CHUYÊN MỤC NHÀ VĂN-TÁC PHẨM: NHÀ VĂN NGUYỄN ĐÌNH THI
Nhà văn Nguyễn Đình Thi (1924-2003)
Thưở nhỏ, Nguyễn Đình Thi sống cùng gia đình ở Lào. Từ năm 1931 theo gia đình về nước và đi học ở Hà Nội, Hải Phòng. Tham gia hoạt động Cách mạng từ lúc 17 tuổi. Từ 1942, anh đã viết hàng loạt sách triết học. Năm 1943 tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc (Phụ trách báo Độc lập, tham gia biên soạn tạp chí Tiên phong), là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông làm Tổng Thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc. Ủy viên tiểu ban Dự thảo Hiến pháp và Ủy viên Ban thường trực Quốc hội (khóa I). Trong kháng chiến chống Pháp hoạt động văn hóa phục vụ kháng chiến, đầu quân tham gia nhiều chiến dịch và sáng tác văn học. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1948. Năm 1955 về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Giữ trách nhiệm Tổng Thư ký Hội Văn nghệ (1956-1958. Từ 1958 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III. Trước khi mất là Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật Việt Nam. Ông cũng là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957. Năm 1946, là đại biểu Quốc Hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường Trực Quốc Hội, khóa I. Nguyễn Đình Thi mất ngày 18 tháng 4 năm 2003.
THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
ĐẤT NƯỚC
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1948
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TA
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung
Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những chuyến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bũa cơm rau muống quả cà giòn tan...
QUÊ HƯƠNG VIỆT BẮC
Hoa lau phơ phất quấn chân
Gió cháy mặt người chiến sĩ
Rời đồng bằng lên rừng núi
Ta đi đã mấy mùa xuân
Sơn La những lũng đầy sương
Những đồi vàng hoe lúa chín
Những buổi rời tay bịn rịn
Châu đi quấn quýt bờ mương
Còn đâu những bản mường yêu dấu
Giặc đến trời hoang đất ngập tro
Nhớ bước lui quân lòng rỏ máu
Ôi nắm xôi bà cụ Thái cầm cho
Lòng ta vẫn ở trên Tây Bắc
Những đêm thao thức tiếng từ quy
Ta khóc hờn căm thề giết giặc
Sông Đà ơi ta sẽ trở về
Từ những ngày đầu non nớt ấy
Ta đã đi - đi tới không ngừng
Trên những con đường đầy lửa cháy
Lòn ta nặng nghĩa quê hương
Lòng ta không ngừng ca hát
Ôi những núi chàm sáng ngời
Ta yêu những rừng Việt Bắc
Nơi ta khôn lớn lên người
Quê hương ta núi sông lộng lẫy
Mỗi lần vùng dậy lại đẹp hơn
Mỗi tấc đất ngày đêm bỏng giẫy
Mỗi lòng người như nước suối trong
Cao Bằng đèo lên cao vút
Mây trắng gọi người đi xa
Ta đạp quân thù ngã gục
Ta chào thế giới về ta
Lạng Sơn rừng hồi lộng gió
Đêm đêm vang tiếng cọp gầm
Sông Kỳ Cùng ào ào sóng đổ
Những ngày mải miết hành quân
Sông Thoa hiền từ cuộn đỏ
Ta về chiến thắng huy hoàng
Chị lái đò cười đon đả
Chào anh bộ đội sang ngang
Ta yêu những dòng sông Việt Bắc
Đã bao lần tiễn bước quân đi
Đã bao lần đục ngầu máu giặc
Những bờ sông kể chuyện thầm thì
Ta yêu những buổi trưa đầm ấm
Em bé trồng rau đuổi lũ gà
Ta yêu những nẻo đường thêu nắng
Chưa bao giờ đẹp như bây giờ
Đất nghèo càng chắt chiu yêu quý
Củ mài Yên Bái sắn Tuyên Quang
Gian khổ đã nuôi lòng chiến sĩ
Ta yêu bà mẹ Mán Cao Lan
Còn đây mãi sông Lô sông Chảy
Đại bác gầm lên tiếng tự hào
Lửa Phố Ràng, phố Lu còn cháy
Bến Bình Ca sóng vỗ xôn xao
Ta tới núi xanh và suối bạc
Ngang trời Tam Đảo đứng nghiêng nghiêng
Ôi Cao Vân, Phú Minh, Quảng Nạp
Trái tim ta đập ở Thái Nguyên
Mỗi tảng đá gốc cây bờ cỏ
Như thiêng liêng phơ phất bóng cờ
Ta đã tìm cây đa lịch sử
Hòn đất chôn rau nước Cộng hoà
Một nhà sàn đơn sơ vách nứa
Bốn bên suối chảy cá bơi vui
Đêm đêm cháy hồng lên bếp lửa
Ánh đèn khuya còn sáng trên đồi
Nơi đây sống một người tóc bạc
Người không con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi Người là Bác
Cả đời người là của nước non
Việt Bắc quê hương ta sáng chói
Đất tự do của những anh hùng
Chim bay rợp trời mây rộng rãi
Quân đi rung chuyển những sông rừng
Bàn tay trắng ta giằng lấy súng
Chân không giầy đạp nát đồn Tây
Trong áo rách lòng ta có Đảng
Giữa nghìn dông bão chẳng lung lay
Người chiến sĩ bước đi phơi phới
Nắng mưa Việt Bắc đã vàng người
Chiều chiều ca hát quê hương mới
Mỗi bước đi lòng một thắm tươi.
1950
ĐI TÌM CÁCH MẠNG
Xung quanh làng xóm lầm than
Thóc Tây, đay Nhật muôn vàn thảm thương
Đi phu, đi lính, đắp đường
Người nghèo một cổ mấy tròng thắt ngang
Mùa mùa lúa vẫn chín vàng
Lúa đi đâu mất, ta làm cho ai?
Địa chủ nó có trăm vòi
Hút vào xương tuỷ, mồ hôi dân mình
Tiếng đồn trên núi rừng xanh
Có quân Cách mạng Việt Minh phất cờ
Sao vàng soi lối tự do
Dân nghèo theo hết vỡ bờ nổi lên
Chiến khu ta ở Tây Nguyên
Quân đang vượt núi xuống miền trung du
Mặt trời đang xé sương mù
Dân mình đang phá ngục tù nghìn năm
Truyền đơn rải ở chợ làng
Cờ đỏ mọc giữa đường quan ban ngày
Đồng quê như có lửa bay
Nhà giàu bàn tán, dân cày truyền tin
Quyết lòng dấn bước đi tìm
Một đêm nổi gió băng mình thoát thân
NGƯỜI TỬ SĨ
Mũ sắt mờ trong sương phủ
Anh nằm yên như ngủ say
Máu thấm đầy manh áo cũ
Nửa đường anh ngã xuống đây
Để anh trên sườn núi vắng
Không biết có bao giờ trở lại
Một ngày về tìm anh ở đâu
Giữa rừng nghìn lối cỏ lau
Nắm súng chào anh lần cuối
Chúng tôi lại đi mê mải
Nắng lên nhuộm đỏ hàng cây
Véo von những tiếng chim rừng.
(1948)
NHỚ
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người
CHIA TAY TRONG ĐÊM HÀ NỘI
Em đi với anh trong đêm Hà Nội
Qua những phố hè quen thuộc yêu thương
Dọc hàng cây ánh đèn pha cuốn bụi
Từng đoàn xe cao xạ chạy rung đường
Pháo đang bắn trời ngoại ô gió thổi
Đạn đỏ loè xa trong ánh trăng
Em đi bên canh tóc xoà bay rối
Nhỏ nhắn vai em khoác súng trường
Nhìn em anh hãy còn bỡ ngỡ
Như sợ bất ngờ em biến đi đâu
Pháo vẫn bắn chân mây đầy chớp lửa
Anh lại nhìn em lòng xôn xao
Trăng soi gương mặt nghìn yêu dấu
Ngày mai hai đứa đã hai nơi
Hai đầu đất nước trong dông bão
Cùng chung chiến đấu hai phương trời
Đêm nay trong vườn hoa ngổn ngang ụ súng
Bên ven hồ lốm đốm trăng xanh
Nghe quanh ta đêm hè nóng bỏng
Mắt bồi hồi em đi bên anh
Em đi với anh qua bến xe đông chật
Bao gia đình vội vã lúc ra đi
Em nhìn những mái nhà cao thấp
Đã bao lần thấy những cuộc chia ly
Kìa xa xa một cụm đèn lấp lánh
Giữa trời đêm như đang vẫy đang chào
Chiếc máy bay ta lượn vòng nghiêng cánh
Bay qua vầng trăng điểm mấy ngôi sao
Em nhìn bên dãy tường sập đổ
Xưởng thợ lò than vẫn rực hồng
Nhà máy vẫn rì rầm không ngủ
Lập loè đèn hàn điện bên sông
Em đi với anh trên đê cao vắng
Một tiếng còi xe lửa huýt dài xa
Gió đưa khúc nhạc em yêu văng vẳng
“Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm mãi lòng ta”
Trên gác nhỏ đèn dầu ai vẫn thức
Em vẫn đi và vẫn lắng yên
Có tiếng ru đứa trẻ nào đang khóc
Đêm đã khuya trong phố cũ êm đềm
Anh nắm cánh tay em và đứng lại
Ôi anh không còn biết đang ở đâu
Nhớ nhau chân cứng đá mềm em nhé
Hẹn đánh Mỹ xong sẽ về tìm nhau
Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.
MÙA THU VÀNG
Nào ai biết việc đời đưa rất lạ
Tôi đến một nơi gió núi xôn xao
Trong rừng sâu triền miên xa tất cả
Như đã về đây từ một thuở nào
Tôi đi mãi vào ngàn thông rợp bóng
Như đi sang một cõi khác nào rồi
Quên hết cả chỉ thấy trời xanh rộng
Và mùa thu im lặng ở quanh tôi
Đã có mùa xuân đời tôi không nhỉ
Và đã có không cả một mùa hè
Tôi chỉ nhớ đã đi nhiều mê mải
Năm tháng đêm ngày theo một ánh xa
Và hôm nay một mình trên đất lạ
Tôi chợt nhận ra đã tới mùa thu
Bao nhiêu chuyện tôi không còn nhớ nữa
Với cả bao nhiêu nét mặt đã mờ
Tôi nhìn lại tất cả chìm nhòa hết
Rồi sương tan dần ánh sáng lặng trong
Cho tôi nhìn về mãi xa xa tít
Bỗng nhiên tôi thấy rõ một bờ sông
Bóng áo vải thô một cô gái nhỏ
Hàng trẩu cao đường đỏ lá vàng hoe
Em tiễn anh lính đi nơi đạn lửa
Môi run run em chúc có ngày về
Em gái ơi tôi vẫn đây còn sống
Còn em bây giờ ở nơi đâu
Bao nhiêu nước đã trôi bao nhiêu sóng
Nơi dòng sông xanh in bóng núi cao
Ôi mùa thu hôm nay nghiêng cánh vàng
Đưa tôi bay về nơi nguồn tìm em.
LÁ ĐỎ
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhoà trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
(Trường Sơn, 12/1974)
BUỔI CHIỀU ẤY
Buổi chiều ấy mình như hai đứa trẻ
Anh dắt tay em chạy giữa mưa
Cùng vui quá và cùng run quá
Đến nơi chưa từng biết bao giờ
Như hai con chim trên mặt biển
Bay giữa mênh mông sóng nước mờ
Chỉ có mây trời và gió lớn
Làm bạn cho ta bay mãi xa
Tìm thấy nhau rồi không lạc nữa
Anh dắt tay em chạy giữa mưa
Quên những chông gai quên tất cả
Để lại sau lưng mọi bến bờ
HOA KHÔNG TÊN
Điểm biếc trên vách đá
Một đoá hoa
Bé nhỏ cười với núi mây lộng gió
Đoá hoa không quên
Từ rất lâu
Từ rất xa
Một ngày bỗng nở
Đoá hoa không tên
Từ rất lâu
Từ rất xa
1985
NÚI XƯA
Ba năm tôi mới về núi cũ
Đi giữa ngàn hoa lau trắng bay
Rừng già vẫn lối xưa ngập lá
Suối nhỏ reo róc rách trong mây
Nắng hoe những dải đồi non mịn
Những xóm làng mờ biếc dưới xa
Ngày nào tất cả lăn trong lửa
Chết sống bao phen mỗi mái nhà
Tóc đã điểm sương, chân đã mỏi
Núi ơi, người năm trước về đây
Cô gánh cỏ tranh nhìn thoáng lạ
Áo bạc mồ hôi má đỏ hây...
TRỜI CHIỀU
Tôi còn biết nói điều gì nữa
Trời đỏ chiều hôm lặng lặng buồn
Cánh chim xa vắng nào bay mãi
Đường dài còn một khoảng hoàng hôn
Dòng sông đã chảy qua bao nẻo
Hôm nay trông thấy biển kia rồi
Gió cuộn bốn bề cười với sóng
Có những gì như muốn gọi tôi
Những bóng mây bay múa rồi qua
Những tiếng ồn cuồng lên từng lúc
Còn lại niềm thương đau im lặng
Và tình yêu đi mãi cùng ta
Tôi nhìn nơi bên kia giấc ngủ
Cõi đêm không bờ bến không tên
Mỗi bước vẫn bâng khuâng mỗi bước
Ánh sao bay mỉm nụ cười hiền
1992
NGUYỄN ĐÌNH THI:PHONG BA, PHONG NHÃ, PHONG BIỂU
Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924 ở Luông Pra Băng (Lào) (1), mất 18/4/2003, hưởng thọ 78 tuổi.Ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 1996. Gia đình ông gốc quê ở làng Vũ Thạch, hiện nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Từ đầu những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945 ông tham dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào, rồi được bầu làm Đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc. Đến thời điểm này, sự nghiệp sáng tác văn nghệ của ông chưa có gì đáng kể. Bởi thế, Nguyễn Đình Thi vẫn thuộc thế hệ nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, ông được đánh giá là người đa tài viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình văn học, làm quản lý Văn nghệ. *
Cuộc đời hoạt động văn chương, nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi đã để lại nhiều tác phẩm cho nền văn nghệ nước nhà. Thể loại nào ông góp mặt, ít nhất cũng để lại được một vài tác phẩm có tính chất kinh điển của văn nghệ cách mạng. Thơ có Đất nước, Bài ca Hắc Hải; Truyện gồm: Xung kích, Vỡ bờ; Tiểu luận phê bình có: Công việc của người viết tiểu thuyết, Mấy vấn đề văn học; Kịch gồm Con nai đen, Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan; Nhạc có Diệt phát xít, Người Hà Nội,…
Công bằng mà nói, đối với một người cầm bút mà để lại cho đời được một khối lượng tác phẩm tương đối có giá trị như Nguyễn Đình Thi, hẳn văn đàn Việt không nhiều. Dẫu rằng tất cả các tác phẩm của ông đều chưa thể đạt đến độ mà đáng lẽ chúng hoàn toàn có thể. Nhưng, nhiều tác phẩm của ông ở các thể loại khác nhau đều có sức sống khá bền lâu trong lòng công chúng công nông binh. Tuy nhiên, về lĩnh vực kịch, thì hầu các vở ông viết ra ở các thời điểm khác nhau đều bị cấm, như ba vở kịch nêu trên. Bởi một lẽ giản đơn, ông đã đặt ra vấn đề chủ nghĩa nhân văn, cái mà khi ấy đại bộ phận giới cầm bút và lãnh đạo văn nghệ, cũng như công chúng công nông binh chưa nghĩ tới hay không nghĩ ra được (!?)
Đa tài về văn chương- nghệ thuật là thế, nhưng từ năm 1955 trở đi, ông luôn vướng bận vào công việc quản lý văn học, nghệ thuật. Thậm chí ông còn là người ngồi chiếc ghế nóng Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam lâu nhất trong lịch sử, từ năm 1958 đến năm 1989. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch UBTQ Liên hiệp các HVHNTVN cho đến lúc ra đi vĩnh viễn. Có lẽ vì thế mà có ý kiến cho rằng ông là người tham quyền cố vị chăng? Và không biết có phải vì thế mà Nguyễn Đình Thi có lần tự nhận mình là kẻ luôn bị lỡ tàu trong lĩnh vực sáng tác văn chương, nghệ thuật.
*
Trận thử lửa đầu tiên, căng thẳng nhất đối với nhà thơ Nguyễn Đình Thi là tại Hội hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (từ 25- 28/9/1949) trong đó có cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi. Chủ đề tranh luận là thơ không vần; đối tượng là thơ của Nguyễn Đình Thi thời đầu kháng chiến, mà cụ thể ở đây là một số bài thơ như: Đêm mít tinh, Sáng mát trong, Không nói, Đường núi, Khúc hát miền Tây. Những người tham gia tranh luận, ngoài Nguyễn Đình Thi và một số rất ít người đứng về phía ông như Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng,... Số còn lại tham gia tranh luận đều đứng về phía bên kia mà đại diện là Xuân Diệu và các văn nhân khác như: Tố Hữu, Xuân Thuỷ, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh, Ngô Tất Tố, Thế Lữ, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Xuân Khoát, Tâm Trung, Phan Thị Nga, Hữu Tâm, Xuân Trường…Trong cuộc tranh luận này, người ít cũng phát biểu một lần, người nhiều đến bốn lần. Vì không khí tranh luận quá sôi nổi và gay gắt, đến mức Xuân Diệu và Lưu Trọng Lư có lần đòi đuổi Nguyễn Đình Thi ra khỏi vương
quốc thi ca.
Thế mới biết đây là một trận phong ba thực sự, khiến cho cả hai phía đều cần phải có những miếng đòn mang tính chất cân não mới mong hạ gục được đối thủ của mình về mặt văn chương, học thuật. Dù sao cũng phải thừa nhận đây là thời kỳ không khí dân chủ và cởi mở nhất trong sinh hoạt văn chương của nước nhà, mà sau này cho đến tận bây giờ, chúng ta ít gặp lại điều đó. Kể cũng lạ!
Trong lời kết luận của Chủ tịch đoàn, nhà thơ Tố Hữu nói: Nhiều khi thấy bài thơ hay mà chưa chắc nó đã hay (…) Tôi không thể lấy cái ta làm tiêu chuẩn. Người nghệ sĩ phải tự hỏi: quần chúng xem bài này thế nào? quần chúng có xúc cảm không? (2)…Cái ta mà Tố Hữu nói ở đây chính là chỉ cái tôi trữ tình của tác giả. Điều này trái với tính đại chúng của văn nghệ thời bấy giờ, nên cái tôi ở vào thời điểm ấy không được chấp nhận, vì quần chúng công- nông- thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám học hành còn ít, nạn mù chữ trở thành giặc dốt, cùng với hai thứ giặc khác là giặc đói và giặc ngoại xâm mà Bác Hồ đã nhiều lần nhắc đến trong các bài nói chuyện và bài viết của Người thời kỳ dân tộc ta bắt tay vào cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.
Sở dĩ thơ Nguyễn Đình Thi được đem ra mổ xẻ, vì mấy lẽ giản đơn: a) lúc ấy ông đang phụ trách Văn nghệ Cứu quốc; b) thơ ông đi ra ngoài quĩ đạo của thơ ca Việt truyền thống; c) thơ kiểu Nguyễn Đình Thi là lệch chuẩn so với Thơ Mới (1932- 1941), nên hầu hết các nhà Thơ Mới phản kháng quyết liệt.
Nói về thơ không vần, Xuân Diệu cho rằng: về chuyện vần hay không vần, tuy Xuân Diệu nói đây không phải vấn đề của thơ Nguyễn Đình Thi, nhưng những biện luận dài của Xuân Diệu cho thấy ông chủ trương thơ phải có vần, ông nhấn mạnh rất nhiều lợi ích của vần (a/ vần như chỗ nghỉ hơi; b/ giữ vần được xem như chỗ để hồn thơ tựa vào câu thơ một cách vững chắc; c/ vần giúp công chúng và tác giả nhớ thuộc; d/ vần gắn với thói quen của quần chúng, với tập quán tiếng Việt (3).
Còn: Nguyễn Đình Thi gọi kiểu thơ mà mình đang theo đuổi là thơ tự do mà nét cốt yếu về hình thức là câu thơ dài hay ngắn, có vần hay không vần - đều không quan hệ (không quan trọng), không có chuẩn cố định. Đối với ấn tượng lạ lẫm trước thơ không vần, ông nói: Có vần là một lợi khí rất đắc lực cho sự truyền cảm. Nhưng không phải hết vần là hết thơ…Những bài thơ cũ, cùng một nhịp đều đều, tôi không chịu được. Đối với ấn tượng về ý thơ không dính, đầu ngô mình sở, ông nói: Tôi không thích những bài thơ nói ra tâm tình. Nó phải nói ra cảm xúc: cảm xúc là tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, tay sờ, cảm thế nào nói thế ấy. Ông không thích kiểu thơ kể lể tình cảm mà chủ trương hỉ nói cái sống ra bằng những hình ảnh, thành cảm xúc. Thơ như thế không phải đầu ngô mình sở. Nó cũng có sợi dây nối liền những hình ảnh đó lại. Đó là một thứ dây lý luận rất khéo (4) .
Có lẽ vì thế mà Thế Lữ hăng tiết lên lưu ý trước khi Chủ tịch đoàn kết luận Hội nghị về sự nguy hiểm nói trên và giữ lại cho mình sự hoài nghi đối với các lập luận nội dung mới phải đi với hình thức mới của Nguyễn Đình Thi (5).
Rõ ràng cách phê phán của Xuân Diệu, Thế Lữ và những người cùng quan điểm với ông, nhất là các nhà Thơ Mới và những người lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ đối với thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là muốn cứu vãn lại cái thời oanh liệt nay con đâu của những con mãnh thú giờ đang sống trong cũi đại chúng hóa ở vườn văn nghệ, mà nói thẳng ra là nôm na hóa nghệ thuật thi ca, đúng như hình tượng con hổ ở trong bài Nhớ rừng mà Thế Lữ đã viết.
Điều ấy càng chứng tỏ Nguyễn Đình Thi muốn tìm cho mình một hướng đi khác, nếu được, sẽ có lợi không chỉ cho riêng cá nhân ông, mà còn có lợi cho cả nền văn chương nước nhà. Chỉ tiếc là hướng đi của ông lộ hơi sớm, và chưa phải lúc, vì nó chủ yếu hướng đến nghệ thuật thi ca, chứ ít hướng đến đại bộ phận quần chúng ít học thời bấy giờ. Thứ nữa, ông còn muốn chứng tỏ rằng mình chẳng dính dáng gì đến Thơ Mới cả. Vào thời điểm ấy, thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là một sự cách tân táo báo, nên vấp phải sự phản ứng quyết liệt của những người bảo hoàng hơn vua cũng là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, về một khía cạnh khác, cũng nên thấy rằng với một con ngựa hoang như Nguyễn Đình Thi, sinh ra ở một nơi (đến nay vẫn chưa rõ), nhưng lại sống ở nhiều nơi, lại vừa đa tình, vừa đa tài, nên cũng cần phải có người cầm cương như vậy cho ngựa đỡ bất kham đi. Điều ấy thực ra là có lợi, vì nó càng làm cho ông cân chỉnh hơn, để rồi sau đó không lâu, 1958, không phải ai khác mà chính Nguyễn Đình Thi mới là người được chọn ngồi vào chiếc ghế nóng Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam kéo dài hơn 30 năm.
*
Từ dáng đi, ánh mắt đến cái bắt tay, lời nói trong giao tiếp, Nguyễn Đình Thi đều toát nên dáng vẻ của một con người hào hoa, phong nhã, thậm chí có người còn bảo đấy là cốt cách của một nhà văn hóa lớn. Một nụ cười luôn thường trực trên môi, cặp mắt nheo lại mỗi khi gặp người khác, dù sau đấy mặc cho chuyện hay, dở thế nào có thể xảy ra, khiến ông trở nên người khá dễ gần. Theo các nhà nhân tướng học đây là con người có khả năng qui tụ được nhiều khác quanh mình, làm cán bộ phong trào đoàn, hội thì rất tốt. Chẳng thế mà ông là nhà văn đầu tiên và trẻ nhất (22 tuổi) khi được bầu làm đại biểu Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I, năm 1946.
Nhiều người cùng thời với ông trước đây bảo rằng, năm lên 17 tuổi, Nguyễn Đình Thi đã cao lớn, đẹp trai hơn người. Đã thế lại còn hát hay, học giỏi, nên chẳng những các cô gái Hà thành thời Tây chết mê chết mệt, mà ngay cả cánh nam sinh thời ấy cũng ghen tị với ông. Vậy nên, chưa đủ 18 tuổi, gia đình đã cưới vợ cho, khiến ông chẳng còn tâm sức nào để ý đến chuyện học hành gì nữa. Bố Nguyễn Đình Thi là ông ký cho Sở Bưu điện Đông Dương của Pháp, có một thời gian làm việc ở Lào. Mẹ chạy chợ buôn bán, làm ăn phát đạt, có của ăn của để nên việc lấy con quan cũng là hợp lẽ. Người vợ cả của ông là Bùi Nữ Trâm Nguyệt Nga, cháu gái quan tuần phủ lúc bấy giờ.
Có lẽ Nguyễn Đình Thi có gien di truyền từ bố mẹ. Vì một lần thầy ký (bố ông) đi qua chợ, thấy một cô gái Việt kiều ở bên Lào, rất xinh đẹp ngồi bán bánh rán. Thả vài câu trêu đùa, vậy mà nên duyên vợ chồng. Thế mới tài chứ! Sau này lần theo gia phả mới hay bà ngoại của nhà thơ là người Tàu, tên là Nìn Thị Hà, còn cụ cố ông là người Chà Và (Ấn Độ). Thân phụ Nguyễn Đình Thi sinh hạ được có 13 người con, nhưng có người khó nuôi, chết trẻ. Nguyễn Đình Thi được bố dạy từ nhỏ nên rất thông thạo tiếng Pháp.
Bà vợ cả Bùi Nữ Trâm Nguyệt Nga chết vì bị bệnh lao từ năm 1951, khi đã sinh với ông được ba đứa con. Vợ chết, ông đem con về gửi nhờ bà ngoại nuôi. Đến lượt ông bị bệnh lao và được Chính phủ cho đi Trung Quốc chữa. Trong thời gian chữa bệnh ở bên Tàu, Nguyễn Đình Thi gặp Phạm Thị Trường. Bà gốc quê Hải Dương, trước đây bà là cán bộ địch vận, sau này học nghề y và là bác sĩ. Có thời kỳ bà Trường làm Giám đốc Bệnh viện hữu nghị Việt- Xô. Hai người trở thành vợ chồng của nhau. Đến năm 1955, về tiếp quản thủ đô, vợ chồng ông được phân một căn nhà khá rộng, đủ để cho hai vợ chồng và cả ba đứa con của bà cả cùng chung sống.
Bà Trường tham gia hoạt động xã hội từ khi còn rất trẻ, đi lại nhiều, ốm đau luôn, phải sang Liên Xô, Trung Quốc chữa trị mãi bệnh vẫn không thuyên giảm, nên chẳng có con. Bà chấp nhận ở vậy nuôi con chồng để ông còn có thì giờ đi làm văn nghệ.
Chết một nỗi cái dân thơ phú phần lớn là đa tình, nên chẳng rõ từ bao giờ, Nguyễn Đình Thi mê như điếu đổ cô diễn viên sân khấu khá nổi tiếng là bà Tuệ Minh. Sau một thời gian, ông đề nghị với bà Trường ly dị để lấy bà Tuệ Minh cho phải lẽ. Dùng dắng mãi rồi cuối cùng bà Trường cũng đồng ý ra tòa. Hôm ra tòa ông ngồi chờ vợ đến để nói lời biệt ly. Cũng may, không phải đợi quá lâu, chỉ 10 phút sau, bà Trường đến thật. Thế nhưng, một điều thật sự bất ngờ là bà đến tòa bằng… một cái cáng do hai cô y tá khiêng. Thi nhân thần hồn nát thần tính, còn tòa tuyên bố hoãn không xử nữa. Cực chẳng đã, bà Tuệ Minh chuồn đi Sài Gòn cho khuất mắt…
Nhiều người bảo rằng, Nguyễn Đình Thi là người nhẫn nhịn và cả nể, đặc biệt là đối với chị em. Ông sẵn sàng chiều chuộng và nhường nhịn họ đủ điều. Chả thế mà sau thời gian ấy ít lâu, người ta còn biết được ông có một mối tình với một nữ thi sĩ nổi tiếng. Tuy hai người có tính cách khác hẳn nhau, nữ thi sĩ nọ thì nồng nàn, mãnh liệt và sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì tình yêu của mình, còn chàng thi nhân kia thì cứ thế mà chiều lòng mỹ nhân.
Đến cuối đời, chính Nguyễn Đình Thi tự thú nhận rằng mối tình lớn nhất của ông là với nhà thơ cộng sản Pháp, Madeleine Riffaud. Hai người gặp nhau năm 1952 ở Ba Lan, trong Đại hội Sinh viên- Thanh niên thế giới. Nữ sĩ này là người quá nổi tiếng. Bà đã từng sang Việt Nam và đi vào chiến trường sống cùng bộ đội giải phóng để viết cuốn Ba tháng trong căn cứ rừng rậm. Đến mức, nhiều người Việt Nam đã gọi bà bằng một cái tên rất trìu mến, Chị Tám. Nghe nói bà là em kết nghĩa của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Một trong số những vần thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi là bài Nhớ, viết tặng nữ sĩ Madeleine Riffaud, trong đó có những câu thơ lấp lánh, thật khó quên: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh/ Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây/ Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh/ Sưởi ấm lòng chiến sĩ giữa ngàn cây/ Anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần/ Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước/ Mỗi tối anh nằm mỗi sang anh ăn. Có người lại bảo, ông viết thế vì từ bé, khi còn học trường Bưởi, Nguyễn Đình Thi đã có thú nằm ngửa mặt lên ngắm sao trời. Và những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở rừng, mùa đông lạnh giá, chỉ có đốt lửa lên mới sưởi ấm được. Vậy là hai hình ảnh ấy cứ ùa vào thơ ông một cách khá tự nhiên.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi, không chỉ yêu nhiều mà còn hơi bị tốn vợ như dân gian thường nói. Nếu phiên tòa xử ly hôn không bị hoãn thì chắc chắn ông sẽ có ba vợ chính thức, còn vợ không chính thức thì chẳng biết đâu mà lần. Chả thế mà sinh thời có lần ông thắp hương lên bàn thờ bà vợ cả và khấn rằng: Bà ghê lắm, không cho tôi thêm một đứa con nào cả (5). Còn làng văn trước đây, một thời hay đùa nhau rằng ra đường cứ nhìn thấy ai lông mày rậm, mắt đen thì đích thị đấy là con của bố Thi Tổng.
*
Nguyễn Đình Thi ngồi vào chiếc ghế nóng Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam vào đúng dịp vãn hồi vụ Nhân văn Giai phẩm (1956- 1958). Điều này cho thấy cái giá ông phải trả tại Hội nghị văn nghệ Việt Bắc (1949) là không hề đắt. Có lẽ nhờ Hội nghị văn nghệ Việt Bắc mà Nguyễn Đình Thi trở thành một cái phong biểu cực kỳ tinh nhạy của làng văn nghệ nước nhà. Hình như ông đã đoán được mọi hướng gió nổi lên từ các chiếu văn chương, nghệ thuật, nên trận phong vũ dữ dội như Nhân văn Giai phẩm mà ông vẫn không hề thấy hắt hơi sổ mũi gì. Thế mới tài!
Với giới văn nghệ sĩ, Nguyễn Đình Thi là người có những ý nghĩ mới mẻ, táo bạo, khiến mọi người phải nể trọng. Còn với cấp trên, ông lại là người luôn biết nghe lời, thậm chí còn tỏ ra biết sợ nữa là khác. Kết hợp được hai phẩm chất ấy quả là người xứng đáng làm quản lý văn nghệ hơn ai hết.
Dẫu rằng, sinh thời, ông luôn bị đố kị, dèm pha. Dân văn bảo ông viết kịch hay, dân kịch bảo ông viết nhạc hay, dân nhạc bảo ông làm thơ hay, dân thơ bảo ông viết lý luận phê bình hoặc triết học mới phục… Riêng tôi, mỗi lần trò chuyện với ông, tôi lại thấy ông hiện lên trước mắt mình như một nhà văn hóa…(6)
Còn nhớ, vào thời kỳ 1979- 1980, Nguyễn Đình Thi đương nhiệm chức Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN). Lúc này bắt đầu nổi lên một nhu cầu đổi mới nền văn chương phải đạo, vốn dĩ đã tồn tại quá lâu và có nhiều o bế, mà thực tiễn đời sống văn nghệ nước nhà không thể chấp nhận được nữa. Nguyễn Đình Thi, với tư cách là Tổng Thư ký HNVVN, đã ngầm dò được tín hiệu phát đi từ phe đổi mới, hòng chiếm lĩnh chiếc ghế nóng của ông. Nhưng không những không hề tỏ ra nóng nảy, mà trái lại ông rất điềm tĩnh, như không hề có phản ứng gì, vì ông đã có trong tay cái phong biểu trời phú để đo sự nổi đóa của làng văn nghệ.
Một mặt, bên ngoài ông ủng hộ phe đổi mới đến mức một người như Nguyễn Khải mà vẫn tin đấy là thật, nên sau khi Nguyên Ngọc bị trần cho một trận về bản Đề dẫn và bài viết về văn chương phải đạo của Hoàng Ngọc Hiến đăng trên báo Văn nghệ, Nguyễn Khải khuyên Nguyên Ngọc: mình cứ nhận đi là xong. Còn các ông Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên cũng nghệ sĩ lắm, họ sẽ đỡ cho ngay… (7). Thời kỳ này phe chống đối Nguyễn Đình Thi lúc đầu rất quyết liệt và sắc xảo. Có lúc tưởng chừng như Nguyễn Đình Thi đã bị hất ra song vẫn quyết liệt tìm cách tái lập quyền lực cho bằng được. Giai đoạn ông kiên trì bám trụ giữ lấy vai trò của một người đứng đầu giới văn nghệ tới cái mức làm cho người ta cảm tưởng không ai thay thế được (8).
Thế nhưng, nhờ có cái phong biểu mà trời cấp cho nên ông đã khiến gió thổi bay tung lên tận chín tầng mây cuốn theo những người thuộc phe đổi mới như: Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu và một số người khác nữa.
Về mặt cá nhân, không biết trước và sau ông có ai tài như vậy không? Ông đã tìm cách nắm giữ cho được quyền lãnh đạo văn nghệ trong tay mình, bằng một cách khôn khéo, ít đổ máu nhất, đến mức có những người trong phe đổi mới nghĩ rằng đây là ý nguyện của cấp trên, chứ không phải là của bố Thi và do bố Thi làm. Đấy là cái tài của Nguyễn Đình Thi không thể phủ nhận được.
Nhưng mặt khác đấy cũng là cái thiệt cho nền văn nghệ nước nhà khi không thoát ra khỏi cái vỏ thủ cựu từng khuôn cứng văn nghệ hàng mấy thập niên, mà nó đã có mầm mống muốn thoát ra từ Hội nghị Văn nghệ Việt Bắc 1949, khi ấy Nguyễn Đình Thi là người hăng hái nhất để mở đường cho một trào lưu văn nghệ mới ra đời hợp với nhu cầu thưởng thức của công chúng và xu hướng chung của thời đại. Thế nhưng 30 năm sau đấy, ông lại là một hòn đá tảng lớn ngăn giữa dòng đổi mới văn chương. Hóa ra sự đổi mới chỉ có thể diễn ra ở bình diện tác phẩm, chứ rất khó diễn ra ở bình diện quyền lực quản lý văn
chương (!?)./.
ĐỖ NGỌC YÊN
………….
Tham khảo:
(1). Nguyễn Đăng Mạnh, Hồi ký, Chương XVIII- Nguyễn Đình Thi
(2), (3), (4). Lại Nguyên Ân: “Xung đột trường phái” trong cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi. Xem: phebinhvanhoc.com
(5), (6). Đặng Thị Thanh Hương. Ẩn hiện chuyện đời Nguyễn Đình Thi. Hội ngộ văn chương. vanchuong.vnweblogs.com.
(7), (8). vuongtrinhan.blogspot.com