anh đã từng tự bạch hồn nhiên, chân thật chẳng kiêng dè, giấu giữ trên Fabook cho cả thế giới biết về một Y Phương “Chỉ biết yêu thôi chả biết gì”, yêu dẫu cho “ngày mai trời sập”, đã yêu thì đừng “đắn đo, đừng băn khoăn, đừng tính toán thiệt hơn”, đã yêu thì bất chấp “Mưa ngập đường anh vẫn tới - Hổ báo đón đường anh vẫn tới - Đến nơi có một Tình yêu lớn”… với tuyên ngôn xanh rờn của kẻ được bạn yêu thơ phong là “Thủ lĩnh vương quốc ái tình”: “Nếu không yêu và làm thơ thì khói tôi chả còn biết làm gì nữa. Hãy yêu đi bạn ơi. Cuộc sống không có tình yêu khác nào khu vườn không có ánh nắng. Biết rằng mình đang yêu và đang được yêu làm cho cuộc sống ý nghĩa, ấm áp và giàu có - điều mà ngoài tình yêu ra, không có gì có thể làm được…”. Tôi mới cắt nghĩa được câu hỏi vì sao nhà thơ tự nhận mình là “Thánh Valentine” (vị linh mục dám chống lại Vua Claudius với điều luật điên rồ cấm những đôi lứa yêu nhau để rồi phải chịu cuộc hành hình vào đúng ngày 14/2 năm 270 TCN) trong một cuộc nói chuyện thơ với thanh niên sinh viên một trường đại học. Với chất giọng trầm ấm (trẻ hơn nhiều so với tuổi), nhà thơ xúc động rưng rưng khi nhắc tới vị linh mục nhân ái ấy “Tôi yêu Valentine bởi vị linh mục này đã dũng cảm bênh vực tình yêu, đã bất chấp cả cái chết để bí mật làm phép cưới cho những đôi lứa yêu nhau. Chỉ có yêu và được yêu thì con người mới làm nên sự vĩ đại. Nếu không có tình yêu thế giới sẽ trở nên hỗn mang”. Thế là “Thần ái tình Cupid” Y Phương công khai “cái tạng” của mình và trở thành một “fan ruột”, một tín đồ trung thành của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu, đồng điệu với phát ngôn: “Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào”
Dẫu biết: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”
Nhưng có lẽ điều kỳ diệu trong thơ tình yêu của Y Phương nói chung và “Vũ khúc Tày” nói riêng chính là nội lực yêu, cường độ yêu phập phồng, quậy cựa đến tận cùng sinh nở.