Từ đời vào văn

31/10
4:29 PM 2016

NGÔ THẾ TRƯỜNG – MỘT SỨC VÓC THƠ

Văn Chinh - (Đọc tập thơ “Những lỗ vuông” của Ngô Thế Trường, NXB Hội Nhà văn, 2016)

Tôi biết Ngô Thế Trường đã lâu, thỉnh thoàng uống rượu cùng với nhiều người khác, nhưng xong là xong. Rượu giúp con người gắn nhau rất nhanh, nhưng cũng xóa nhanh chóng vì chả còn nhớ gì sau mỗi lần giã rượu.

Người khiến tôi nhớ Ngô Thế Trường chính là Đặng Huy Giang. Thỉnh thoảng Giang hay đọc thơ bạn bè. Giang đọc:

Núi như người tình lớn

Đè nghiêng chiều Quy Nhơn (Quy Nhơn, trong tập Thơ biển)

Tôi giật mình hỏi, thơ ai vậy? – Ngô Thế Trường. Cái ông tóc bạc, béo tốt ấy à, còn nhớ câu nào của ông ấy thì đọc đi cho đỡ nhàm cái buổi trưa ồn ào chém gió cho hả rượu.

Khi thích tôi đã thành ngư phủ vỗ trộm mông người đàn bà bạc hạ

(…) Khi bực tức điên điên

Tôi đã cho vợ  xuống biển tắm với sóng

(Mụ còn bơi giỏi hơn tôi)

Nhưng chưa bao giờ tôi là thằng đàn ông xảo trá

Dễ quên những đêm nằm trên bụng vợ

Mụ đàn bà đã sinh cho tôi những đứa con

Hay quá, thơ nói về lao động, về bình dân lam lũ mà hay. Đến khi nghe Đặng Huy Giang đọc:

Núi không cao

Đáy biển không sâu

Một Phú Quốc cởi trần trên sóng

Núi Trường Sơn dằng dặc đến đây nằm (Phú Quốc, trong tập Thơ biển)

thì tôi lập tức thuộc. Hôm nay ngồi chép lại, chỉ sai mỗi chữ thằng thành ra chữ người. Chữ thằng mới là lời của một ngư phủ uống rượu, nó khiến câu thơ vạm vỡ. Mà vạm vỡ là cái thấy trước hết ở thơ Ngô Thế Trường. Chỉ có yêu nước với tinh thần sở hữu và yêu tự do tuyệt đối thì trong con người nhu mì khiêm nhường kia mới có nổi câu thơ Một Phú Quốc cởi trần trên sóng/ Núi Trường Sơn dằng dặc đến đây nằm. Nó gợi nhớ đến câu thơ Lý Bạch: Ngắm nhau không biết chán/ Chỉ ta với (núi) Kính Đình và câu Cao Bá Quát: Đỉnh núi này đã đẹp/ Còn thêm ta đến đây. Tôi thích thơ Ngô Thế Trường từ đấy. Và nay, tập Những lỗ vuông vừa mới ra lò, tôi liền đọc ngay, cắm cổ đọc, đọc xong mùi thơm mực in vẫn chưa phả hết.

Thật khó có gì hơn biển để so sánh với Tự do. Bầu trời ư? Có thể rộng hơn đấy, nhưng mỗi khi mơ tưởng, ta lập tức bị cái tấm thân dăm bảy chục ký níu lại, nên cấp độ tự do cao lắm là thành con cá mòi xếp trong các ngăn tủ Boeing, chỉ có biển chẳng những nâng nổi dăm bảy chục ký thân xác ta, lại còn tạo cảm giác ta hòa vào với biển. Cũng khó có ẩn dụ nào về Tự do hơn hình ảnh ngư phủ, như Bà Đầm Xòe chỉ là bà Đầm Xòe khi xung quanh bà là bao la vịnh New Yook, không bị ống khói và nhà chọc trời vây bủa. Phải vậy chăng mà ở tập này, Ngô Thế Trường vẫn dành phần lớn lượng cảm xúc cho ngư phủ, đẩy anh ta rướn hết cái tầm của của cái đẹp. Đây là vẻ đẹp của ông chủ biển khơi trong thi liệu suýt chết vì giông bão:

Cũng giống Giêsu dang hai tay rộng

Nhưng khác Giêsu không nghẹo cổ trên cao

(…) Anh tự làm Giêsu cho những con tàu

Cho mỗi kiếp người sống đời gió bão

Giêsu nằm ngang trên mặt đất bằng (Giêsu kiếp vạn chài)

Tự do không xin cho, không mua bán nổi. Tự do là tự làm Giêsu của chính mình. Tự do là không lấy tự do của mình che khuất đồng loại, ngược lại, mặt trăng đẹp miên man trong văn chương kim cổ, nhưng cứ lâu lâu lại thành Trăng máu nhớp nhúa do cả đời mình sáng được là nhờ mặt trời:

Sự đối nghịch của trăng là vòng quay thiên nhiên sinh lực hút

Sự đối bóng của người là che khuất chính nhau

Những lỗ vuông chia làm hai phần, phần I, có tên Cát giữa lòng tay, gồm những mảnh thạch anh tri thức, trí tuệ, chiêm nghiệm. Phần I nhìn sâu vào bên trong. Phần II nhìn ra bên ngoài, có tên: Tiếng vĩ cầm.

Nhìn sâu vào bên trong, thấy vẻ đẹp của con người huyền bí, bất tận. Nhưng cái đáng bàn đến nhất lại nằm ở chỗ, vẻ đẹp bên trong của mỗi con người lại vừa tương tác với người bên cạnh vừa tương tác với vũ trụ, như là ảnh chiếu, như là người thứ ba triết học làm chứng cho hạnh phúc  con người:

Va chạm vĩnh hằng vũ trụ

Không va chạm không vũ trụ

(…) Thăm thẳm sâu đôi mắt

Va chạm kinh hoàng si mê tình ái

Hơn cả sự va chạm của tay của tóc

Hơn cả sự va chạm của môi và môi

Dẫu va chạm của môi trào nhiều dịch ngọt

Đê mê

Rúng động mọi tế bào (Va chạm)

Bài Hương là sự khẳng định không cần ánh sáng:

Hương không bóng, không hình

Rõ ràng và đích thực

Từ thiện thêm nhân hậu mỗi con người…

 Bài Mầu đêm sâu hơn, đến mức nghi ngờ ánh sáng – cũng tức là nghi hoặc cả tập quán, thói thường của con người:

Dưới ánh sáng mặt trời

Người thấp có thể dài hơn người cao

Người cao có thể ngắn hơn người thấp

Thước đo người không thể bằng ánh sáng

luôn di chuyển theo những góc xiên

Mặt đất đo chính xác người nằm…

 

Thời chúng ta, phong bì gấp lại chứa một mầu đêm

Thành bộc phá không thể lường hết được…

Và bao nhiêu thời nữa

Loài người pha được mầu đích thực của đêm!

 Nghi ngờ đến cả ánh sáng, vậy nhưng khi thỏa hiệp thì lại thỏa hiệp theo cách làm sang trọng hóa cho con người; làm thi vị hóa một triết học, nén Đại dương lại thành lòng Mẹ - nơi sinh nở nuôi dưỡng bào thai Người:

Loài người sinh ra từ nước

Nước sinh ra từ đâu

Tuy không rõ nhưng vẫn còn dễ chịu

Hơn vạn lần từ vượn khỉ tiến lên ta

Ta mãi là ta mà sao ta không chịu nhận

Ta chỉ là con của mẹ ta thôi

Một đại dương bé nhỏ hơn cái thúng

Dưỡng sinh chín tháng mười ngày…

     Và thật thú vị, ở chỗ tác giả còn đang loay hoay với nhận thức, ta bất chợt gặp tư tưởng thẩm mỹ minh bạch của nhà thơ. Hình tượng nghệ thuật cái bào thai bơi Tự do trong dung môi đại dương lòng Mẹ, gợi nhớ đến satna bố mẹ sinh ra nó trong Tự do, còn gợi nhớ đến Tuyên ngôn của cụ Hồ: Con người sinh ra trong Tự do!

      Con người sinh ra trong Tự do là hình tượng nghệ thuật giúp con người soi chiếu, làm thước đo không chỉ cho hạnh phúc mà còn cho cả bất hạnh nữa. Những câu thơ tố cáo tình dục không tình yêu, cắt nghĩa sự sinh sôi không Tự do khiến ám ảnh bẽ bàng sau đây trích ở Những hạt sương cánh đồng

Giọt nước mắt đêm nào cũng nhỏ

Tội chi đêm khóc thầm…

Tội chi dòng sông nghẹn nấc…

Cánh đồng như người đàn bà nằm im hứng chịu

Sinh ra hạt thóc, củ khoai

Sinh ra sông ngòi, cua cá

 Và khi Tự do thành tình yêu, nó có thể làm run rẩy Những viên đá lát ở Thành Rôma sau mấy ngàn năm lấy máu chiến binh, máu thánh chiến, máu thần quyền thay nước cho thời gian mài đá:

Những viên đá đượm mầu suy nghĩ

Xám xanh như xếp kiếp người

 

Nâng bước chân thiếu nữ

Dìu dặt bên người yêu

Ăn kem và hôn nhau…

 

Thành Rôma

Rưng rưng từng viên đá…

       Đây là một tứ thơ không hoàn toàn mới, nhưng nhờ cách cấu tứ độc đáo bất ngờ, tứ thơ thành mẫm mạp; như dao chém đá, như một tuyên ngôn. Thắp hương người cũng đến được chỗ chênh vênh giữa thiện và ác, giữa quá khứ tối tăm với tương lai bền vững của con người. Ma trên sông Bạch Đằng, ai cũng biết vì sao người thành ma, nhưng đã là ma, lại là ma cô hồn lạc xứ thì ta thắp hương cho:

Trăng sáng Bạch Đằng Giang

Thắp nén nhang thương người dưới sóng

Bữa nhậu người - ma sàn thuyền trải chiếu

Một người đổ bóng, một người không

Một người lặng im, một người khấn lạy

Người ngắm trăng, người ma hù gió

Người nhậu, ma say sóng đội thuyền…

  Và thật bất ngờ, tứ thơ từ khổ thơ kết bay lên phần phật nhân văn:

                           Đừng vít thuyền ta nữa ma ơi

Có khơi xa mới bắt thêm nhiều cá

Mai bán chợ chài mua chuối nải

Thắp hương người không lạy hương ma!

         Tôi thích cách bố cục tập của Những lỗ vuông, minh bạch từng chủ đề. Có thể hình dung, phần I như là câu chuyện chiêm nghiệm của những người từng trải, bên bàn nhậu, bàn trà, ngồi cạnh nhau trong một chuyến bay. Họ chia sẻ với nhau về các vẻ đẹp khác nhau, như những hạt cát tùy ánh sáng mà ánh lên sắc mầu hình thù của Tự do và Tình yêu. Phần II, Tiếng vĩ cầm nghe có vẻ Tây, thì cũng đúng là cuộc chia sẻ của vẫn chủ thể cũ, bình luận hay trầm trồ về thế sự bên ngoài. Cố nhiên, trong thế giới phẳng bây giờ, mỗi va đập của thế giới chúng ta đều nghe rất rõ, cảm giác như là chuyện của người nhưng có thể đến với ta vào bất cứ lúc nào. Ấy là chuyện Brexit ở Anh, là chuyện Ba mươi lăm phút ở Thổ Nhĩ Kỳ nói về cuộc gặp gỡ bên lề, chớp nhoáng giữa Barack Obama với Putin sau cuộc đánh bom ở Pháp làm rung chuyển thế giới; là chuyện Đôi bạn tình ở Mỹ: chú chó Zeus đã tru réo gọi người cứu cô chó nhân tình Athena bị mắc chân ở hàng rào sắt suốt 2 ngày giời mặc cho trời lạnh buốt, câu chuyện tình cảm động khiến xôn xao nước Mỹ. Kể gì thì kể, nhiều chuyện khác nhau, nhưng sự vâm váp của hồn thơ, của cách cấu tứ vẫn rất Ngô Thế Trường. Bài Nguyên mẫu Tự do là cách ông định nghĩa về Tự do: Ông nói về bà mẹ của nhà điêu khắc Frederic Auguste Bartholdi, bà Char Lotte Beysser Bartholdi và là cảm hứng để tạo nên chân dung Nữ Thần Tự Do. Và, mặc cho mọi người nôn nao đi tìm tự do trên đất Mỹ, Ngô Thế Trường viết:

Tự do ở nước Mỹ

Tự do ở nước Pháp

Ở Ai Cập, ở Trung Hoa

Ở trên khắp trái đất nếu ở đó có mẹ của anh!

          Bài Tôi không sợ IS kể về hoa hậu Iraq:

Nếu không gia nhập IS

Tân hoa hậu Shaymaa  Qasim Abdeloahman sẽ bị bắt cóc

Lời đe doạ của IS chưa bao giờ là lời nói suông!

 

…Tôi là phụ nữ Iraq

Khẳng định sự tồn tại xã hội

Mạnh mẽ như đàn ông

Tôi hạnh phúc khi Iraq dần tiến về phía trước

Thế giới cần biết người dân Iraq vẫn tồn tại

Trái tim chúng tôi chưa bao giờ ngừng đập

Chúng tôi thuộc về phía văn minh

Chúng tôi bỏ mạng khăn che mặt…

 

… Là đại sứ của đất nước yêu một nghìn đêm lẻ

Những chuyện tình tuyệt vời có phụ nữ trong đêm

Những đường cong ân ái

Không đẹp của riêng ai

Tôi không sợ IS

Những điều tôi làm không hề sai…

Mỗi phụ nữ Iraq đều là hoa hậu của tương lai!

       Bài thơ không chỉ là tuyên bố của cô hoa hậu Shaymaa  Qasim Abdeloahman, nó còn là tuyên ngôn kiêu hãnh của cái đẹp, của nhà thơ – nơi hồn thơ ông thuộc về, vâng, Cái Đẹp và Tự do. Thế giới còn nguyên đó những tai ương khiến chúng ta không thể bàng quan: Chiến tranh xâm lược, cuộc chiến khủng bố, lại xuất hiện một loại giặc có tên là giặc môi trường đã diệt chủng Những con cóc vàng ở Costa Rica – loại giặc mà ở thế kỷ XX Việt Nam chưa từng biết tới, bên cạnh những bất công có từ thời nguyên thủy, do chủ nghĩa thực dân cũ và mới gây nên, chúng chỉ coi con người như Mèo và chuột trong phòng thí nghiệm:

 Chú mèo trắng xếch tai con chuột bạch

Mèo ngắm nhìn ngơ ngác mắt chuột hồng

(…) Rồi chúng hiểu đều có mầu lông trắng

Cũng ở trong phòng thí nghiệm như nhau…

           Thơ Ngô Thế Trường yêu ghét đều quá khổ, yêu đến Núi như người tình lớn/ Đè nghiêng chiều Quy Nhơn; ghét đến mức kêu gọi mọi màu da, mọi cựu ân thù truyền kiếp, đều phải cùng nhau nhận thức lại thực tại, nhằm tự cứu lấy mình, ghét cũng quá khổ quá tải đến thế thì đúng là một sức vóc vậy! Nhưng nói thế sự những đẩu đâu rồi trong câu chuyện nhân loại vẫn cứ xen cài câu chuyện Việt. Bài Chảy cong có mặt ở phần II đầy ẩn dụ:

Jessica Minh Anh, siêu mẫu quốc tế của Việt Nam

Cô gái những show catwalk không tưởng trên dòng sông Seine nước Pháp                                                                                                 

                 Chiếc áo dài vuốt cơ thể cong chảy rung động kinh đô ánh sáng

       Rồi cơ thể cong của người con gái Việt cùng xiêm áo rực rỡ trong các show thời trang – bước đi trên những cây cầu nước Anh, nước Mỹ, nhà thơ chạnh lòng nhớ đến cây cầu lịch sử:

Cầu Hiền Lương hai mươi năm phải sơn hai màu

Một nửa sơn hồng

Một nửa sơn xanh

         Và kết trong giai điệu như nghẹn lại:

Cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải

Vẫn chờ một show catwalk thống nhất

Về sự đoàn tụ dòng chảy cong…

           Đi trên nỗi đau cũ, bằng những bước đi đẹp và rực rỡ thì đến được tương lai vững bền. Ấy cũng là nhiệm vụ là khát vọng muôn đời của thơ. Cũng vậy, nhưng trên một bình diện khác, bài Những lỗ vuông được dùng làm tên tập gợi nhớ Tagor: Cuộc đời hôn lên ta bao nỗi đắng cay/ Nhưng vẫn có quyền đòi ta cất cao lời hát. Ký ức tích tụ từ những lỗ vuông bên bờ sông Tam Bạc, từng gây tủi buồn tê tái, mà khi vào thơ lại thành một ký ức đẹp và không thể phai mờ. Nó cần đọc cả bài, vì với tôi, nó như một định nghĩa thơ, như một nội hàm của định danh nhà thơ:

Trên cao là cửa sổ

Dưới thấp tuổi trẻ tôi qua ngang

Những lỗ vuông xộc xệch xếp hàng

 

Đêm đêm xe kéo

Dăm ba phu phen quấn kín áo mưa

Mùi bẩn bay dài phố…

 

Tôi đưa em qua sông

Đò chèo xiên nước nổi

Những lỗ lùi xa nhập thành Tam Bạc…

 

Chúng tôi lấy nhau

Kỷ niệm yêu đương có những lỗ vuông

Mưa ướt đoàn thuyền trú bão

Những lỗ cu ly uể oải

Những hình vuông dị dạng

Mầu cặn đáy sông

Màu gạch úa thời gian sứt sẹo…

 

Những lỗ trên cao nhiều hơn

Những lỗ vuông sát đất mất dần

Nhưng bức tranh Tam Bạc thủa xưa

Treo mãi

Hằn những lỗ vuông…

        Những lỗ vuông khi còn ở dạng bản thảo, được nén trong file Thơ – 2015, tức là hầu như nó được làm trọn vẹn trong năm này, giữa những lo toan kiếm sống hay bia rượu cùng bạn bè. Như thế, có thể coi 2015 như một bước chuyển quan trọng của thơ Ngô Thế Trường, sức vóc hơn, nhuần nhị hơn. Xin chúc mừng ông!

     

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *