VÒM TRỜI CỦA MẸ- TRUYỆN NGẮN VŨ THANH LỊCH
Đang lúc tất bật chuẩn bị đi cho kịp xe, tôi đáp nhấm nhẳng: Nghĩa trang liệt sĩ, ngày nào chả có người hương khói, mẹ lo làm gì, con làm việc cách xa đấy cả trăm cây số, đường lại khó, tính thời gian có khi mất đẫy một ngày mới đủ đi về.
Tôi nói vậy chỉ để đỡ phải nghe mẹ nói đi nói lại mãi một câu như thế chứ thực tình, lần nào vào Nam tôi cũng cố gắng tìm cơ hội đến C thắp nhang cho bác Dệu. Nào ngờ, đáp lại cái lời nhấm nhẳng của con gái, mẹ tôi dân dấn nước mắt: Mấy trăm cây cũng còn gần hơn từ đây vào đấy... mà thôi, các chị có biết ông ấy đâu mà hương với khói.
Các chị có biết ông ấy đâu... Chẳng lẽ tôi lại cãi là con biết thừa, con biết bác Dệu từ lúc còn bé tí tẹo, con không thể nhớ nổi lần đầu tiên con biết bác ấy là lúc nào, chỉ biết từ bé đến lớn, bác Dệu đã ở đầy trong đầu con rồi. Đêm nào ngủ cùng bà, bà chẳng móc cái ảnh đen trắng gói trong tờ lịch bằng giấy pơ-luya cũ rích, lại cuộn mấy lượt túi bóng ra rồi bảo: Mày gối lên tay bà như vầy này, chỗ này mẹ mày hay gối, chỗ này bác Dệu, mẹ mày với bác Dệu mỗi đứa mỗi bên như vầy này. Bà còn bảo, bác Dệu mày vẫn gối tay bà ngủ đấy, bác ấy còn ru mày ngủ, phù hộ cho mày nên mày mới sống lại, rồi chỉ việc ăn mà lớn lên thôi, không như mấy đứa trẻ con quanh xóm, suốt ngày sài với đẹn. Bà vừa nói, vừa vỗ mông cho con ngủ, bất kể con còn bé hay đã lớn, những câu chuyện con nghe đến thuộc làu mà có khi vẫn thấy như mới, là vì cái giọng kể của bà, lúc nào cũng bồi hồi như vừa mới xảy ra.
Tôi đóng gói xong hành lí thì xe đến, chỉ kịp bảo: Mẹ ở nhà trông cháu giúp con nhé, con đi đây, rồi leo lên xe, nhanh như thể chỉ chậm tí nữa tôi sẽ phải nghe lại cái lời nhắc nhở nghẹn cứng cổ của mẹ. Mấy năm nay mẹ yếu nhiều, không còn sức đi đâu xa nữa, ngồi ở nhà, nghe ai nhắc đến An Giang là nước mắt lại lã chã, mà tôi thì sợ nhất trên đời là nước mắt của mẹ. Nó khiến tôi nhớ đến bà. Bà chăm chút tôi từ bé, nghe mẹ nói lúc tôi chui ra, như cái đèn hoa kì, thoi thóp thở, được vài ngày thì tím tái, người nhà gói tôi vào chiếu, đặt xuống đất, nhưng bà giằng lấy, lôi tôi ra ấp vào ngực, bảo thấy tôi còn thở. Bà đón mẹ con tôi về chăm, ấp tôi như gà mái ấp con, tôi bắt đầu biết ăn dặm thì bà làm thịt cóc, mớm cơm nuôi tôi lớn.
Tôi chín tháng tuổi thì bố đi chiến tranh biên giới, không về. Trong đầu óc tôi, chưa có kí ức gì về bố ngoài những câu chuyện bà và mẹ kể đi kể lại hằng đêm. Tám tuổi, mẹ tôi đi bước nữa, tôi về ở hẳn với bà. Bà ít kể chuyện về bố, có thể vì sợ tôi tủi thân, hoặc là sợ dượng tôi phật lòng lại khổ mẹ. Vậy nên bà chỉ kể cho tôi về bác Dệu. Kể giống như ru tôi ngủ. Và câu đầu tiên bao giờ cũng là, bác Dệu mày học giỏi lắm. Lại thương bà nhất. Kể một lúc thì mắt đầy nước. Nhìn nước mắt bà chắt ra, thấy như mình bị nhỏ nước muối mỗi lần đau mắt, vừa cay vừa đắng, nên có lần tôi hét lên với bà rằng, cháu ghét nước mắt, cháu ghét bà khóc, bà khóc cháu không thở được! Cũng từ đấy, mỗi khi ngồi cùng tôi, bà không khóc nữa, ít nhất là không thấy nước mắt bà chảy ra, bất kể là bà đang nói chuyện bác Dệu hay chuyện bố tôi. Tôi ngồi học ở chõng, cạnh chỗ bếp bà ngồi tráng bánh. Bà tráng bánh trên miếng vải bịt miệng nồi đồng, vung to như cái nón, mỗi lần giơ gáo dừa múc bột đổ lên vải, bà lại liếc nhìn xem tôi có chăm chú học không. Bánh chín, bà lấy đũa dài khều ra, rải lên phên nứa để phơi, rồi lại múc, lại tráng. Cứ mỗi lần đổi động tác, bà lại liếc sang bàn coi tôi học. Chừng nào tôi làm xong bài, bà cuộn cái bánh vừa chín nóng hôi hổi, vừa thổi vừa đưa tôi ăn, bà có bát gạch cua chưng tóp mỡ để dành riêng cho tôi chấm, vừa ngậy vừa bùi, tôi cắn hai miếng đã hết, bà cười móm mém bảo, tiên sư bố nhà chị, con gái con đứa mà ăn hỗn như bác Dệu mày vậy, ngày trước, cứ tối nào bà tráng bánh là bê cái chõng này xuống đây ngồi, bảo, con ngồi với mẹ để mẹ tráng bánh cho vui chứ thực ra là để rình bà tráng bánh ấy mà. Tôi cười khúc khích: Bác Dệu khéo nịnh bà nhỉ. Nghe tôi nói vậy, giọng bà chợt trở nên sôi nổi: Ừ. Nó còn bảo bánh vừa dẻo vừa dai vừa thơm phưng phức như mùi mẹ! Tôi biết bà thích nghe truyện Kiều, truyện Lục Vân Tiên nên cứ hôm nay đọc một đoạn truyện này thì mai lại đọc đoạn truyện kia. Mà tôi đọc vậy, chứ bà thuộc làu làu rồi, tôi đọc câu nào sai, bà nhắc lại ngay, bảo, câu ấy ngày trước bác Dệu đọc như vầy cơ mà, rồi bà tiện mồm ngâm luôn cả một đoạn. Vừa ngâm thơ vừa múc bột, rồi xoay cái gáo dàn đều trên vải, dàn thêm một gáo bột nữa lên trên, lại khều cái lớp bột mới chín ấy ra rải lên phên phơi... lần nào tay bà cũng làm bằng ấy động tác, đều tăm tắp theo nhịp đọc thơ y như đôi tay cô văn công múa ở sân kho hợp tác. Trong bóng tối, bếp lửa làm khuôn mặt bà đỏ hồng, những ngọn lửa đựng đầy trong mắt bà khiến tôi luôn nghĩ lửa vẫn có thể cháy bùng bùng trong nước. Những câu chuyện không đầu, không cuối cứ bập bùng trôi ra từ miệng bà như ngọn lửa gầy trong bếp. Bà bảo ánh mắt bác Dệu từ ổ rơm, nghểnh ra nhìn lò than đỏ, nhìn bà tráng bánh, trông cứ tròn như hòn bi ấy, đen mà lông mi thì dài như lông mi con gái, da bác trắng như trứng gà bóc, bà mát sữa nên bác bụ lắm, tay chân đóng ngấn như tay mày đây này, nhưng trắng hơn cơ. Cái bà Tẩm độc mồm, nhìn thấy là quở, quở gì không quở lại cứ quở rằng thằng này trắng như tượng ấy, tai to như tai Phật, mắt y như mắt chúa Giê su. Bà đã bảo đừng có ví con bà như thần như thánh mà phải vía. Vậy nhưng cứ mở mồm ra là quở. Tại bà ấy quở nên nó mới đoản mệnh vậy… Bà thở ra đánh thượt. Tiếng thở lẫn vào bóng đêm trôi trôi cùng nỗi nhớ của bà đi tìm bác. Rồi bà quay sang nựng tôi: Cháu bà bây giờ, ai mà quở, bà cào mặt ra, con chó cưng của bà, mắt mày đen như mắt bác Dệu vậy con ạ. Ngày xưa ông mày cứ bảo mắt thằng Dệu như mắt con gái, sao bà không đẻ con gái cho nó khỏi phải đi đánh giặc. Bà bảo, thấy chửa thì đẻ chứ ai biết ông giời cho mình con trai hay con gái. Mà ông mày thì chỉ biết cắm đầu cắm cổ làm nuôi con mà có được nuôi nữa đâu. Thế là câu chuyện của bà lại miên man sang chuyện ông. Ông mày là thợ mộc, khéo tay lắm, toàn chạm khắc sập gụ tủ chè cho nhà giàu thôi con ạ, tiền thì nhiều nhưng ông mày sợ bị quy địa chủ thì khổ con khổ cái nên đem ném hết xuống ao. Hôm nghe tin bác mày chết, ông ấy ngồi băm nát cái ghế gụ đang chạm dở, sau đấy thì nhà có bao nhiêu tiền mang hết ra mua gỗ đền người ta. Ông ấy mải làm nhưng rỗi một cái là chăm chút con cái đâu ra đấy. Bác Dệu mày hám ông lắm, ông đi cả tháng mới về, mà nó nhớ hơi, về đến nhà phải bế ngay, không thì nó khóc chói tai con ạ. Nó giống y như mày, khác mỗi cái chim. Mùi nó cũng thơm vầy. Vừa nói bà vừa hít hà lên má lên cổ lên trán tôi, rồi ấp chặt tôi vào ngực. Giọng bà kể đều đều, nhẹ nhẹ, nghe như tiếng thở, lúc chậm rãi, lúc ngắc ngứ, lúc hít sâu nén gì đó vào ngực rồi mới lấy hơi kể tiếp. Miếng ảnh bé xíu nằm trong lòng bàn tay khum khum, lúc thì bà mở cho tôi xem, lúc lại nắm lại, sợ tôi vô ý động tay vào làm mặt ảnh bị mờ đi. Đêm nào bà cũng kể, tôi nghe rồi ngủ lúc nào không biết. Kể chán, bà gói ảnh vào tờ lịch bằng giấy pơ luya, cuộn vào giấy bóng, giấu trong túi áo, gài kim băng thật kĩ cho khỏi rơi. Dù gài kĩ nhưng khi ngủ, bà vẫn nắm tay ở vạt áo, chỉ sợ lỡ ngủ say đè lên làm gẫy ảnh.
*
* *
Chuyến đi Nam lần này là tôi đi tập huấn nghiệp vụ về bảo tàng chiến tranh do chuyên gia bảo tàng Mĩ trực tiếp giảng dạy. Sau khi nghe giảng ở hội trường, chúng tôi sẽ đi thực tế và viết những ý tưởng hoặc suy nghĩ của mình về một bảo tàng chiến tranh. Tôi nhớ một câu giảng viên nói trong khi giảng: “Ở đất nước chúng tôi, di vật của những người lính rất được coi trọng, họ có thể chỉ là một phần tử rất nhỏ, thậm chí là nhỏ nhất trong hàng quân, trong trận chiến, nhưng với những người mẹ, họ là cả một bầu trời”. Câu nói ấy khiến tôi liên tưởng tới bà, một thư tàng chiến tranh - Bảo tàng mẹ của những người lính. Tôi như thấy vong vọng đâu đó, tiếng bà nói một mình, rằng ai chả biết miền Nam không rét, nhưng mà đất ở đâu chẳng lạnh. Nghe được cả sự im lặng, tiếng tách vỡ của viên than rụng khỏi cành củi con trong bếp, tiếng xèo rất khẽ của giọt nước bé tí vừa rơi vào than tro khi bà ngồi tráng bánh thâu đêm mùa lạnh để trốn rét bởi bệnh phong hàn khiến chân tay đau nhức. Thấp thoáng cái dáng tất tả sớm tinh mơ kẽo kẹt vừa đi vừa nhún một bên thúng là tôi, còn bên kia là cả một chồng bánh cao gần hết dây. Bà nhún bước chân nhanh hơn, cái thúng tôi ngồi thi thoảng lại chùng xuống, quệt lên cỏ, khiến những giọt sương mới xuống còn ướt ở ngọn quệt lên má tôi lành lạnh. Rồi tiếng bà thở dài. Sau những tiếng thở ấy, luôn là một ước ao. Một cái ước ao hết sức bình dị như bao ước ao của các bà mẹ khác, đó là, giá mà bác Dệu mày về mà lấy cái con bé Thương thì tốt quá. Câu chuyện về cô Thương luôn khiến gương mặt bà rạng rỡ. Bà bảo, hồi ấy, người ta cấm các ông đồ dạy chữ Tàu, với lại có trường học rồi không ai còn học chữ Tàu nữa, nhà ông Thíu có nghề bật bông, bà gửi bác Dệu sang đấy học, nhà người ta có chữ, lại có cô con gái nết na, gần gũi người ta mà học cái lễ cái nghĩa, hai đứa được ông đồ dạy chữ, thi thoảng cũng đối đáp thơ văn với nhau như Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên ấy, chỉ tiếc chúng nó còn trẻ con, lúc bác Dệu chuẩn bị đi bộ đội, bà nhướm hỏi, thì bác bảo để đi đánh giặc về đã, mới có mười bảy tuổi, vợ con gì. Bà cũng chẳng dám hỏi nó với con bé Thương có quý mến nhau không, nhưng hôm bác Dệu đi, thấy con bé đưa cho quyển sách, bảo ông đồ cho, mang đi mà đọc dọc đường cho đỡ buồn, thấy con bé bảo bố em quý anh lắm mới cho đấy...
Minh họa: Thành Chương |
Tôi lặng thinh, lắng nghe kí ức về bà vọng từ quá khứ như sợ chỉ cần khẽ cử động thôi, nó sẽ biến mất dù ngày xưa bà kể đi kể lại cả trăm lần. Kể cho đỡ nhạt miệng chứ cũng chẳng cần biết tôi có nghe không. Những gì liên quan đến cô Thương bà đều quan tâm như thể cô đã là con dâu của bà. Khi dắt tôi đi chợ bà chỉ cái lều ngay sát cổng bảo, ông đồ Thíu hay ngồi chỗ này này, từ hồi ông ấy chết, bà đồ cũng không đi chợ nữa, già cả rồi. Con bé Thương lấy chồng trên tỉnh, thi thoảng dắt con về chơi, bà cứ ước giá đứa bé kia là cháu bà, nhìn hai mẹ con nó đi ngoài đường mà bà nhớ bác Dệu đứt ruột con ạ. Thì bà có cháu đây còn gì... Tôi vừa nói vừa bước ra khỏi thúng khi bà đã hạ quang gánh xuống. Bà vừa lấy chổi xể ra quét chỗ ngồi vừa nói, vẫn cái giọng chẳng phải cho tôi nghe. Người ta con đàn cháu đống, bà đẻ cả chục bận nuôi được hai đứa lớn lên thì lại mất một đứa vì bom với đạn, còn cái con mẹ mày, bà bảo đẻ cho bà vài đứa cháu bà nuôi thì cứ dùn dắng mãi mới chịu đi bước nữa mà đẻ thêm có mỗi một đứa, mai này mày lớn lên, lấy chồng đẻ cho bà một đàn chắt nhá, bà chỉ thích đông con đông cháu thôi. Tôi bảo, mẹ cháu chỉ được đẻ hai đứa thôi bà ạ, đẻ nhiều người ta đuổi việc đấy. Bà cười nói, bà biết rồi, cũng tại mẹ mày nghe bác Dệu, bác Dệu muốn mẹ mày lớn lên phải làm cô giáo, về làng mà dạy chữ cho người ta, vậy nên sống chết gì cũng đòi đi dạy học cho bằng được. Năm mẹ mày tốt nghiệp lớp mười, người ta về tận trường tuyển tiếp viên hàng không, cả xã có mỗi mẹ mày đủ tiêu chuẩn, vậy mà nhất định không đi, đòi đi học sư phạm để dạy học cơ. Rồi lúc học xong sư phạm, người ta giữ lại trường để học tiếp rồi còn định cho đi Liên Xô học nhưng mẹ mày cũng không đi, cứ khăng khăng là anh Dệu bảo con phải về làng dạy học thì con về, anh ấy mất rồi, có mỗi cái ước mơ ấy mà con không làm được cho anh con vui thì còn ra làm sao… Đấy, mẹ mày nói vậy thì bà đành chịu chứ biết làm sao. Mà bà cũng biết thừa, cái đêm trước hôm bác Dệu đi, hai anh em nó ngồi xay cho bà cối bột ngoài sân giếng, thằng anh bảo con em rằng thì nhà có hai anh em, bố lại đi suốt, anh đi rồi, em ở nhà chăm lo cho bố mẹ, cả làng chả ai hiếm con như mẹ, giờ còn khỏe chứ ít nữa có tuổi mà con cháu không ở gần thì tủi thân lắm. Em cố gắng học rồi làm cô giáo, về làng mà dạy học cho gần bố mẹ rồi mai này chăm sóc bố mẹ nữa, chứ anh đi bộ đội chẳng nói trước được gì, trong Nam đang đánh nhau ác liệt lắm… Đấy, chúng nó tưởng nói thầm với nhau thì bà không nghe thấy chứ bà nghe được hết. Rồi mẹ mày nữa, hễ nói cái gì bà không nghe là lại lôi bác Dệu ra, bảo anh ấy viết thư dặn con phải làm thế này thế kia, rằng thì anh ấy muốn bố mẹ phải thế này thế nọ, nó biết bà mù chữ nên cứ dọa bà vậy chứ bà biết thừa, thằng anh đi bộ đội, có kịp viết thư từ gì về. Lúc chết cũng chẳng ai nhặt được cái gì, cả tiểu đội đang dàn trận mà bom nó dội xuống thì tan nát hết chứ còn cái gì, bà nuôi hết hơi, nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa, vậy mà bom nó nổ nhoằng một cái... Hồi đầu, mỗi lần bà kể đến đoạn ấy, thế nào bà cũng gục đầu xuống gối thấm nước mắt, hoặc là kéo vạt áo bà ba lên mắt chấm chấm, nhưng sau này, bà chỉ thở dài, khuôn mặt lạnh khô, đôi mí mắt đã sụp xuống từ bao giờ nhưng tôi biết, trong ấy vẫn đựng đầy một hồ nước, vắng tôi là tuôn ra.
Tôi lớn đến đâu, lưng bà còng xuống đến đấy. Một phần vì tuổi già, phần vì tôi phải học nhiều hơn. Đêm đêm không có người nghe bà kể chuyện bác Dệu, bà kể cho bóng đêm nghe, kể chán lại gục đầu xuống gối, lưng bà càng còng thêm. Năm tôi mười bảy, bà ốm nặng, tôi kê cái bàn sát giường bà ngồi học, ngồi phía ngoài, quay mặt vào giường, vùi chân vào chăn của bà. Bà nằm nghiêng, nhìn tôi học, bàn tay thi thoảng lại xoa xoa gót chân tôi, ram ráp và ấm như than lửa bà vẫn quạt nướng bánh ngày xưa. Tay kia, bà vẫn nắm chặt cái túi áo gài kim băng, bên trong có gói giấy đựng bức ảnh bác Dệu.
*
* *
Bà càng lúc càng yếu dần rồi đi về miền miên viễn vào một ngày mùa xuân, khi hoa xoan tím nở đầy khắp con đường ngày xưa bà vẫn gánh tôi đi chợ. Mẹ bảo, hôm bác Dệu lên đường, mưa xuân cũng ngậm đầy hoa xoan tím. Lúc thay áo để nhập quan, bàn tay bà vẫn nắm chắc vạt áo đựng tấm ảnh đen trắng nhỏ xíu của bác tôi. Còn tôi, tôi cũng có một bảo tàng của riêng mình, đó là ngăn cặp bí mật mà tôi luôn tự khâu thêm cho mình chỉ để đựng tấm ảnh của bố, tấm ảnh cắt ra từ bức ảnh cưới hiếm hoi của bố mẹ theo yêu cầu của dượng. Những lúc không có bà bên cạnh, tôi vẫn thường nói chuyện với bố trong ngăn cặp bí mật ấy.
Tôi nộp bài sớm để xin phép ngày hôm sau tách đoàn đi việc riêng, vì những điểm đến của đoàn tôi đã từng đến nhiều lần.
Tôi đến nghĩa trang C.
Nghĩa trang nằm ven con đường trục chính của tứ giác Long Xuyên, hai bên vẫn là hai cây đại to lớn khúc khuỷu, cây đại tôi thấy trồng khắp nơi, nhưng ở góc nghĩa trang này, nhìn cành nó chìa ra, tôi cứ cảm giác như mấy cành cây ấy ghép bằng những khúc xương người, khẳng khiu, trắng lạnh, dưới ánh nắng phương nam, màu trắng càng khô hanh hơn.
Bác gác cổng nhận ra tôi, không giấu được nỗi ái ngại, lặng lẽ châm cho tôi một bó hương, vừa châm lửa vừa khẽ bảo:
- Cô thông cảm, chúng tôi...
- Con hiểu mà bác! Con tới K93 nghe các anh ấy kể chuyện rồi, cái quãng bác con chiến đấu ngày ấy, chỉ còn đất thôi bác ạ. Mẹ con giờ già yếu rồi, chắc cũng không nằng nặc đòi mang hài cốt bác con về nữa đâu, có dòng tên để bác con được hiên ngang trong hàng ngũ ở nơi này, là gia đình con vui rồi bác ạ.
- Dù sao thì chúng tôi vẫn cố... Cô thông cảm, chúng tôi biết là…
- Dạ con hiểu… Tôi biết bác quản trang nói đến tấm bia mộ, hồi hai mẹ con tôi chắt chiu đủ tiền vào C tìm mộ bác Dệu nhưng đi cả ngày, đếm đọc từng tấm bia, không tìm thấy tấm bia có tên bác Dệu mà chỉ thấy trong sổ quản trang. Bác quản trang đã ghi lại thông tin của mẹ và hẹn nếu tìm được hài cốt sẽ báo cho gia đình. Năm năm sau, không đợi được thông tin của nghĩa trang, hai mẹ con tôi lại vào C, bà đã ngồi chết lặng ôm tấm bia khắc tên bác Dệu. Tôi bảo, các bác ấy hi sinh rồi mà vẫn xếp hàng ngay ngắn như chuẩn bị hành quân ra trận ấy, mẹ để bác ở đây với đồng đội cho ấm cúng nhé. Tôi nói vậy vì những câu chuyện nằm dưới tấm bia, cả tôi và bác quản trang đều biết rõ…
Tôi cầm nắm nhang dâng từng ngôi mộ rồi dừng lại trước tấm bia khắc tên bác Dệu. Tấm bia bằng đá xám, uốn cong như vòm trời. Tôi nhấc máy điện thoại cho mẹ:
- Mẹ à, con đang đứng thắp hương ở mộ bác Dệu đây, ngôi mộ nhỏ xinh, sạch đẹp, lúc nào cũng có hoa đại trắng nở thơm ngát.
Giọng mẹ đựng đầy nước mắt:
- Vậy là mẹ mừng rồi, để mẹ lên bàn thờ nói chuyện cho bà yên tâm.
Tôi định bảo bà xuống đấy thế nào chẳng gặp bác, nhưng lại thôi, vì nhớ ra có lần mẹ nói, mẹ mơ thấy bà về bảo bác Dệu vẫn đi đánh giặc, bà chưa tìm gặp được. Tôi chào mẹ rồi tắt máy, tựa lưng vào gốc đại già, mở ngăn xép của túi xách, mang hai tấm ảnh ra xem, một tấm ảnh bố, một tấm ảnh bác Dệu, tôi đã lấy được khi mọi người thay áo quan cho bà, tôi không muốn bà mang tất cả về lòng đất, đó không phải là bầu trời của riêng bà.
Tạm biệt bác quản trang, tạm biệt những người lính, tôi bước ra đường cái vẫn ngoảnh đầu nhìn lại những tấm bia uốn cong như vòm trời, thiêm thiếp dưới gốc hoa đại trắng. Trời chiều đổ xuống kinh Vĩnh Tế một cốc nước tím sẫm, loang dần thành mảnh khăn lụa, lặng lẽ chảy về biển Đông. Trong vô số hạt phù sa chảy trong các dòng nước dồn về Cửu Long Giang, tràn ra biển Đông rồi hòa lẫn với sông Hồng, thế nào chả có hạt phù sa của bác tôi, hạt phù sa ấy cũng sẽ bồi về sông Đáy, chảy về những cánh đồng quê tôi, nơi ông bà tôi và sau này cả bố mẹ tôi, chúng tôi, con cái chúng tôi nữa, vẫn đợi bác Dệu về.
Nguồn: Văn nghệ Quân đội