Chân dung văn

24/7
7:54 AM 2018

VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI: THƠ Ư? SAO PHẢI BẬN TÂM?

A.E. Stallings sinh năm 1968, là nhà thơ, dịch giả người Mĩ, sống tại Hy Lạp từ năm 1999, tác giả của nhiều tập thơ được đánh giá cao và đoạt những giải thưởng văn học có uy tín. Đó là giải thưởng Richard Wilbur cho tập thơ Archaic Smile, giải thưởng Poets’ Prize cho tập Hapax… Hiện bà là giám đốc chương trình thơ của trung tâm Athens.

Tiểu luận-Ừ, không thích thơ thì có sao đâu. Tôi, chẳng hạn, không quan tâm đến thể thao. Người thích cái này, người lại thích thứ kia, như Horace từng nói. Thơ đã tồn tại trước khi có bảng chữ cái (thậm chí có một giả thuyết cho rằng, bảng chữ cái Hi Lạp cổ đại được phát minh nhằm mục đích để ghi lại thơ) và nó cũng hoàn toàn có thể thích nghi với việc phát tán qua mạng internet để đọc trên các màn hình nhỏ, không giống như trường hợp của tiểu thuyết. Tại sao lại cứ phải bận tâm về nó, thậm chí chiều chuộng nó - nước Mĩ có tháng Thơ ca quốc gia (Tháng tư, dĩ nhiên rồi), rồi lại có cả ngày Thơ Quốc tế, cũng như có hàng loạt ví dụ khác về sự lăng xê ồn ào dành cho nó? Thơ không hữu dụng và nó có mặt ở mọi nền văn hóa. Nó không những không bị lâm nguy mà còn sống dai dẳng hơn một số sinh thể trên bề mặt trái đất này. Nó sẽ chỉ lụi tàn cùng với chính loài người chúng ta. Tôi lo âu về báo chí. Tôi không lo âu về thơ ca.


Làm một nhà thơ là một vấn đề phức tạp hơn.
Đó có phải danh hiệu người ta nên khoe, chẳng hạn, tại một bữa tiệc cocktail? Chẳng phải sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ nói rằng, tôi là nhà văn, và rồi tiếp tục câu chuyện? Nếu bạn muốn ngừng một cuộc chuyện trò, bạn luôn có thể nói rằng tôi là nhà thơ. Nếu người nói chuyện của bạn vẫn tiếp tục níu kéo câu chuyện, hỏi bạn câu hỏi đại loại như “Bạn viết thứ thơ gì?” bạn luôn có thể trả lời, “Thơ hay.” Thường cái mẹo này sẽ khiến bạn không phải tiếp tục câu chuyện nữa. Hoặc đôi khi, nếu đây là một đám đông ít nhiều chữ nghĩa hơn, tôi có thể diễn đạt đại khái, “à, thơ có vần ấy mà.”

Những khoái cảm của thơ ca thường mang tính chất khiêu khích, mà có lẽ nó đã luôn luôn như vậy. Những thi sĩ và những gã du đãng thường gắn bó với nhau kể từ Homer và Hesiod (“ăn mày ghét ăn mày, nhà thơ ghét nhà thơ”). Thơ, nằm ngoài những mối bận tâm thương mại, chủ yếu là vì không có tiền trong thơ, và cũng không thích hợp với quyền lực, nó gạt những nhà làm luật sang một bên, chính vì thế, ít nhất, nó cũng xứng đáng có được đặc quyền là không cần phải nhất mực sùng kính nó. Tôi định viết thơ khi tôi đang trốn khỏi một dự án khác - viết văn xuôi như thế này, chẳng hạn, hay dịch thuật. Thơ là nơi tôi chơi, mà cũng là nơi để tôi tìm sự an ủi. Như William Carlos Williams đã từng nói rất hay, trong bài thơ suy tưởng của ông “Asphodel, that Greeny Flower” (Ôi Thủy tiên, bông hoa xanh ấy): “Thật khó/ để lấy ra tin tức từ những bài thơ/ thế nhưng con người ta vẫn chết một cách khổ sở mỗi ngày/ vì thiếu/ cái mà chỉ tìm thấy được ở đó”.

Thực tình mà nói, nỗi lo sợ về sự phổ biến của thơ ca, hay mối ác cảm đối với nó cũng vì cái tâm lí ấy, đối với tôi, như một thứ xa xỉ. Gần đây, tôi có phụ trách một workshop đặc biệt về thơ ca tại một trung tâm ở Athens dành cho những phụ nữ tị nạn - đa số là phụ nữ Afghan, Syrian, Iraq. Đó là một công việc đầy khó khăn, bởi không một ai trong số họ thành thục tiếng Anh; một dịch giả và một ứng dụng dịch thuật trên điện thoại di động giúp chúng tôi nhận diện được những tiếng lóng, những từ rỗng nghĩa hay những kẽ hở ngôn ngữ. Họ sống trong các lán trại, nơi những nhu cầu cơ bản như thực phẩm, chỗ ở hầu như không được đáp ứng. Song họ lại yêu những khả năng của thơ ca. Trong một bài thơ của một nhóm liệt kê những thứ mà từ “nhà” có thể hàm chứa, họ nhắc đến những thứ như nước sạch, nhà bếp, một cái giường thực sự; nhưng họ cũng mong đợi những thứ không thực dụng khác mà bản thân chúng là dấu hiệu của việc là con người: âm nhạc, hoa hồng, cá vàng, những cuốn sách. Một vài người trong số họ đã chạy trốn khỏi những vùng do Taliban cai quản, nơi bản thân những bài hát bị cấm đoán. Những gì chúng tôi đang làm không phải là thứ Thơ ca viết hoa, mà tôi nhìn thấy ở đó một nỗi khát khao trữ tình về cái đẹp và quyền năng của ngôn từ, và mong muốn được nói lên điều ấy ở ngôi thứ nhất.

Tôi nhận ra mình đã nói về thơ mà không định nghĩa nó. Tôi vẫn thường thích nói về “văn vần”, để thực tế hơn, thứ mà phát triển đến một trình độ nhất định, có thể sẽ trở thành Thơ. Cả A.E.Housman và Emily Dickinson đều đã định nghĩa về thơ bằng những triệu chứng của nó: đọc thơ có thể làm cho tóc bạn dựng ngược hay có cảm giác ai đó như nhấc đầu bạn lên lơ lửng. Coleridge định nghĩa thơ như là những từ hay nhất được đặt trong một trật tự hợp lí nhất (mặc dù tôi cho rằng những áng văn xuôi xuất sắc nhất cũng đáp ứng được tiêu chí này). Thơ có phải là cảm xúc được con người nhớ lại trong tĩnh lặng? Một cỗ máy được làm bằng ngôn từ? Tất cả những định nghĩa này đều mô tả được một vài khía cạnh quan trọng của nó. Song có lẽ định nghĩa mà tôi yêu thích về thơ lại được lẩy ra từ một trò chuyện suồng sã trong cuốn tiểu thuyết Middlemarch của George Eliot, giữa Fred Vindcy, một nhân vật có phần tai tiếng với bà chị thích bon chen của mình Rosamond. Rosamond đã nghiêm khắc phản đối việc Fred dùng một cụm từ được xem là tiếng lóng. Fred đáp lại.

“Mọi sự chọn lựa từ ngữ đều là tiếng lóng hết. Nó đánh dấu đẳng cấp.”
“Có một thứ tiếng Anh chuẩn mực: Đó không phải là tiếng lóng.”

“Xin lỗi chị: Tiếng Anh chuẩn chính là thứ tiếng lóng của cái đám ra vẻ ra đây, những kẻ viết sử và viết tiểu luận. Còn thứ tiếng lóng mạnh nhất trong tất cả chính là tiếng lóng của bọn nhà thơ.”

Tôi thích định nghĩa này vì từ “tiếng lóng” (slang), vốn rất mơ hồ về nghĩa, xét từ góc độ từ nguyên, bản thân nó đã thể hiện sự bất kính, hàm chứa khả năng khiêu khích, đó là thứ văn vần của cái thế tục. Thơ là thứ tiếng lóng mạnh nhất trong tất cả.
 
HẢI NGỌC dịch từ nguyên bản tiếng Anh

Nguồn: Văn nghệ Quân đội

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *