NGUYỄN THỊ KIM – CÁNH CHUỒN KIM BÉ NHỎ
Cuộc sống viên mãn, đủ đầy không đủ sức cám dỗ làm nhạt phai đời sống nội tâm trong chị. Nguyễn Thị Kim luôn khéo léo hóa giải những xét nét, áp đặt của người đời để giữ thuận bền sau trước. Chị như kẻ tu tâm đến độ chín đằm. Như mặt sông phẳng lặng chất chứa đáy sông những âm thầm cuộn sóng, chị không làm phiền ai trong đời thường những bộn bề cá nhân mình. Nhưng chị đã tìm được nơi trút bỏ gánh nặng tâm tư thầm lặng và bình yên nhất – đó là thơ.
Có bao người đã viết về chị và thơ chị, tôi không muốn lặp lại nữa, chỉ muốn nghiêng một chút về đời sống nội tâm của Nguyễn Thị Kim trong tập thơ “Chuồn chuồn kim”. Bài thơ khiến tôi suy nghĩ nhiều về chị là bài “Tôi đi tìm… tôi”. Đây có lẽ là những mật mã đầy ẩn ức trong đời sống tinh thần chị trải. Những ức chế, những kìm nén phải ghìm lại, làm cho chìm đi để chiều lòng đời, chiều lòng người. Chị đã không được sống hết cho mình, cười cũng vì người, khóc cũng vì người, nhưng tự sâu trong thâm tâm Nguyễn Thị Kim không thỏa hiệp, chị luôn khát khao, muốn bứt phá ra khỏi rào cản vô hình, chiếc lồng vô hình ấy. Chị không tuyệt vọng dù thời gian có gieo tuổi tác lên đời, không giới hạn nào làm chùn lòng chị, khi cuộc sống còn, khát khao còn:
Ngày nay sương phủ mái đầu
Biển xanh đã hóa nương dâu vẫn tìm
( Tôi đi tìm… tôi)
Chị đã từng quyết liệt:
Bao năm tôi vẫn đi tìm
Mải mê chắt lọc nổi chìm thế gian
( Tôi đi tìm … tôi)
Và khi trở về già không những không mệt mỏi, buông xuôi mà còn bền bỉ, mạnh mẽ hơn:
Đời người bảy nổi ba chìm
Cả đời lặn ngụp tôi tìm… chính tôi
( Tôi đi tìm … tôi)
Không phải chị nhút nhát hay sợ hãi, nhưng tính cách đã làm nên số phận chị. Nguyễn Thị Kim không vô tình đến mức không cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
Khổ đau dìm chết đắm say
Đêm đêm thao thức tìm ngày mộng mơ
Bao giờ, cho đến bao giờ
Tìm cho được cái dại khờ bấy lâu
( Tôi đi tìm … tôi)
Chị luôn tìm cách thoát khỏi bế tắc tinh thần như thế, trong âm thầm.
Ngẫm đời mây, đời hoa, đời người, Nguyễn Thị Kim càng nhận ra mẫu số chung của của sự tan – hợp, đoàn tụ - chia ly. Và đối nghịch với những sự ấy là sức sống dẻo dai, lâu bền của cỏ, bất chấp quy luật chuyển vần bốn mùa. “Cỏ xanh” là bài thơ không mới nếu so với những bài thơ viết về cỏ của những nhà thơ khác, song Nguyễn Thị Kim đã vượt qua cái ngưỡng nhàn nhạt để bật lên ý tưởng ở cuối bài:
Dịu êm dưới bước chân đi
Xanh ban mai có xanh vì hoàng hôn
Một câu hỏi thấm đẫm nhân tình thế thái. Mà thói đời phù thịnh, mấy ai phù suy?
Nhà thơ Nguyễn Thị Kim là người đa cảm. Với người, chị đã quan tâm là quan tâm đến tận tụy, không nửa vời. Chị là người tinh tế, tinh tế trong cuộc sống thường nhật, tinh tế vào trang thơ. Trong bài “Quả lép” sáng lên tình yêu người và cảm thông của Nguyễn Thị Kim. Thương cảm cho thiệt thòi không được làm mẹ của những nữ thanh niên xung phong, chị hạ bút:
Chị giờ như ngọn cây khô
Quả cho hạt lép gieo mùa được đâu
Lặng chìm vào cõi thẳm sâu
Nhỏ nhoi hạt cát nỗi sầu mênh mang
Cùng chịu hậu quả do chiến tranh để lại, nhưng hố bom, rừng già còn có cơ hội hồi sinh:
Hố bom giờ mướt cỏ non
Rừng già lại trổ xanh rờn bóng cây
Còn các chị đã vĩnh viễn mất đi tuổi xuân của mình, không còn cơ hội làm mẹ. Thế đủ thấy chiến tranh nghiệt ngã quá, dù đi qua nhưng hệ lụy vẫn còn dai dẳng, gặm nhấm bao số phận.
Không thấy từ “nước mắt” gieo trong bài thơ đó nhưng chắc chắn một điều Nguyễn Thị Kim đã vừa chấm nước mắt mình vừa viết bài thơ này. Tôi đã gặp trong đời thực không ít lần nhà thơ như thế khi nói về những số phận không may khác.
Bài thơ “Mùa hoa khế” là bài gây bất ngờ nhiều nhất. Bởi gần như toàn bài thơ là sắc tím lãng mạn của hoa khế và lãng mạn của tâm hồn người thơ:
Tôi không dám giẫm
Ngại tím bàn chân
Và sự bay bổng về tuổi thơ cổ tích:
Mơ về cổ tích
May túi ba gang
Chim giúp kẻ khó
Ăn khế trả vàng
Nhưng nhờ “mơ về cổ tích” mà Nguyễn Thị Kim đi đến một liên tưởng, từ những việc làm và hậu quả của nhân vật trong truyện cổ tích mà lồng ghép vào chuyện thời nay:
Quan tham như nước
Túi đựng vừa thôi
Kẻo qua biển cả
Sã cánh quan rơi
Sắc sảo không phải tính cách của Nguyễn Thị Kim nhưng đôi lúc thêm vào gia vị của ớt cũng không làm khác chị đi là mấy.
Có những năm tháng trong đời Nguyễn Thị Kim đã phải sống héo hon trong nỗi nhớ. Chị đơn độc trong nỗi nhớ:
Nói cùng trăng
Mây ngàn che khuất
Nói cùng mây
Mây khuất sau cây
Bình minh lên
Chưa kịp giãi bày
Đã tròn bóng trưa hè nắng gắt
Hoàng hôn buông
Nghiêng mình cúi nhặt
Vệt ráng chiều vội tắt sườn non
Có lẽ chính vì vậy mà chị thấm thía sâu xa hơn trước những “thờ ơ đồng loại” và “vô cảm nỗi đau”. Trong bài “Chuồn chuồn kim” chị đã trách sự “bay lượn vô tình” của chuồn chuồn kim mà không động lòng, đoái thương đến những số phận không may trong khả năng có thể của mình:
Chuồn kim bay lượn lưng trời
Sao không vá những mảnh đời éo le
Sao không khâu lại ngày hè
Để cho ra rả tiếng ve đêm ngày
Áo đời đã rách không may
Nhởn nhơ mặt nước lượn bay vô tình
Mượn chuồn chuồn kim để trách thói đời vô tâm, vô trách nhiệm với đồng loại, Nguyễn Thị Kim đồng thời cũng bộc lộ thái độ sống của chị. “Chuồn chuồn kim” là một bài thơ chặt chẽ về cấu tứ và bố cục. Không quá lời khi cho rằng đây là bài thơ có sức nặng nhất trong tập thơ cùng tên của chị.
Và khi gấp lại tập thơ “Chuồn chuồn kim” tôi lại nghĩ miên man về chị. Nguyễn Thị Kim – phải chăng chị như cánh chuồn kim bé nhỏ theo nghĩa tích cực nhất hiển hiện giữa thế gian này để hát những điệp khúc tâm tình cho người khác, mải mê và say sưa đến độ khi tỉnh ra mới giật mình thảng thốt “lặn ngụp đi tìm” chính mình.
Với Nguyễn Thị Kim – đi tìm cái tôi của mình chẳng bao giờ là quá muộn. Tìm lại những đắm say, dại khờ, mộng mơ bị dìm trong khổ đau mênh mang ngày tháng. Nguyễn Thị Kim chưa bao giờ có ý định bỏ cuộc. Và tôi tin thời gian sẽ thua chị./.
BẾ KIM LOAN