Chân dung văn

11/5
8:46 AM 2016

Người suốt đời “bận lo làm người”

Nhà thơ Hữu Loan có ý định xuất bản một tập “Thơ Hữu Loan” với 40 bài do đích thân cụ tuyển chọn từ năm 2004, tức là cách ngày cụ chào thế gian đi về cõi thiên thu 6 năm trước, sau khi bài thơ độc nhất vô nhị “Màu tím hoa sim” của cụ được Công ty Viek VTB mua bản quyền với giá 100 triệu VNĐ. Vẫn chỉ là tin đồn vậy thôi, đến nay chưa ai thấy mặt mũi hình hài của tập thơ đâu cả. Dù vậy tài thơ cùng những đóng góp của cụ cho cách mạng thì không ai có thể phủ nhận được.

                                                                                         Nhà thơ Hữu Loan (nguồn Internet)

Một nhân cách đáng kính trọng

Có người bảo rằng, đối với giới văn nhân, Hữu Loan là người có tính cách đặc trưng nhất của sĩ phu xứ Thanh Hoa. Tên thật của cụ là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2/4/1916 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cụ là một trong số ít người thời ấy theo học Thành chung ở Thanh Hóa và sau đó thi đỗ tú tài tại Hà Nội. Trong Hữu Loan tự thuật, cụ cho hay: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền vào Huế hoặc ra Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5- 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và… tôi- Nguyễn Hữu Loan,...

Sau khi thi đỗ tú tài, cụ đi dạy học và là một trong những người sớm giác ngộ cách mạng, nên đã tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936 và Mặt trận Việt Minh ngay sau đó ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, cụ được phân công về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê hương Nga Sơn, cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Hữu Loan được phân công giữ chức Phó Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn.

Tuy nhiên, từ trước năm 1945, cụ đã từng làm cộng tác viên của nhiều tập san Văn nghệ ở Hà Nội. Có lẽ vì thế, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hữu Loan được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ 1946, cụ tham gia quân đội nhân dân Việt Nam, phục vụ trong Đại đoàn 304. Cụ đã kể lại: Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ (mẹ vợ tương lai), tôi đã lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em (Lê Đỗ Trọng Ninh, nhân vật người vợ mới cưới trong bài thơ Màu tím hoa sim) theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại... em vẫn đứng yên đó... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa,...

Ba tháng sau khi cưới, cụ nhận được tin dữ người vợ rất đỗi yêu quý của mình đã qua đời! Cụ nhớ lại: Em chết thật thảm thương. Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, huyện Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại trong tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Nỗi đau mất người vợ trẻ cụ phải giấu kín trong lòng, không giám cho đồng đội biết cốt để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Oái oăm là càng nén, thì nỗi đau ấy lại càng trào sôi lên một cách dữ dội. Nhân trong một lần chỉnh huấn chuẩn bị bước vào chiến dịch mới, cấp trên cho phép mọi người bày tỏ tâm sự của mình. Chẳng cần phải suy nghĩ lâu la gì, những câu thơ khóc người vợ quá cố mộc mạc cứ thế trào ra. Và chính nhà thơ cũng không thể nào ngờ những câu thơ ấy sau này có thể trở thành một bài thơ bất hủ, vượt thời gian và trường tồn hơn cả người làm ra nó. Đấy chính là bài Màu tím hoa sim

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, nhà thơ Hữu Loan về công tác tại Báo Văn nghệ cho đến giai đoạn 1956-1957, khi phong trào Nhân văn giai phầm bùng phát do Phan Khôi chủ trương, cụ Hữu Loan là người tham gia tích cực và bị coi là một trong số những người đi tiên phong của phong trào này. Đến năm 1958, sau khi phong trào Nhân văn giai phẩm bị dập tắt, nhà thơ Hữu Loan cùng một số người khác phải vào trại cải tạo vài năm, sau đó được thả về địa phương dưới sự quản thúc của chính quyền sở tại cho đến đúng 19 giờ ngày 18 tháng 3 năm 2010 cụ đã trút hơi thở cuối cùng tại nơi chôn rau, cắt rốn của mình, hưởng thọ ở tuổi 94.

Và một hồn thơ vượt thời gian

Thực ra nhà thơ Hữu Loan sáng tác thơ từ khoảng cuối những năm 30 đến giữa những năm 50 của thể kỷ trước, khoảng trên 15 năm. Hiện những bài thơ của cụ được lưu truyền không nhiều, khoảng trên dưới chục bài: Đèo Cả, Màu tím hoa sim, Ngày mai, Đêm, Hoa lúa, Chiếc chiếu, Yên Mô,... Nhưng có lẽ nổi bật nhất và là đặc trưng cho phong cách thơ Hữu Loan là các bài Đèo CảMàu tím hoa sim. Hai bài mang hai phong cách thơ hoàn toàn khác nhau, có thể là đối lập nhau, nhưng vẫn nằm trong thể thống nhất của một tài năng thơ lớn.

Đèo Cả là bài thơ, theo tôi được biết cho đến nay đây là bài thơ ra đời sớm nhất của Hữu Loan. Cụ đã viết vào năm 1946, khi mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mới bắt đầu, nhưng giọng thơ đã vang lên sang sảng, oai hùng như khí phách của người lính xung trận giữa đèo mây mù sương vùng miền núi phía Tây Phú Yên hiện lên rất rõ:

Núi cao vút

Mây trời Ai Lao

sầu

đại dương

Dặm về heo hút

Đá bia mù sương

Bên quán

Hồng Quân

người

ngựa

mỏi

Nhìn dốc ngồi than

thương ai

lên đường...

Tóc tai

Trùm

vai rộng

Không nhận ra

người làng

Rau khe

cơm vắt

áo

pha màu

sa trường,...

Những người nông dân mặc áo lính của chúng ta bước vào cuộc chiến còn mang theo hào khí của Cách mạng tháng Tám, trong tư cách của người chiến thắng, người dân của một nước vừa giành được độc lập. Dù phía trước còn bao khó khăn gian khổ tưởng chừng như vượt quá sức chịu đựng không chỉ đối với riêng người lính nơi mặt trận, mà còn cả với một dân tộc vừa mới giành được chính quyền về tay nhân dân vào thời điểm lúc ấy:

Ngày thâu

vượn hót

Đêm canh

gặp hùm

lang thang...

Giặc

từ trong

tràn tới

Giặc

từ Vũng Rô

bắn qua

Đèo Cả

vẫn

giữ vững

Chân đèo

máu giặc

mấy lần

nắng khô,...

Những người lính vẫn ngẩng cao đầu hiên ngang bước vào cuộc chiến thì chúng ta mới thấy hết niềm tự hào về Cách mạng tháng Tám cũng như chiến thắng Điện Biên phủ sau này.

Khó khăn gian khổ là thế, vậy mà:

Sau mỗi trận thắng

Ngồi bên suối đánh cờ

Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắ

Người vá áo thiếu kim mài sắt

 Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu

Suối mang

bóng người

Trôi những về đâu.

Có người cho rằng những khoảnh khắc như thế này là sự lãng mạn cách mạng của những người lính chống Pháp năm xưa, mà sau này trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và nhất là hiện nay chúng ta thấy thưa vắng dần đi cái cảm hứng ấy. Cũng là phải thôi, thi hứng bao giờ cũng là sản phẩm của một thời khắc, một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi cái thời khắc, giai đoạn ấy qua đi, thời đại lịch sử mới sẽ đem lại cho thi ca cảm hứng sáng tạo mới, phù hợp với thời đại lịch sử mà nhà thơ sống và sáng tác, đấy cho chuyện hoàn toàn dễ hiểu.

Nhưng theo tôi, khoác lên cho thơ Hữu Loan nói riêng và thi ca của thời kỳ chống Pháp nói chung cái áo lãng mạn cách mạng là cách nói đại ngôn, gán ghép mang màu sắc chính trị cơ hội cho thi ca giai đoạn này. Bởi lẽ, nếu như có thể so sánh giữa hai cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây và chống Mỹ sau này, chỉ xét về khía cạnh con người và những điều kiện vật chất, mà ở đó con người sống, chiến đấu, lao động và sáng tác văn chương thì chúng ta hoàn toàn có thể nhận ra sự khác biệt rất rõ giữa hai giai đoạn văn chương ấy, đặc biệt là về phong cách sáng tạo. Nếu thơ ca chống Mỹ tỉnh táo, khôn ngoan, có phần uốn éo và giả tạo bao nhiêu, nói một chiều, nhằm một hướng đích, thì thơ ca thời kỳ chống Pháp lại mộc mạc, chân thành, nhưng đầy tính chất sáng tạo bấy nhiêu. Thơ chống Pháp gần với con người hơn xét ở khía cạnh bản thể nhân văn, còn thơ chống Mỹ lại gần với những mục tiêu mà con người cần hướng tới.

Theo thiển nghĩ cá nhân, Đèo Cả là một trong những mẫu mực sáng tạo của thi ca thời kỳ chống Pháp với một cách nói và lối viết phóng túng, mà vẫn rất chân thật, không cầu kỳ, vòng vo uốn éo như sau này. Đèo Cả xứng đáng là cái gạch nối rất chuẩn giữa thơ ca truyền thống và thơ mới, ảnh hưởng của thơ Pháp thời kỳ trước 1945. Và hơn thế nó hoàn toàn hợp với tính cách và cái tạng cương cường của người thơ Hữu Loan. Có thể nói chỉ cần Đèo cảMàu tím ha sim cũng đủ để làm nên một thương hiệu thi ca mang đậm phong cách Hữu Loan không trộn lẫn vào đâu được, sống mãi với thời gian./.

ĐỖ NGỌC YÊN

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *