VanVN.Net - Đây là tập thơ thứ 2 của nhà thơ cựu chiến binh Nguyễn Trọng Luân, một cây bút làm thơ và viết bút kí khá quen thuộc với bạn đọc của Tạp chí Văn nghệ Quân đội trong những năm gần đây…
Nếu như ở tập thơ đầu tay (Trăng tháng Chạp – Nxb Hội Nhà văn 2009), bạn yêu thơ nhớ đến Nguyễn Trọng Luân bởi những bài thơ nặng về kí ức chiến tranh, ấm ấp tình đồng đội thì trong tập thơ thứ hai này Nguyễn Trọng Luân có vẻ như đã “nhập thế” hơn, mộng mị hơn:
Sao anh không về với em
Đêm thiếu phụ em khỏa thân vào mộng
Thu úa cả sươngđầu mùa giăng men kẻ si tình em xa lắc
Chỉ có đêm em thoát về anh
(Đêm thiếu phụ)
Hoặc tỉnh táo hơn:
Về đón con đi em
Thơ ở phía con nằm mơ ngây ngô nụ cười trở giấc
Cội nguồn thơ là bến đậu bình yên
Ta mải miết chở hồn già nua qua miền cơm áo
Rồi lãng du mộng mị chuốc ưu phiền…
(Về đón con đi em)
Nhưng suy cho cùng anh vẫn chưa làm sao thoát được cái lốt của một người lính từng có quá nhiều kỉ niệm, ẩn ức mang từ cuộc chiến trở về. Thế cho nên dẫu có mộng mơ phút trước: bâng khuâng ngồi trên cát/ biển ngời ngời mà em biền biệt đâu… thì phút sau đã lại tự hỏi mình: Bến ngày xưa đêm xuất kích chỗ nào?/ Nhìn ai cũng thấy quen trưa nay bờ Tùng Luật?
Bài thơ “Uống rượu ngày 30/4” in trong tập thơ này một điển hình cho tâm trạng “lưỡng phân” ấy của những người lính, với họ chẳng có sự hưởng thụ nào là trọn vẹn nếu không nhớ về những người đồng đội đã nằm lại trên những nẻo đường ra trận:
Tôi sẽ uống trong ngày 30/4
Nếu có say xin đừng vội trách
Tôi uống cho đồng đội tôi không về được
Bơ vơ nằm khát giữa rừng…
Thế cho nên mấy anh em cựu chiến binh Tây Nguyên sau khi nghe Nguyễn Trọng Luân đọc thơ đều bảo: “Ông viết cái quái gì rồi cũng lại quay về với cái thời ăn măng rừng đi dép lốp” mà thôi… Thì đó: Hoa cải bãi sông Hồng vàng suốt Trường sơn!
Mặc dù trong tập thơ mới này Luân đã có nhiều bài khá hay về cái miền thơ thứ hai của mình, đó là Mẹ - Quê hương, nhưng cuối cùng thì những gì khiến người đọc có thể thổn thức và ngạc nhiên khi đọc thơ anh vẫn là những khám phá về quá khứ về một tình yêu lớn nhất mà anh đã từng có – tình đồng đội son sắt thủy chung...
Dưới đây là một số bài thơ trong tập thơ “Thơ viết cho mùa thu” của Nguyễn Trọng Luân:
Gửi mùa thu
Anh chen chúc trong dòng người sương mềm sáng tóc thu Hà Nội
Em ở đâu, thương nhớ lung liêng mắt lá vàng
Mùa thu dửng dưng leo từng lâm thâm ô cửa sổ
Biết rằng không có em mà thu cứ vội vàng
Mùa thu tím cả cánh chuồn trên mặt ruộng
Lại sắp mùa chim tránh rét bay qua
Tiếng lạc bạn rớt xuống mùa thu cũ
Manh vó kéo tôm thôi khuấy gió mắt ai chờ
Ngây ngô quá mùa thu sao trở lại
Dẫu bây giờ gió vẫn cứ heo may
Em dìu con qua mưa cuối mùa day rả
Tít trời xa thu có kịp úa cánh vàng
Gửi gió chở thu về miền xa lắc
Chút heo may vừa đủ ấm ngực thơm mềm
Tà áo mỏng khói rơm đồng đất mũi
Sớm thu này Hà Nội nhớ về em
Thu Hà Nội
Đêm thiếu phụ
Sao anh không về với em?
Đêm thiếu phụ em khỏa thân vào mộng
Thu úa cả sương đầu mùa giăng men kẻ si tình em xa lắc
Chỉ có đêm, em thoát về anh
Em ở cuối nguồn anh ở ngọn sông
Em cứ uống như khát con nước nơi anh day dứt nhớ
Kẻ dâm đãng trinh nguyên người tình thiếu phụ
Cuối nguồn em, nhựa ứa sóng vào đêm
Sao anh không một lần ghì chặt núi ngực em
Sao không thể một lần anh thô bạo
Thánh thiện thế để đời thành hư ảo
Hư ảo làm sao có nổi cuộc tình
Thơ cũng chỉ là hư ảo đó mà anh
Chỉ có đêm, đêm trút xiêm y cho thánh thiện
Em khước từ lời yêu thương bằng thơ phiền muộn
Em là em thiếu phụ của đời trần
Đôi dép bạn tôi
Bốn chục năm chẳng quên nụ cười nhau
Giữa trận pháo trong hầm kèo mưa thối đất
Vẫn cãi nhau con Tôm con Tép
Rồi… lao xao bịa chuyện người yêu
Bom đánh vào kiềng đồng đội khiêng nhau
Chôn bạn rồi xin người hi sinh đôi dép
Nức nở hành quân đi về phía trước
Mưa rơi, mưa rơi trắng đất trắng trời
Quê bạn quê tôi cách khúc sông thôi
Bên lở bên bồi mấy nông sâu mòn mỏi
Phía bên bồi cháu con nội ngoại
Bên lở bạn đi hồn vẫn trinh nguyên
Bờ bãi vẫn như xưa xanh lúa xanh khoai
Chờ con mãi không về mẹ đi mùa lũ lụt
Ngày chúng mình lên đường
vỡ đê mẹ chèo thuyền sang huyện
Mái chèo ngày xưa mẹ vẫn gác đầu thềm
***
Chiều nay tôi lại đi thuyền
Sang sông giỗ bạn
Mang đôi dép cao su chĩu nặng
Con thuyền chở cả bốn chục năm
Tháng 7/2010
Cơn giông chiều
Hạ cháy rực con đường xưa mình vẫn đi
Cây cầu ngoại ô chở mệt nhoài lo âu và hò hẹn
bụi ngầu trôi mong ngóng
Ngày xưa vừa qua đã ngái xa
Cánh lá vàng như lửa rơi tàn cuống cuồng cơn giông
Những chiều anh và em đứng nhìn cuồng phong như thế
quấn vào cơn khát em khát cả cơn khát của anh
Thị thành ngầu lên vội vàng như con tim đập gấp
Hạ lại cháy chiều nay em về uể oải
Anh và em xa tàn lá lại rơi đầy
Cơn giông chiều cuồn cuộn lá vàng bay tàn lửa
Em đội nắng đứng trên cầu ngoại ô ngoái về ngày xa
Quê Ngoại
Chưa một lần nói lời yêu
Mấy mươi năm vẫn về quê em như về quê ngoại
Trưa miền Trung nắng cháy
Chè vằng thơm ngọt lịm đường về
Những cánh đồng đất trắng, còng rạp áo tơi
thắt ruột để xanh khoai, hoa cà tím biếc
Mắt con gái mi dài che gió cát
đi tìm em trong kí ức của cha
Gió biêng biếc ngát chiều cửa Nhượng
Bàng bac hoa lau nghiêng xuống lưng đèo
Nước giếng chắt từ Trường Sơn tóc gái quê mươn mướt
Xốn xang con sóng Thiên Cầm
Bao giờ về thăm
sông La em nhé
Ngực thiếu nữ soi vào chiều thiếu phụ
... vào xa xăm
Ngó núi biếc hoa râm
Long lanh mắt trẻ
Một thời trai trẻ của anh...
Đi cùng em ngô khoai nâu mịn thịt da mình
Ngực em thơm khoai quê mình ứa mật
Cát níu chân người tuột dép
Ngập ngừng... tay nắm tay nhau
Trưa Đồng Lộc xanh, xanh nắng trên đầu
Ta nép vào nhau dưới tán cây bồ kết
Đồi hoa sim lá biếc
Rưng rưng em nói điều chi ?
Quê ngoại đấy ư ?
Mấy mươi năm thăm thẳm
Soi hai mái hoa râm giếng quê tĩnh lặng
Múc gầu nước vườn nhà anh gội tóc cho em
2010
Đêm Tây nguyên
Đêm
Chập chờn vật vờ những thoáng qua áo trắng
những hình hài chưa đặt tên
một đêm rất xa
cỏ dại loang một vùng lửa đạn
Ngày ấy ai đã gọi tên em
Đêm chiến trinh
đỏ tàn lửa một ngôi làng tây nguyên xa lắc
Tôi không biết tên em
Như một loài cỏ dại
Khói đạn lúc chiều và hương cỏ mật
em đưa tôi vào cuộc đời đàn ông
Đã rất xa từ đêm cao nguyên ấy
em hiện về chập chờn
không có tên
khoác trên mình tấm váy mùi cỏ dại
Nhớ tây nguyên 2010
Em đi Yên tử
Đi chùa ...em cứ nhớ anh
Mây thẳm ướt vào mắt thẳm
Đường núi cheo leo lá thắm
Tháng giêng lúng liếng môi cười
Núi cao mờ mây mờ gió
tiếng chuông lặn trong thinh không
Tin nhắn lên chùa cùng gió
Nam mô ! em nhớ ! em trông !
Lên cao mây quấn vào vai
Tưởng người hôn vào mái tóc
Nhìn mây vờn núi lả lơi
Nam mô! a di đà phật
Tháng giêng
Gửi người con gái cuối phương trời
Em ở cuối phương trời biển lùa mặn vào giấc mơ con gái
Mẹ à ơi gió thơm ngọn đước ngọn bần
Bông súng xòe trắng trong lòng mình với nắng
Mịn cánh chuồn giản dị nghiêng xuống chiều hôm
Câu lí rơi mỗi nhịp cầu lắt lẻo
Ầu ơ đêm đom đóm hao thức miệt vườn
Vọng cổ ướt áo khăn dậy thì con gió chướng
Câu Kiều bay theo cánh sếu rớt mùa vàng
Từng chiều chiều rơm rạ hong nhánh tóc
Gót chân thon hồng mặt ruộng phù xa
Chái bếp ươm nhọc nhằn niềm khát vọng
Khát vọng đến ngạt ngào hương của chín dòng sông
Làm sao gửi đến nơi em được
Câu ca dao mẹ hát ngọn sông Hồng
Con tàu qua nhà anh còi hét căng lồng ngực
Đến bao giờ tàu chạy tới Cửu Long?
Gió nén cong ngực ra phía biển
Sau lưng em xanh lúa thủa Âu Cơ
Thân con gái trùng trùng lo mẹ thở dài mùa lũ
Cuối trời ơi gió ngát đến bao giờ?
Gửi cho được về miền em long đong lá đước
Hóa bùn thơm ngái đất mỗi bình minh
Nơi có những cơn mưa, nồng nồng châu thổ
Những chiều ơi
Thương em vin câu vọng cổ ướt ngực áo mình
Kí ức quê
Ở cuối trời em làm sao thưa được với sông Hồng
Chỉ mơ mặc áo bà ba quấn khăn rằn hát cho mẹ nghe mười thương điệu lí
Giàn trầu cay ngước mùa dắt dâu em đi xa mẹ
Về tới nhà chồng đâu chỉ có mười thương
Câu vọng cổ buồn từ thủa người đi mở đất
Nước mắt xuống sề mằn mặn khúc ầu... ơ
Thềm lục địa thấm mồ hôi sóng dan dan lá đước
Gửi tới miệt vườn ngan ngát tóc em tôi
Thương nhiều đến thế
Ơi nỗi lòng điệu lí
Chín đợi mười chờ khắc khảm tiếng chim quyên
Em đội tóc nắng trưa, qua cầu lắt lẻo
Cầu soi em nghiêng con cá cũng bồn chồn
Vun kí ức đốt lá vàng vườn mẹ
Áo thị thành sao khóc buổi về quê ?
Lãng đãng bùn níu chân con, em dùng dằng khói quê cay mắt trẻ
Qua cầu rồi ai bỗng gọi tên em
Hà Nội 2009
Nắng Bằng lăng
Ngã vào lòng nhau sáng nao nắng lên hương tím
Vụ lợi chi, ai lí trí với cuộc tình
Em trong sáng anh hóa thành ngây dại
Gục trên gò hoang loang mồ hôi cuồng say
Con đường nhiều gió, nắng trôi như vô cùng
Màu bằng lăng quên cả thời gian tan vào thẳm không
Mình phơi mình cồn cào vào cơn khát
Uống ngụm ngọt ngào em mùa hạ ngoại ô
Ta bò lên đỉnh núi tình yêu
Hổn hển nhặt từng trái mồ hôi biết nói
Em dướn mình ào qua cái nút chặn mấy ngàn ngày tức tưởi
Giọt thơm ứa nhựa máu linh hồn
Ta yêu mùa hạ này em với ngoại ô nắng vàng ơi
Ta cứ mang nhau men theo màu gió
Rồi nhặt nắng ươm lên con đường bụi đỏ
Để được nếm mồ hôi căng trên ngọn ngực người yêu
28/4
VanVN.Net - Đây là tập thơ thứ 2 của nhà thơ cựu chiến binh Nguyễn Trọng Luân, một cây bút làm thơ và viết bút kí khá quen thuộc với bạn đọc của Tạp chí Văn nghệ Quân đội trong những năm gần đây…
Nếu như ở tập thơ đầu tay (Trăng tháng Chạp – Nxb Hội Nhà văn 2009), bạn yêu thơ nhớ đến Nguyễn Trọng Luân bởi những bài thơ nặng về kí ức chiến tranh, ấm ấp tình đồng đội thì trong tập thơ thứ hai này Nguyễn Trọng Luân có vẻ như đã “nhập thế” hơn, mộng mị hơn:
Sao anh không về với em
Đêm thiếu phụ em khỏa thân vào mộng
Thu úa cả sươngđầu mùa giăng men kẻ si tình em xa lắc
Chỉ có đêm em thoát về anh
(Đêm thiếu phụ)
Hoặc tỉnh táo hơn:
Về đón con đi em
Thơ ở phía con nằm mơ ngây ngô nụ cười trở giấc
Cội nguồn thơ là bến đậu bình yên
Ta mải miết chở hồn già nua qua miền cơm áo
Rồi lãng du mộng mị chuốc ưu phiền…
(Về đón con đi em)
Nhưng suy cho cùng anh vẫn chưa làm sao thoát được cái lốt của một người lính từng có quá nhiều kỉ niệm, ẩn ức mang từ cuộc chiến trở về. Thế cho nên dẫu có mộng mơ phút trước: bâng khuâng ngồi trên cát/ biển ngời ngời mà em biền biệt đâu… thì phút sau đã lại tự hỏi mình: Bến ngày xưa đêm xuất kích chỗ nào?/ Nhìn ai cũng thấy quen trưa nay bờ Tùng Luật?
Bài thơ “Uống rượu ngày 30/4” in trong tập thơ này một điển hình cho tâm trạng “lưỡng phân” ấy của những người lính, với họ chẳng có sự hưởng thụ nào là trọn vẹn nếu không nhớ về những người đồng đội đã nằm lại trên những nẻo đường ra trận:
Tôi sẽ uống trong ngày 30/4
Nếu có say xin đừng vội trách
Tôi uống cho đồng đội tôi không về được
Bơ vơ nằm khát giữa rừng…
Thế cho nên mấy anh em cựu chiến binh Tây Nguyên sau khi nghe Nguyễn Trọng Luân đọc thơ đều bảo: “Ông viết cái quái gì rồi cũng lại quay về với cái thời ăn măng rừng đi dép lốp” mà thôi… Thì đó: Hoa cải bãi sông Hồng vàng suốt Trường sơn!
Mặc dù trong tập thơ mới này Luân đã có nhiều bài khá hay về cái miền thơ thứ hai của mình, đó là Mẹ - Quê hương, nhưng cuối cùng thì những gì khiến người đọc có thể thổn thức và ngạc nhiên khi đọc thơ anh vẫn là những khám phá về quá khứ về một tình yêu lớn nhất mà anh đã từng có – tình đồng đội son sắt thủy chung...
Dưới đây là một số bài thơ trong tập thơ “Thơ viết cho mùa thu” của Nguyễn Trọng Luân:
Gửi mùa thu
Anh chen chúc trong dòng người sương mềm sáng tóc thu Hà Nội
Em ở đâu, thương nhớ lung liêng mắt lá vàng
Mùa thu dửng dưng leo từng lâm thâm ô cửa sổ
Biết rằng không có em mà thu cứ vội vàng
Mùa thu tím cả cánh chuồn trên mặt ruộng
Lại sắp mùa chim tránh rét bay qua
Tiếng lạc bạn rớt xuống mùa thu cũ
Manh vó kéo tôm thôi khuấy gió mắt ai chờ
Ngây ngô quá mùa thu sao trở lại
Dẫu bây giờ gió vẫn cứ heo may
Em dìu con qua mưa cuối mùa day rả
Tít trời xa thu có kịp úa cánh vàng
Gửi gió chở thu về miền xa lắc
Chút heo may vừa đủ ấm ngực thơm mềm
Tà áo mỏng khói rơm đồng đất mũi
Sớm thu này Hà Nội nhớ về em
Thu Hà Nội
Đêm thiếu phụ
Sao anh không về với em?
Đêm thiếu phụ em khỏa thân vào mộng
Thu úa cả sương đầu mùa giăng men kẻ si tình em xa lắc
Chỉ có đêm, em thoát về anh
Em ở cuối nguồn anh ở ngọn sông
Em cứ uống như khát con nước nơi anh day dứt nhớ
Kẻ dâm đãng trinh nguyên người tình thiếu phụ
Cuối nguồn em, nhựa ứa sóng vào đêm
Sao anh không một lần ghì chặt núi ngực em
Sao không thể một lần anh thô bạo
Thánh thiện thế để đời thành hư ảo
Hư ảo làm sao có nổi cuộc tình
Thơ cũng chỉ là hư ảo đó mà anh
Chỉ có đêm, đêm trút xiêm y cho thánh thiện
Em khước từ lời yêu thương bằng thơ phiền muộn
Em là em thiếu phụ của đời trần
Đôi dép bạn tôi
Bốn chục năm chẳng quên nụ cười nhau
Giữa trận pháo trong hầm kèo mưa thối đất
Vẫn cãi nhau con Tôm con Tép
Rồi… lao xao bịa chuyện người yêu
Bom đánh vào kiềng đồng đội khiêng nhau
Chôn bạn rồi xin người hi sinh đôi dép
Nức nở hành quân đi về phía trước
Mưa rơi, mưa rơi trắng đất trắng trời
Quê bạn quê tôi cách khúc sông thôi
Bên lở bên bồi mấy nông sâu mòn mỏi
Phía bên bồi cháu con nội ngoại
Bên lở bạn đi hồn vẫn trinh nguyên
Bờ bãi vẫn như xưa xanh lúa xanh khoai
Chờ con mãi không về mẹ đi mùa lũ lụt
Ngày chúng mình lên đường
vỡ đê mẹ chèo thuyền sang huyện
Mái chèo ngày xưa mẹ vẫn gác đầu thềm
***
Chiều nay tôi lại đi thuyền
Sang sông giỗ bạn
Mang đôi dép cao su chĩu nặng
Con thuyền chở cả bốn chục năm
Tháng 7/2010
Cơn giông chiều
Hạ cháy rực con đường xưa mình vẫn đi
Cây cầu ngoại ô chở mệt nhoài lo âu và hò hẹn
bụi ngầu trôi mong ngóng
Ngày xưa vừa qua đã ngái xa
Cánh lá vàng như lửa rơi tàn cuống cuồng cơn giông
Những chiều anh và em đứng nhìn cuồng phong như thế
quấn vào cơn khát em khát cả cơn khát của anh
Thị thành ngầu lên vội vàng như con tim đập gấp
Hạ lại cháy chiều nay em về uể oải
Anh và em xa tàn lá lại rơi đầy
Cơn giông chiều cuồn cuộn lá vàng bay tàn lửa
Em đội nắng đứng trên cầu ngoại ô ngoái về ngày xa
Quê Ngoại
Chưa một lần nói lời yêu
Mấy mươi năm vẫn về quê em như về quê ngoại
Trưa miền Trung nắng cháy
Chè vằng thơm ngọt lịm đường về
Những cánh đồng đất trắng, còng rạp áo tơi
thắt ruột để xanh khoai, hoa cà tím biếc
Mắt con gái mi dài che gió cát
đi tìm em trong kí ức của cha
Gió biêng biếc ngát chiều cửa Nhượng
Bàng bac hoa lau nghiêng xuống lưng đèo
Nước giếng chắt từ Trường Sơn tóc gái quê mươn mướt
Xốn xang con sóng Thiên Cầm
Bao giờ về thăm
sông La em nhé
Ngực thiếu nữ soi vào chiều thiếu phụ
... vào xa xăm
Ngó núi biếc hoa râm
Long lanh mắt trẻ
Một thời trai trẻ của anh...
Đi cùng em ngô khoai nâu mịn thịt da mình
Ngực em thơm khoai quê mình ứa mật
Cát níu chân người tuột dép
Ngập ngừng... tay nắm tay nhau
Trưa Đồng Lộc xanh, xanh nắng trên đầu
Ta nép vào nhau dưới tán cây bồ kết
Đồi hoa sim lá biếc
Rưng rưng em nói điều chi ?
Quê ngoại đấy ư ?
Mấy mươi năm thăm thẳm
Soi hai mái hoa râm giếng quê tĩnh lặng
Múc gầu nước vườn nhà anh gội tóc cho em
2010
Đêm Tây nguyên
Đêm
Chập chờn vật vờ những thoáng qua áo trắng
những hình hài chưa đặt tên
một đêm rất xa
cỏ dại loang một vùng lửa đạn
Ngày ấy ai đã gọi tên em
Đêm chiến trinh
đỏ tàn lửa một ngôi làng tây nguyên xa lắc
Tôi không biết tên em
Như một loài cỏ dại
Khói đạn lúc chiều và hương cỏ mật
em đưa tôi vào cuộc đời đàn ông
Đã rất xa từ đêm cao nguyên ấy
em hiện về chập chờn
không có tên
khoác trên mình tấm váy mùi cỏ dại
Nhớ tây nguyên 2010
Em đi Yên tử
Đi chùa ...em cứ nhớ anh
Mây thẳm ướt vào mắt thẳm
Đường núi cheo leo lá thắm
Tháng giêng lúng liếng môi cười
Núi cao mờ mây mờ gió
tiếng chuông lặn trong thinh không
Tin nhắn lên chùa cùng gió
Nam mô ! em nhớ ! em trông !
Lên cao mây quấn vào vai
Tưởng người hôn vào mái tóc
Nhìn mây vờn núi lả lơi
Nam mô! a di đà phật
Tháng giêng
Gửi người con gái cuối phương trời
Em ở cuối phương trời biển lùa mặn vào giấc mơ con gái
Mẹ à ơi gió thơm ngọn đước ngọn bần
Bông súng xòe trắng trong lòng mình với nắng
Mịn cánh chuồn giản dị nghiêng xuống chiều hôm
Câu lí rơi mỗi nhịp cầu lắt lẻo
Ầu ơ đêm đom đóm hao thức miệt vườn
Vọng cổ ướt áo khăn dậy thì con gió chướng
Câu Kiều bay theo cánh sếu rớt mùa vàng
Từng chiều chiều rơm rạ hong nhánh tóc
Gót chân thon hồng mặt ruộng phù xa
Chái bếp ươm nhọc nhằn niềm khát vọng
Khát vọng đến ngạt ngào hương của chín dòng sông
Làm sao gửi đến nơi em được
Câu ca dao mẹ hát ngọn sông Hồng
Con tàu qua nhà anh còi hét căng lồng ngực
Đến bao giờ tàu chạy tới Cửu Long?
Gió nén cong ngực ra phía biển
Sau lưng em xanh lúa thủa Âu Cơ
Thân con gái trùng trùng lo mẹ thở dài mùa lũ
Cuối trời ơi gió ngát đến bao giờ?
Gửi cho được về miền em long đong lá đước
Hóa bùn thơm ngái đất mỗi bình minh
Nơi có những cơn mưa, nồng nồng châu thổ
Những chiều ơi
Thương em vin câu vọng cổ ướt ngực áo mình
Kí ức quê
Ở cuối trời em làm sao thưa được với sông Hồng
Chỉ mơ mặc áo bà ba quấn khăn rằn hát cho mẹ nghe mười thương điệu lí
Giàn trầu cay ngước mùa dắt dâu em đi xa mẹ
Về tới nhà chồng đâu chỉ có mười thương
Câu vọng cổ buồn từ thủa người đi mở đất
Nước mắt xuống sề mằn mặn khúc ầu... ơ
Thềm lục địa thấm mồ hôi sóng dan dan lá đước
Gửi tới miệt vườn ngan ngát tóc em tôi
Thương nhiều đến thế
Ơi nỗi lòng điệu lí
Chín đợi mười chờ khắc khảm tiếng chim quyên
Em đội tóc nắng trưa, qua cầu lắt lẻo
Cầu soi em nghiêng con cá cũng bồn chồn
Vun kí ức đốt lá vàng vườn mẹ
Áo thị thành sao khóc buổi về quê ?
Lãng đãng bùn níu chân con, em dùng dằng khói quê cay mắt trẻ
Qua cầu rồi ai bỗng gọi tên em
Hà Nội 2009
Nắng Bằng lăng
Ngã vào lòng nhau sáng nao nắng lên hương tím
Vụ lợi chi, ai lí trí với cuộc tình
Em trong sáng anh hóa thành ngây dại
Gục trên gò hoang loang mồ hôi cuồng say
Con đường nhiều gió, nắng trôi như vô cùng
Màu bằng lăng quên cả thời gian tan vào thẳm không
Mình phơi mình cồn cào vào cơn khát
Uống ngụm ngọt ngào em mùa hạ ngoại ô
Ta bò lên đỉnh núi tình yêu
Hổn hển nhặt từng trái mồ hôi biết nói
Em dướn mình ào qua cái nút chặn mấy ngàn ngày tức tưởi
Giọt thơm ứa nhựa máu linh hồn
Ta yêu mùa hạ này em với ngoại ô nắng vàng ơi
Ta cứ mang nhau men theo màu gió
Rồi nhặt nắng ươm lên con đường bụi đỏ
Để được nếm mồ hôi căng trên ngọn ngực người yêu
28/4
VanVN.Net – Như tin đã đưa, ngày 20/10/2011, Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam – nhà thơ Đỗ Hàn, được sự ủy quyền của nhà văn Nguyễn Trí Huân – Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đã ...
VanVN.Net – Như tin VanVN.Net đã đưa, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa ký Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Nguyễn Hoàng Ca (tức nhà văn Nguyễn Thi, Nguyễn ...
VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...
VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...
VanVN.Net – Sáng nay, 06/12/2011, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội), cuộc tọa đàm văn học tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ được tổ ...
VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn