TẬP THƠ “TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN” CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN-GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 2016
20 BÀI THƠ TRONG TẬP THƠ “TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN” CỦA NHÀ THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN-GIẢI THƯỞNG HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 2016
NHẬT KÝ MỘT NHÀ BÁO
Anh dành cho mình vài phút xa xỉ
Sau một ngày làm việc
Được ngồi một mình với cốc bia
Giữa những người xa lạ
Thành phố đang mưa
Đám mây trong đầu anh
Và ngọn lửa nghi ngại
Chiếc bàn uống nơi anh ngồi
Ướt và bẩn
Vài phút xa xỉ anh dành cho mình
Sau cơn giông
Anh không biết gì về những người xung quanh
Họ đang uống cũng như anh ngẫm ngợi
Trời mỗi ngày một tối
Và mưa mau hơn
Những đứa trẻ bán báo rong trong thành phố này
Cũng giống những đứa trẻ lang thang phía bên kia lục địa
Và, anh - người làm báo
Viết gì về trẻ thơ
Chiến tranh và cái đói
Tuổi thơ rét mướt
Anh đã từng đi qua
Giờ này
Bên cạnh chiếc máy chữ của anh
Đất đai đang cày xới
Những hạt giống được ngâm ủ trong bùn
Để sinh ra thứ ánh sáng tốt tươi
Và anh
Kẻ nông phu cần mẫn
Thức dậy mỗi sớm mai trên cánh đồng ngôn ngữ
Bởi niềm tin lành lặn
Ở con người
NHỮNG NGÔI CHÙA TRONG ĐÊM
1
Mẹ đang cầu nguyện
mỏi mòn chuỗi hạt tháng năm
bóng mẹ in trên vách thời gian
như pho tượng tạc bằng nước mắt
Mẹ bảo: nước mắt ban ngày chảy xuôi đánh thức những ngôi đền
còn ban đêm nước mắt chảy ngược vào trong
thấm đến một miền đức tin cứu rỗi
bởi thế
trên gương mặt thời gian
trên gương mặt người đời
nước mắt không bao giờ ngừng chảy
rồi mẹ bảo: có ngôi đền chỉ làm bằng nước mắt
rồi mẹ bảo: có ngôi đền chỉ xây bằng đức tin
rồi mẹ bảo: có ngôi đền làm bằng lời cầu nguyện
rồi mẹ bảo: chiều xuống rồi về nhà đi con
2
Mẹ ơi !
đám mây lành kia là con trai của mẹ
dẫu ánh ngày đã tắt
mẹ vẫn nhận ra con dưới mái nhà này
mẹ vẫn nhận ra con
mùi mồ hôi bé bỏng quen thuộc
khi con chạy về từ một tuổi thơ xanh xao, còm cõi vì chiến tranh
cho đến ngày đám mây lành kia
dừng lại
trước một ngôi chùa
3
Một ngôi chùa
lặng lẽ nở trong đêm
như một đoá sương trong vắt
khi những bông sen
như búp tay nhân từ của Đức Phật
đang lẳng lặng vén bóng đêm u ám
trên gương mặt nhẫn nhục của con người
trong một tiếng chuông sâu
4
Suốt đêm gió lạnh về
những pho tượng trầm ngâm trên bệ đá
các ông có thể bị cảm lạnh
vì dưới mái đêm này
chỉ còn duy nhất một ngọn nến mong manh
các ông suy ngẫm gì khiến bóng đêm mất ngủ
các ông dằn vặt gì làm bóng đêm đăm chiêu
suốt đêm gió lạnh về
nến đã tắt và các ông vẫn nín lặng như thế
suốt đêm gió lạnh về
nến đã tắt và các ông vẫn trầm ngâm như thế
ngước nhìn thế gian
5
Ở nơi cao sang nhất
hay ở nơi thấp hèn nhất
người luôn ở bên ta
người luôn nhìn ta với ánh mắt bao dung nhẫn nại
để hướng thiện và nâng đỡ ta lên
và có nhiều khi người chẳng nói gì cả
người chỉ lặng lẽ thấm vào ta:
như hư vô thấm vào hư vô
như vật chất thấm vào vật chất
như hơi thở thấm vào hơi thở
như phù sa thấm vào phù sa
như niềm tin thấm vào niềm tin
6
Miệt mài và bền bỉ
trong đêm
tiếng mõ tụng
con đường thiền bền bỉ
mỗi bước chân là một tiếng mõ
ngân lên thăm thẳm dưới sao trời
ngân lên
tiếng đất thở phập phồng trong tượng đất
ta không phải là hoàng hôn nơi bùn lầy
ta là phù sa của hy vọng
ngân lên
tiếng gỗ thở trầm tư trong tượng gỗ
ta là ngọn gió diệp lục của đại ngàn
ta không phải rêu tối dưới thung sâu
miệt mài và bền bỉ
tiếng mõ trong đêm
không tự nhận mình là đại ngàn
không tự ví mình là hy vọng
chỉ ngân lên
thăm thẳm dưới sao trời
7
Tiếng hát đều đều và chậm rãi của người
như nước chảy trong đá
như trăng soi trong đá
như máu thức trong đá
Tiếng hát mệt mỏi và tha thiết của người
đưa bàn tay lại gần một bàn tay
đưa ánh mắt lại gần một ánh mắt
đưa con người lại gần một con người
Và chúng ta cất bước trên đường thẳm
trong tiếng hát đều đều và chậm rãi
trong tiếng hát thiết tha và mệt mỏi
hướng đến những ngôi chùa trong đêm
nơi máu thức trong đá
nơi trăng soi trong đá
nơi nước chảy trong đá
8
Mẹ ngồi, hai vạt áo nâu
Hương ba nén thắp, khói cầu nguyện bay
Ngoài khuya tiếng vạc khô gầy
Sao dăm mảnh vỡ, gió day dứt lùa
Nghe như vọng tự ngàn xưa
Trong sương khói tiếng mõ chùa đêm đêm
Những ai trở lại thiên nhiên
Lánh đời về dưới cửa Thiền những ai
Đức tin ở một ngày mai
Những tượng đất hát, những đền đài thiêng
Đạp qua khổ nhục oán hèn
đạp qua dục vọng, cháy lên Niết Bàn
Đêm nay, ba nén hương tàn
Nước trong một chén, kinh ngàn lời ru
Mẹ tôi vạt áo nâu xưa
Tay thành kính chắp, khói mờ dương gian
VỀ KHỔ ĐAU VÀ ĐẠI BÁC
Đại bác nổ và chiến tranh ụp xuống
Những mảnh vườn hôm trước nở đầy hoa
Bên ô cửa là cánh đồng lặng ướt
Tiếng trẻ con và khói những căn nhà
Đại bác nổ và mây đen cũng nổ
Trên ngói trường tan tác gió và chim
Có người lính vừa đi qua thành phố
Thuốc trên môi và trẻ nhỏ bên mình
Đại bác nổ và tiểu liên đốn gục
Những chàng trai vui tính nhất sư đoàn
Trên môi họ nụ cười còn thoáng gặp
Cô gái nào chiều ấy đợi bên sông
Đại bác nổ cuộc chiến tranh thứ nhất
Đất chiến hào cỏ chưa kịp nhú xanh
Thì lựu đạn và lưỡi lê cường tập
Lần thứ hai cỏ lại thấm máu mình
Đại bác nổ giữa đại ngàn trận mạc
Người lính đi thăm thẳm một phương trời
Người vợ ấy đã bao năm thầm lặng
Sống vì anh nuôi đứa trẻ nên người
Đại bác nổ và pháo hoa thắng trận
Không làm cho tóc bạc những mẹ già
Xanh trở lại một thời xưa yên ấm
Tóc bạc người, Tổ quốc, đứa con xa
Họ sinh ra không phải để làm lính
Đứa con nào của mẹ cũng vậy thôi
Bởi sữa mẹ nghìn năm không giọt đắng
Và hoà bình là vú mẹ bên nôi
Sau đại bác lửa hoa cương trầm lặng
Cháy trên mồ người chiến sĩ vô danh
Rất có thể các anh là mây trắng
Nước của sông, ngọn gió sớm mai lành
Và đại bác xin cúi đầu tưởng nhớ
Những người con bất diệt đã quên mình
Vì xứ sở ngàn đời mây trắng
Vẫn ngàn đời bất diệt giữa cỏ xanh
CÁC ÔNG TIẾN SĨ Ở VĂN MIẾU
Nửa đêm. Trên gác. Khuê Văn
Thoảng. Nghe có tiếng. Thơ ngâm. Lạ thường
Giọng thơ. Đau đáu. Xót thương
Lại. Nghe có khúc. Đoạn trường. Sẻ chia
Những con rùa. Đá cõng bia
Ngàn ông tiến sĩ. Vinh quy. Chốn này
Nửa đêm. Ở. Miếu đường. Đây
Hình như. Có tiếng các thầy. Gọi nhau
Mấy ông.Tiến sĩ. Bạc đầu
Lên. Khuê Văn Các. Cùng nhau. Chuyện trò
Chuyện đất nước. Chuyện văn thơ
Chuyện hưng thịnh. Các triều vua. Xứ này
Ngàn năm. Bao cuộc. Đổi thay
Mà Văn Miếu. Vẫn. Còn đây. Lạ kỳ
Đêm nay. Vằng vặc. Đá bia
Khói hương. Đón. Các ông về. Dưới trăng
Các ông. Theo trẻ. Dung dăng
Sờ. Đầu rùa đá. Chơi. Dăm ván cờ
Sang. Nhà Thái học. Đọc thơ
Cả Quốc Tử Giám. Nằm. Mơ. Dưới trời
Nhưng. Rồi lác đác. Sương rơi
Miếu Văn. Bỗng. Vắng bóng người. Lại qua
Lặng yên. Bia đá. Trăng tà
Các ông. Đợi. Một tiếng gà. Sang canh
Đợi lâu. Mới gặp. Mộng lành
Các ông. Liền hoá thân. Thành đá bia
Công lao. Dân. Nước. Còn ghi
Ngàn năm. Bia đá. Nói gì. Mỗi đêm
TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi
Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình goá phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm hoạ
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng
Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước *
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi
(Trại viết Văn nghệ Quân đội Hạ Long 4-2009)
----------
* Mới đây người dân huyện đảo Lý Sơn đã tìm thấy một sắc chỉ của
vua triều Nguyễn năm 1835 cử dân binh ra canh giữ đảo Hoàng Sa
GA HÀNG CỎ
DỌC ĐƯỜNG NAM BỘ
Thưa mẹ
ba mươi ba năm trước
tiễn con đi từ ga Hàng Cỏ
Mẹ về
nước mắt dọc đường Nam Bộ
đứt từng khúc tầu đêm
Ba mươi ba năm sau
ga không còn Hàng Cỏ
phố không còn Nam Bộ
con của mẹ
vẫn mãi mười tám tuổi
như chuyến tầu ngày ấy không về
Mẹ ở lại một mình
không phố
không ga
không tất cả
còn gì để nhớ
ga Hàng Cỏ dọc đường Nam Bộ
Thưa mẹ
hôm nay bàn chuyện thơ đi về đâu
trong con vẫn còn một chuyến tầu
ba mươi ba năm trước chưa trở về
phải chăng vì thế
những câu thơ bây giờ
vẫn phải lên đường
làm một cuộc ra đi
TỔ QUỐC LÀ TIẾNG MẸ
Tổ quốc là tiếng mẹ
Ru ta từ trong nôi
Qua nhọc nhằn năm tháng
Nuôi lớn ta thành người
Tổ quốc là mây trắng
Trên ngút ngàn Trường Sơn
Bao người con ngã xuống
Cho quê hương mãi còn
Tổ quốc là cây lúa
Chín vàng mùa ca dao
Như dáng người thôn nữ
Nghiêng vào mùa chiêm bao
Tổ quốc là ngọn gió
Trên đỉnh rừng Vị Xuyên
Phất lên trong máu đỏ
Bao anh hùng không tên
Tổ quốc là sóng mặn
Trên cồn cào biển Đông
Cát Hoàng Sa ghi hận
Đá Trường Sa tạc lòng
Tổ quốc là tiếng trẻ
Đánh vần trên non cao
Qua mưa ngàn, lũ quét
Mắt đỏ hoe đồng dao
Tổ quốc là câu hát
Chảy bao miền sông quê
Quan họ rồi ví dặm
Nước non xưa vọng về
Tổ quốc là tiếng mẹ
Trải bao mùa bão giông
Thắp muôn ngọn lửa ấm
Trên điệp trùng núi sông
ĐẤT NƯỚC
Chúng đã
ngủ
cả rồi
những
con hươu
bị bóng đêm
săn đuổi
chúng
đang
gác cặp sừng
lên vầng trăng
cuối tháng
rồi nằm mơ
về
một cánh rừng
không có thuốc đạn
và súng săn
Họ
đã
ngủ cả rồi
những người lính
bị chiến tranh
săn đuổi
họ nằm mơ
gặp lại bầy hươu
gác sừng
lên
người bạn vô danh
trên cánh rừng
đã chết
Chỉ còn lại
vầng trăng
và giấc ngủ
chỉ còn lại
dấu vết cuối cùng
của bầy hươu bị săn đuổi
chỉ còn lại
câu thơ thầm lặng
về những người
đã ra đi
chỉ còn lại
những gì
không còn lại
bởi
người
đau đớn nhất
sau chiến tranh
không ai khác
ngoài mẹ
của chúng ta
những đứa con
không trở về
hoà bình
dưới
mưa phùn
được đắp
bằng
cỏ non
và nước mắt
*
Đêm đêm
những người con
ngỡ đã đi thật xa
đang lặng lẽ
trở về
họ lẫn
vào gió
vào sương đêm
không cần an ủi
họ chẳng ồn ào
như lời ca
sôi sục
ngày ra đi
họ còn nguyên
tuổi trẻ
những người lính
chưa
tiêu phí
một xu mơ ước
chưa
tiêu hoài một đồng
thanh xuân
họ trở về
tìm lại
trang sách học trò
đêm đêm
còn thao thức
trên
cánh đồng tiếng Việt
ngàn năm
Mẹ lại thấy
chúng con về
như cánh cò
tuổi thơ lưu lạc
đã bao ngày
phải xa rời
thôn ổ yêu thương
chúng con
trở về tìm lại
giọt nước mắt
xót xa
và đắng cay của mẹ
một bên
là núi sông
ngăn cách
còn bên kia
là bóng đêm
chiến tranh
vẫn biết
đạn bom
không có mắt
vẫn biết
hận thù không thể
phân biệt nổi
đâu là hoa sen
và
đâu là bùn tối
nhưng các anh
vẫn phải ra đi
các anh
phải ra đi
lời ru
chùa Tây Phương
những La Hán mặt buồn
người thợ mộc
xứ Đoài
lấy thân xác
hom hem của mình
làm mẫu vẽ
ba mươi sáu
dẻo xường sườn
réo rắt
tấu lên
bản đàn tam thập lục
người gẩy đàn
thì
đau đớn
mà bản nhạc
viết cho đàn
lại reo vui
*
Mẹ
đã sống
dưới mưa phùn
ảm đạm
những ngày dài
nghèo đói
quắt quay
Mẹ thiếu sữa
sinh
đứa con thiếu tháng
Tổ quốc
xanh xao
Tổ quốc
hao gầy
Mẹ
có mặt
trong dòng người
nhẫn nại
lặng lẽ xếp hàng
từ mờ sớm
tới đêm hôm
Mẹ lần hồi
thời cơm tem
gạo phiếu
nuôi lớn
những người con
rồi
gửi tới chiến trường
Mẹ đã khóc
lúc rời ga
Hàng Cỏ
những đoàn tầu
hun hút
tuổi hai mươi
một thế hệ
hồn nhiên
không biết chết
chưa từng yêu
khi
gục ngã
cuối trời
Mẹ ở lại
với sông Hồng
tần tảo
áo phù sa
lam lũ tháng ngày
câu quan họ
cất
trong bồ thóc cũ
sông Cầu trôi
như
một tiếng thở dài…
*
Tàu
xuyên đêm
tiếng gió xé
bánh xe lăn
quần quật
đêm nay
họ trở lại
một thời gian lao
đường vào nam
hun hút
những chuyến tầu
máu rất đỏ
tuổi hai mươi
nằm lại
câu hát bảo:
tuổi hai mươi
những người đi trẻ mãi
câu thơ bảo:
đất nước
hình cánh võng
mẹ ru ta
và ở
hai đầu đêm
võng mắc
dọc rừng già
trăng
cũng sốt rét rừng
như ta sốt
trăng mất máu
như bạn ta
thủa trước
dọc cánh rừng na-pan
sông
Thạch Hãn
nước
mùa này
còn ấm
và các anh
trong suốt
những người
hy sinh
thời gian lao
mây
Quảng Trị
mùa này
vẫn một mầu
huệ trắng
trên Cổ Thành
như ngày
các anh
ngã xuống
những người hy sinh
thời gian lao
Và
mưa gió
Trường Sơn
mùa này
vẫn tắm gội
những người con
nằm lại
thời đất nước
gian lao
những cánh rừng
cuối thu
ngủ dưới mưa phùn
đất nước tôi
những người
nằm trong đất
chất phác như bùn
hồn nhiên như cỏ
buồn đau
không còn thở than
những ngọn sóng đất đai
lưu giữ
mọi thăng trầm
người chép sử
ngàn năm
là bùn đất
kiên trì
và nhẫn nại
máu của người
là
mực viết thời gian
NGÀY ĐẠI TƯỚNG ĐI XA
Hơn cả
Quốc tang
Khi người dân
quỳ khóc
Trước Linh xa người
Phút
Đại tướng đi xa
Chỉ khi ấy
Non sông này
mới biết
Lễ Dân tang
Nước mắt
của muôn nhà
Xin Đại tướng
cứ vui lòng
yên nghỉ
Trời quê hương
vẫn ấm áp
mây lành
Đất quê hương
chở che như tình mẹ
Biển quê hương
con cháu vẫn giữ canh
Xin Đại tướng
cứ mỗi ngày
hiển hiện
Một Điện Biên
trong Quốc sử
ngàn đời
Để quét sạch
những bạo thù xâm lược
Non sông này
ngàn thủa
vẫn sáng soi
Xin Đại tướng
một lần
và mãi mãi
Triệu người dân
nức nở
tiễn đưa người
Khi mây trắng
chỉ một lần
mây trắng
Nâng cánh bay
đưa người
về quê mẹ xa xôi
Thưa Đại tướng
lòng dân từng thấu hết
Những nỗi đau trần thế
chẳng dễ gì
Nhưng người đặt non sông
trên tất cả
Mọi tỵ hiềm
danh lợi với quyền uy
Thưa Đại tướng
Hoành Sơn nơi người chọn
Núi vươn mình
trước mặt sóng biển Đông
Và Đại tướng
người lính già vẫn thức
Suốt một thời trận mạc
với non sông
Người vẫn thức
ngay cả khi yên nghỉ
Một tượng đài bất tử
giữa lòng dân
TỔ QUỐC NƠI BIÊN THÙY
(Tưởng nhớ những chiến sĩ hy sinh ở biên giới 1979-1984)
Mùa này biên giới hoa sim
Tím quanh mộ chí im lìm các anh
Bao người lính trận vô danh
Hiến dâng đất nước tuổi xanh của mình
Lặng thinh không thể lặng thinh
Trước bao xương máu hy sinh giống nòi
Quên ư ! không lẽ quên rồi ?
Đường lên biên giới một trời hoa sim
Mầu hoa chẳng chịu lặng im
Lẫn vào sỏi đá thắp nghìn nén hương
Mùa này biên giới đầy sương
Có ai trở lại chiến trường về thăm
Vị Xuyên, Phong Thổ, Đồng Đăng
Các anh ngã xuống trẻ măng thủa nào
Các anh nằm dọc chiến hào
Từng cây số máu trên cao nguyên này
Trong tầm lựu đạn ném tay
Trong khe ngắm của những cây súng thù
Hòa An mây núi âm u
Đường lên Bản Giốc mịt mù còn nghe
Các con dưới cỏ xanh rì
Chỉ thương tóc mẹ bạc về trắng đêm
Các con như cỏ hồn nhiên
Xanh thăm thẳm mọc dọc miền bao la
Ta là con của phù sa
Cha là đất nước. Mẹ là quê hương
Còn nghe máu thấm biên cương
Mây buồn Lũng Cú. Đêm trường Nam Quan
Ta là con của Việt Nam
Theo cha xuống biển tự ngàn năm xưa
Lên rừng thờ mẹ Âu Cơ
Đem xương máu dựng cõi bờ hôm nay
CẨM THẠCH VÀ CỎ XANH
1
Bức tượng ấy được dựng bằng cẩm thạch
Mắt xa xôi người góa phụ buồn rầu
Giai điệu xám ngân rung trong đá lạnh
Những nốt trầm mặc tưởng nữ nhân đau
Cũng đá này, người tạc cánh chim câu
Cánh khao khát đập qua bao thế kỷ
Trên bóng đêm chiến tranh đục ngầu
Tự do trắng bay lên không tàn phế
Cũng đá ấy được tạc thành bia mộ
Nhạc khúc buồn tưởng niệm một thời qua
Những họng súng hành trình cùng bão tố
Máu của người và khói đạn chiến xa
Hỡi cẩm thạch xin đừng là bia mộ
Tuổi xuân người đâu chỉ máu và hoa
2
Cỏ từ đất và lưỡi lê trên đất
Những gót giầy xâm lược cắm toàn đinh
Rơi từ mắt và cháy lên từ mắt
Giọt lệ đen, ngọn lửa rực hờn
Nhưng cỏ biếc không chỉ là nước mắt
Chảy trên mình trái đất những dòng xanh
Bị nghiến nát ở dưới vòng bánh xích
Những xe tăng và đại bác tự hành
Những con người gục ngã giữa chiến tranh
Giờ cỏ đã rờn xanh trên ngực họ
Dẫu ngày xưa lưỡi lê và giày đinh
Bước khốc liệt họ xéo dày lên cỏ
Hỡi những ai đã yên nằm dưới mộ
Cỏ bốn mùa xanh một khúc ru
Hỡi những ai chưa phải nằm dưới đó
Đừng làm đau một ngọn cỏ bao giờ
SÔNG
Đã nghe
sông chảy mệt rồi
Thực hư năm tháng còn đôi bờ này
Một miền ảo ảnh sương bay
Một miền nhân ảnh
tỉnh say mù mờ
Ta mang trong ngực câu thơ
Tuần hoàn nhịp đập máu đưa về nguồn
Ta mang trong ngực cách buồm
Khát khao sông bể vẫn còn hoang mang
Mai rồi cập bến nhân gian
Người như sông - mộng vẫn còn chan chứa hoài
Sông thao thức suốt đêm dài
Thương quê
sóng cũng chảy hoài như ta
Suốt đời sông lấm phù sa
Để người thơm thảo người là cỏ cây
Biết đâu ta cũng vơi đầy
Như sông trồi sụt tháng ngày nắng mưa
Sông thao thức tự ngàn xưa
Ta như sông chảy mãi chưa gặp mình
Qua bao ghềnh thác vô tình
Chảy hoài sông nước đã thành bao la
Một mai về với biển xa
Nước sông rồi cũng mặn mà thân quen
Sông thao thức chảy còn em
Em thao thiết với một miền không mưa
Đêm nay sông đã ngủ chưa
Để ta làm sóng ta đưa sông về
CHỈ CÒN THƠ
VÀ NỖI CÔ ĐƠN CON NGƯỜI
Tặng Bế Kiến Quốc
Như được vẽ bằng khói thuốc lá
Gương mặt một người bạn
Mũi gồ lên dưới tròng kính trắng
Hai bàn tay lúc nào cũng ướt
Không có sự lựa chọn nào khác
Ngoài thuốc lá và thơ
Bạn chọn cả hai không bao giờ từ bỏ
Mười tám tuổi
Bạn nhìn đâu cũng thấy anh hùng
Họ nhiều hơn
Số người sống và người chết cộng lại
Nhưng nếu trừ đi tất cả
Bằng một phép tính giản đơn
Thế giới này chỉ còn lại cỏ
Và một điều gì đấy
Mơ hồ giống như thơ.
Ngoài năm mươi tuổi
Bạn vẫn tin yêu con người
Nhưng bắt đầu hoài nghi những đám mây không tưởng
Riêng đám mây khói thhuốc bạn mang trong ngực
Cứ mỗi ngày một âm u
Bạn mong muốn hàn gắn thế giới này
Bằng niềm tin ngây thơ
Bởi nếu không tin yêu con người
Chúng ta còn gì để mơ ước
Nhưng có nỗi đau không cách gì chữa được
Chỉ còn thơ và nỗi cô đơn con người.
Sau tất cả mọi cô đơn
Tôi tin vào điều ấy
Không phải bởi ngày qua thấy bạn trên giường bệnh
Gương mặt tái nhợt cố nở một nụ cười khó khăn
Như muốn nói: tôi không thể nghỉ ngơi
Khi bài thơ đáng viết nhất vẫn đang còn phía trước
Nhưng bạn đã từ bỏ cõi sống này vào một sớm mai.
Nơi có những nỗi đau không cách gì chữa được.
Chỉ còn thơ và nỗi cô đơn con người.
Sau tất cả mọi cô đơn.
TỰ HỎI
Mắt anh nhìn như thấy
Mây đen dọc chân trời
Cuốn anh vào lốc xoáy
Muốn vùi sâu con người
Anh đã gượng đứng dậy
Từ hố thẳm cuộc đời
Với vết thương rách nát
Câu thơ nằm trên môi
Tóc anh như quầng lửa
Thao thức bao đêm dài
Bao đêm anh thầm hỏi:
Tổ quốc này của ai?
Dẫu không ai trả lời
Chỉ niềm tin anh biết
Trong trái tim mỗi người
Tổ quốc là bất diệt
Tổ quốc không thể chết
Mưa Trường Sơn mùa này
Bao người lính thủa ấy
Lẫn vào mưa vào cây
Tổ quốc nơi biên ải
Bao người con không về
Các anh nằm giữ đất
Hồn thiêng sông núi che
Tổ quốc nơi sóng cả
Máu Hoàng Sa nghẹn lời
Còn gửi muôn uất hận
Đến Trường Sa khôn nguôi
Tổ quốc của tất cả
Những người Việt hôm nay
Mang tình yêu đất nước
Vượt muôn trùng đắng cay
TIẾNG VĨ CẦM Ở SEN ĐAI
Cả thành phố bị san bằng sau động đất
rồi sóng thần
rồi phóng xạ
những vụ nổ trong đêm
tiếng vĩ cầm cất lên
bất chấp bánh và đồ ăn trong siêu thị đã hết sạch
nước không đủ dùng
điện không đủ dùng
những mái lều tạm cư trong tuyết lạnh
Nhưng tiếng vĩ cầm
vẫn bay lên như có cánh
trên nước Nhật đau thương vào tháng năm này
trên mênh mông đổ nát hoang tàn
trên những dòng người xếp hàng chờ suất ăn miễn phí
trật tự và không hỗn loạn
tất cả bên nhau để cùng sống sót
sức chịu đựng và niềm tin của các bạn
khiến thế giới phải nghiêng mình
Tiếng vĩ cầm cất lên
trên mùa hoa anh đào
khi ba mươi đứa trẻ ở một ngôi trường nhỏ
sáu ngày sau thảm họa sóng thần
vẫn chờ mẹ cha đến đón
có tiếng vĩ cầm nào đến được với các con không ?
Trên xứ sở này
tiếng vĩ cầm từng bay lên
trước đó nửa thế kỷ
ở Hyroshima và Nagasaki
nơi hai chiếc nấm khổng lồ của bom nhiệt hạch
đã cướp đi mạng sống của hơn hai mươi vạn người trong khoảnh khắc
có tiếng vĩ cầm nào đến được với họ không ?
Nhưng các bạn đã vượt lên đau thương để tồn tại
như tiếng vĩ cầm trên màu hoa anh đào
trong thảm họa hôm nay
là một phần máu thịt của nhân loại bị tổn thương
đang gửi tới các thế kỷ mai sau
bài học lớn lao về sức sống của hy vọng
bởi màu hoa anh đào vẫn thức đêm đêm trong tuyết lạnh
sưởi ấm nỗi cô đơn và tuyệt vọng của con người
Cả nhân loại vẫn ở bên các bạn
tiếng vĩ cầm của đau thương và chia sẻ
đang thức tỉnh phần còn lại của thế giới này
khi màu hoa anh đào còn đọng máu tới hôm nay
HOÀN KIẾM HỒ
Hồ đã ngàn năm tuổi
Mà nước chưa chịu già
Đền Ngọc Sơn ngói cũ
Sóng bên đình Trấn Ba
Gươm đã trả lại thần
Từ sáu trăm năm trước
Mà rùa thiêng tới giờ
Vẫn đội mây đạp nước
Trầm ngâm một ngọn tháp
Viết gì lên trời xanh
Chữ thành mây bay hết
Bao người thơ khuyết danh
Cầu vẫn còn Thê Húc
Mỗi ban mai Kiếm Hồ
Soi mặt gương cổ kính
Gặp Thăng Long ngàn xưa
Trên Hoàng thành phát lộ
Những dấu tích đền đài
Hồn xưa trong ngọc nát
Bao vương triều tàn phai
Sau một trăm năm nữa
Ta thành cổ nhân rồi
Sau năm trăm năm nữa
Trăng trên hồ còn soi
Sau một ngàn năm nữa
Ai mượn gươm cho người ?
MỘT GÓC THIÊN ĐƯỜNG
(Tặng Nguyễn Khắc Phục)
Người văn ấy đang hạnh phúc
Tiếng trẻ bi bô
Như kẹo vãi khắp nhà
Trang viết của anh ấm mùi giấy kẹo
Ký ức anh thơm tho mùi kẹo
Và một thiên đường mở ra
Người thơ ấy đang hạnh phúc
Sau nhiều năm mê mải vật lộn với kịch trường và văn trường
Chiều nay anh thanh thản ngồi nghe vợ hát
Con sẻ nâu rưng rưng rước mây ấm về nhà
Và một thiên đường mở ra
Người bạn ấy đang hạnh phúc
Dẫu hơi thở sền sệt trong cơn đau âm ỉ
Anh cố giấu chính anh
Trong bức tranh sơn mài của hy vọng
Màu dâng lên
Và một thiên đường mở ra
Chỉ một thao thức với thiên đường vừa mở ra
Sau nhiều đau đớn tuyệt vọng
Để gặp một thiên đường khác
PHỐ PHÁI
Mùa đông chim sẻ phố bay rồi
Cây phố tần ngần phố nhớ ai?
Sương bay vào tóc sương chưa bạc
Đã trắng mây khua những dặm trời
Lá rụng mùa ơi! rụng nốt đi
Trên bàn tay vắng dấu chân khuya
Tôi nghe hơi phố không còn ấm
Mà lửa đèn đêm thức nhớ gì?
Chim sẻ mùa đông phố vắng em
Bụi mờ sương bạc gáy sách đêm
Lật từng trang nhớ không người hát
Khát khát thơ tôi cháy cháy tìm
Heo hút mưa về xao xác đêm
Long Biên cầu cũ ngủ không đèn
Kéo sông lên đắp đôi bờ phố
Thương sóng sông còn tận Phà Đen
Phố Phái quanh co lúp xúp nhà
Đầu Ô Quan Chưởng bóng cây già
Đội sương từ thủa còn thành đất
Thăng Long ngàn tuổi vẫn bên ta
Phố Phái rêu nâu váng vất còn
Tường bong gạch rạn bóng ngày buông
Hè chiều lá phố khua từng chiếc
Mấy giấc mơ xưa chẳng chịu mòn
Phố Phái tìm gì ta mải thức
Hồn trong tranh phố chẳng nguôi yên
Long đong mong thắp trong vô tận
Những sầu đã lặng nhạc đã quên
Trên bờ phố cổ cây đàn vỡ
Em mãi hoang vu những bãi bờ
Nhạc như thi, hoạ ta trần thế
Em đoá môi sương khép cánh chờ
Mai Lâm phố cũ chiều không cũ
Ta dưới trăng về chẳng gặp trăng
May còn chút lá bàng năm cũ
Nhạc ở trên cây mới vĩnh hằng
Sớm nay ngoài phố trăm dáng áo
Trăm sắc mây về dưới tán cây
Ngỡ như chim sẻ nghìn tay áo
mơ thấy xuân về rối rít bay
Còn chờ ai nữa hỡi bờ cây
Dưới mưa nụ lá mướt xanh ngày
Bâng khuâng phố cổ thềm xuân nhắc
Một giấc đông tan dưới ánh ngày
MƯA THỦY MẶC
Mưa trên sông vắng
Văng vẳng tiếng đàn cầm
Từ dưới sông vọng lên
Người con gái cầm đèn lồng đi trên sông kia
Có phải Kiều nương không?
Ta hỏi mưa, mưa cũng hỏi lại ta
Ta hỏi sông, sông cũng hỏi lại ta
Ta hỏi mình: Kiều nương- có phải nàng không?
Chiếc thuyền mưa đang phiêu bạt trong mưa
Kiều nương vừa vén mưa ngồi lên chiếc thuyền ấy
Cây đàn mưa bần bật ngón tay mưa
Điệu ru mưa trên ngực đàn phấp phỏng
Bức tranh thơ trong mưa
Nàng mới vẽ còn ướt
Mưa thủy mặc trên lụa mấy trăm năm
Những ngón tay thon dài
Những búp đàn thon dài
Những búp chân thon dài
Mưa là tiếng thở dài trên lụa
Lụa là tiếng thở dài của đêm trên sông vắng
Còn đêm là tiếng thở dài của mực nho
Mực nho, mực nho
Tiếng thở dài của nước
Không hiểu Nguyễn Du có viết truyện Kiều bằng mực nho
Mực nào chẳng là mực
Nhưng ta vẫn muốn Nguyễn Du viết truyện Kiều bằng mực ta
Có ai yêu nước mình bằng ông chủ báo Nam Phong cách đây hơn nửa thế kỷ:
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”
Mưa thủy mặc và tiếng thở dài trên lụa của máu…
HỌ BỊ BẮN TRÊN CAO MƯỜI NGÀN MÉT
(Tưởng niệm 3 mẹ con chị Nguyễn Ngọc Minh và 295 nạn nhân trên máy bay MH17)
Ba gương mặt, ba nụ cười thanh thản
Ba mẹ con giờ đã ở cuối trời
Họ trong sáng như bao người vô tội
Trước bọn độc tài đưa tội ác lên ngôi
Ba gương mặt, ba niềm tin đã mất
Khi lương tri tắt lặng giữa cõi người
Ba gương mặt, ba vầng trăng đã khuất
Cùng nỗi đau không thể nói thành lời
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Đây nỗi đau hai chín tám con người
Họ rơi xuống cánh đồng hoa vàng rực
Mắt nhắm nghiền, cháy bỏng mãi không nguôi
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Những người dân vô tội đến cuối đời
Không thể hiểu vì sao mình phải chết
Khi đang bay thanh thản dưới mặt trời
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Các thiên thần bé nhỏ mới rời nôi
Những phụ nữ rạng ngời trong hạnh phúc
Bên trẻ thơ trong giây phút cuối đời
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Hoa hướng dương vàng rực một góc trời
Những người chết bên hoa vàng đã ngủ
Một mặt trời đau đớn tắt trên môi
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Những búp bê, những gấu vải tươi cười
Chúng nhằm bắn vào những trang cổ tích
Bắn cháy luôn cả mơ ước con người
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Máu bật ra thấm đỏ một vùng trời
Hoàng hôn đỏ trên máu người rực đỏ
Hãy lặng yên nghe máu nói từng lời
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Kẻ vô lương bắn họ, trốn đâu rồi ?
Khi tội ác thản nhiên ngồi ăn tối
Trên cánh đồng la liệt xác người rơi
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Những đám mây nhuộm đỏ máu con người
Cứ bay mãi trong vòm trời phẫn nộ
Giữa hồn người đang sống chẳng yên nguôi
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Như hoa vàng, nắng rụng, cuối chiều rơi
Trước khi chết, hoa vẫn vươn cánh thắm
Để hồn hoa tươi lại phía mặt trời
Họ bị bắn trên cao mười ngàn mét
Miền bạch dương hoá mộ táng lưng trời
Trong mây đỏ, trong hoa vàng rực nở
Hãy lặng yên tưởng nhớ những con người…
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ THƠ NGUYỄN VIỆT CHIẾN
NHÀ THƠ ANH NGỌC
“… Không chỉ đọc nhanh, chỉ đọc lướt qua, chẳng hạn các đầu đề và một số câu gần như tình cờ, thì tôi đã có trong đầu cái điều mà tôi định nói về thơ Nguyễn Việt Chiến, không phải về tất cả, vì nó rất phong phú, mà chỉ về cái phần mà tôi quan tâm nhất, ấy là: Nguyễn Việt Chiến là một người sống và làm nghề có ý thức. Những vấn đề cấp thiết của đời sống - mà một số trong đó mang tính vĩnh cửu - được anh quan tâm nồng nhiệt, luôn giành cho chúng vị trí hàng đầu trong thơ mình.
Đó là những suy nghĩ và cảm xúc mang tính công dân, mang phẩm chất của con người xã hội. Ở đây, Nguyễn Việt Chiến vừa tiếp tục làm công việc của các thi sĩ thuộc thế hệ chiến tranh trước đây, vừa đề cập kịp thời đến những vấn đề nóng bỏng của đất nước và dân tộc hôm nay. Và bằng chất giọng sử thi vốn có, chỉ với một bản tráng ca Tổ quốc nhìn từ biển, Nguyễn Việt Chiến đã cắm lên một ngọn cờ trang trọng, trong rừng cờ của thơ ca đang tung bay trên ngọn sóng Biển Đông, vào thời khắc mà cả Trời, Đất, Biển Cả của Tổ Quốc đang cần đến tiếng lòng của tất cả chúng ta hơn bao giờ hết. Tôi thật có trong lòng bao điều muốn nói, với nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, với mọi người và với chính mình…. Nhưng dĩ nhiên không thể và không phải ở đây, vào lúc này…”
HOÀNG ĐỨC DIỄN
“…Trong dòng chảy của thơ Việt hôm nay, giữa bộn bề những “nổi loạn”, “phá cách”, mà một người như tôi, chưa già nhưng cũng không còn trẻ nữa, người vẫn thích tìm đến những bài thơ để đọc mỗi khi cầm trên tay một tờ báo hay lướt web mỗi ngày, đã không còn mấy cảm hứng để đọc; thế nhưng tôi đã đọc anh, bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển, và ngay lập tức, tôi đã quên đi bao tranh cãi về cách tân và hiện đại hay siêu hiện đại trong thơ đương đại, để được sống rất giản dị với một đề tài quen thuộc (đề tài Tổ quốc), với một tâm hồn thơ thấm đẫm tình yêu đất nước của Nguyễn Việt Chiến. Có thể nói, nếu không có một tình yêu lớn đối với Tổ quốc thì không có một nhà thơ nào viết nổi những câu thơ lay động tâm hồn như vậy. Và đó cũng chính là điều ta nhận thấy ở Nguyễn Việt Chiến. Bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển, vì vậy là một thông điệp về tình yêu Tổ quốc và sứ mạng công dân…”