Tập thơ Lời cầu hôn của rừng của Hoàng Thanh Hương đoạt giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2008. Đây là tập thơ vừa phải, không có bài/ đoạn thơ nào có thể mang ra chê được; nhưng ở đó tuyệt không lộ diện giọng riêng, độc đáo để có thể gọi là “làm lay động con tim người đọc” – như lâu nay ta thường mong mỏi thế. Các đoạn thơ tình như:
Thả vào đêm nỗi buồn
… Nhưng càng quên nỗi nhớ lại càng đầy.
Hay: Tháng bảy trời ngâu/ chẳng còn mong bầy chim bắc cầu Ô thước/ … Tím rợp chiều cỏ đắng đồng xa thì sến hết chịu nổi! Mấy bài như thế lẽ ra chỉ cần vài câu đã đủ, nhưng tác giả cứ kéo dài ra, kéo dài đến chán ngắt! Thi thoảng ta bắt gặp bài thơ ngắn đọc được. “Hương” là ví dụ:
Thì cứ mặc mùa mưa
Lê thê kéo qua ngày chẵn lẻ
Mình có hẹn ai đâu mà sợ trễ
Thèm một bàn tay kéo cánh cửa gầy.
Hoặc khi nhà thơ chịu rời bỏ sự quen tay dễ dãi, để ngẫu hứng ghi nhanh cảm nghĩ thật của mình, không cần kì khu câu chữ, cho dẫu không “hay” nhưng thơ có một điều gì đó dễ tìm thấy sự đồng cảm của người đọc:
Bất giác nhớ lại
thuở mẹ cha giật gấu vá vai
tất bật sớm chiều đủ ngày hai bữa
cả nhà xanh xao những ngày sau lũ
vậy mà vui.
Bây giờ ngồi xe hơi
ăn cơm nhà hàng, uống rượu tây
ngủ phòng lạnh, xúng xính áo quần hợp mốt
vậy mà trống rỗng.
Nữa:
Hằng ngày ta chăm chút cuộc sống của mình
bằng những nụ cười
bằng sự bằng lòng với những gì đang có
bằng những sẻ chia có thể
bằng tình yêu dành trọn vẹn cho người
và thôi nghĩ về những thứ xa vời.
(“Bão đêm”)
Đơn giản vậy thôi. Bởi dẫu sao qua đó ta mơ hồ nhìn thấy bóng dáng một giọng thơ. Hoàng Thanh Hương với “Tượng mồ ngồi lặng câm/ Bóng chiều lay lắt. Và tượng mồ ngồi nhớ/ nhớ một người hoá gió/ bay về đỉnh Chư Hdrung”. Cuối cùng là Hoàng Thanh Hương trọn vẹn hơn với “Buôn xa”:
Buôn xa
em gùi gió mưa về
hoang dại chiều ơi tóc nâu mắt nâu
gót trần cỏ cứa
dã quỳ tàn trong gió
thảng thốt tiếng chim kêu bầy
thảng thốt tiếng gió lạc
bên tai vấn vít lời ướm hỏi
em chưa muốn bắt anh về
gầm sàn nhà em chưa đầy củi
áo chăn em dệt chưa nhiều
em chưa thuộc hết lời amí dạy
người có thương em thì đợi.
Buôn xa
khói nhà sàn xòe hoa
khói thơm mùi ngô non
khói thơm mùi mía già
khói giục bước chân em thoăn thoắt
tiếng chiêng ngân nga
tiếng chiêng gọi người đi xa
nhớ kịp về mùa cơm mới.
Buôn xa
gót trần cỏ cứa
mưa mù giăng giăng
em gùi cả gió mưa về
chiều ơi chiều hoang dại
ướt cả vào giấc ngủ
tóc nâu
mắt nâu...
buôn xa.
Rồi, từ Lời cầu hôn của rừng bước sang Mùa gió hát, Hoàng Thanh Hương đã rất khác. Dù vẫn còn đó đề tài cũ: “Viết ở khu nhà mồ”, “Krông Pa ngày tôi mơ” hay “Ia Pa mùa gió”… nhưng khi thi sĩ này đối mặt với thế giới “phẳng”, nhận nhiều tiện ích từ nó và chịu đựng bao nỗi nó mang lại, giọng thơ Hoàng Thanh Hương trở nên chông chênh hơn, ẩn chứa nhiều bất trắc hơn. Ở đó, “buôn xa” thôi còn là chốn cho những đứa con đi xa hoài nhớ, ngôi nhà không còn là nơi thanh bình cho những linh hồn tha hương về trú ngụ. Khi “rừng thôi màu thiên thanh/ đêm oi óc tiếng gió qua đồi trống”:
Làng chỉ toàn người già
Ngồi hoài tưởng
Thời rừng xanh mênh mông
Đêm mang tác, sói tru, côn trùng rả rích
Đêm chiêng mừng cơm mới thâu canh
Đêm cỏ êm môi em men say
Mùi cỏ cháy mùi hồng hoang
…
Còn lại gì sáng mai
Thời gian nước xiết
Tôi bíu vào đâu đêm nay?
(“Dấu hiệu”, Mùa gió hát)
Thi sĩ không biết bấu víu vào đâu. Khắp xung quanh trở nên trống vắng, trồng vắng giữa thiên nhiên và hoang lạnh trong hồn người. Rừng Tây Nguyên thôi còn là thiên đường của muông thú; đất Tây Nguyên bạt ngàn đã bị sa mạc hóa; tình người ngày càng bị sa mạc hóa. Như cơn bão lửa vừa đi qua thổi bay cây và lá, chim muông, hoang thú và những con sông, bỏ lại hàng ngàn ngôi nhà trơ trốc, chỏng chơ. Tây Nguyên làm sa mạc nhanh, nhanh đến không kịp thở, như thể muốn xua đuổi đứa con rừng núi cuối cùng còn sót lại rời bỏ buôn plây. Đi, đi miết.
bây giờ mùa khô
những đứa con của làng rủ nhau ra phố
làng nắng chang chang, làng mù bụi đỏ
cuối ngày bên mé cửa
bỏng ngực mẹ chờ, bỏng ngực anh...
(“Viết giữa mùa khô”, Mùa gió hát)
Từ đó, nhà thơ làm lang thang. Và thơ đi hoang. Chính từ cuộc đi hoang này mà thơ tình cờ bắt gặp bản thể của mình. Rằng thơ là sự thể bất định, bất định như chính cuộc đời. Không lạ, khi ở Mùa gió hát, người đọc không còn đụng phải những câu thơ “sến”, mấy tứ thơ nhàm cũ cùng bao bài thơ vừa phải - dễ đọc, dễ cảm như ở Lời cầu hôn của rừng trước đó. Ở đây, người đọc khó tính có thể nhặt ra bao nhiêu là hạt sạn. Thế nhưng chính những hạt sạn, mấy cú vấp kia lóe lên hi vọng. Sự thể cho thấy Hoàng Thanh Hương đã dám từ bỏ mấy e dè với an toàn đầy nhàm chán. Để bước đầu mở ra cuộc khai phá, khởi động lại những bước đi đầu tiên của hành trình sáng tạo đích thực.
em - pha lê tâm hồn
ngây thơ những nghĩ suy nhân thế
muốn yêu thương là vũ khí
chống lại những nhỏ nhen, đố kị tầm thường
em – đóa xuyến chi mọc ven đường
miên man tỏa hương, miên man hát
em – cô dế nhỏ dưới trăng
hát hoài bài ca tuổi thơ giấc mơ công chúa
(“Miên man”, Mùa gió hát)
Tập thơ Lời cầu hôn của rừng của Hoàng Thanh Hương đoạt giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2008. Đây là tập thơ vừa phải, không có bài/ đoạn thơ nào có thể mang ra chê được; nhưng ở đó tuyệt không lộ diện giọng riêng, độc đáo để có thể gọi là “làm lay động con tim người đọc” – như lâu nay ta thường mong mỏi thế. Các đoạn thơ tình như:
Thả vào đêm nỗi buồn
… Nhưng càng quên nỗi nhớ lại càng đầy.
Hay: Tháng bảy trời ngâu/ chẳng còn mong bầy chim bắc cầu Ô thước/ … Tím rợp chiều cỏ đắng đồng xa thì sến hết chịu nổi! Mấy bài như thế lẽ ra chỉ cần vài câu đã đủ, nhưng tác giả cứ kéo dài ra, kéo dài đến chán ngắt! Thi thoảng ta bắt gặp bài thơ ngắn đọc được. “Hương” là ví dụ:
Thì cứ mặc mùa mưa
Lê thê kéo qua ngày chẵn lẻ
Mình có hẹn ai đâu mà sợ trễ
Thèm một bàn tay kéo cánh cửa gầy.
Hoặc khi nhà thơ chịu rời bỏ sự quen tay dễ dãi, để ngẫu hứng ghi nhanh cảm nghĩ thật của mình, không cần kì khu câu chữ, cho dẫu không “hay” nhưng thơ có một điều gì đó dễ tìm thấy sự đồng cảm của người đọc:
Bất giác nhớ lại
thuở mẹ cha giật gấu vá vai
tất bật sớm chiều đủ ngày hai bữa
cả nhà xanh xao những ngày sau lũ
vậy mà vui.
Bây giờ ngồi xe hơi
ăn cơm nhà hàng, uống rượu tây
ngủ phòng lạnh, xúng xính áo quần hợp mốt
vậy mà trống rỗng.
Nữa:
Hằng ngày ta chăm chút cuộc sống của mình
bằng những nụ cười
bằng sự bằng lòng với những gì đang có
bằng những sẻ chia có thể
bằng tình yêu dành trọn vẹn cho người
và thôi nghĩ về những thứ xa vời.
(“Bão đêm”)
Đơn giản vậy thôi. Bởi dẫu sao qua đó ta mơ hồ nhìn thấy bóng dáng một giọng thơ. Hoàng Thanh Hương với “Tượng mồ ngồi lặng câm/ Bóng chiều lay lắt. Và tượng mồ ngồi nhớ/ nhớ một người hoá gió/ bay về đỉnh Chư Hdrung”. Cuối cùng là Hoàng Thanh Hương trọn vẹn hơn với “Buôn xa”:
Buôn xa
em gùi gió mưa về
hoang dại chiều ơi tóc nâu mắt nâu
gót trần cỏ cứa
dã quỳ tàn trong gió
thảng thốt tiếng chim kêu bầy
thảng thốt tiếng gió lạc
bên tai vấn vít lời ướm hỏi
em chưa muốn bắt anh về
gầm sàn nhà em chưa đầy củi
áo chăn em dệt chưa nhiều
em chưa thuộc hết lời amí dạy
người có thương em thì đợi.
Buôn xa
khói nhà sàn xòe hoa
khói thơm mùi ngô non
khói thơm mùi mía già
khói giục bước chân em thoăn thoắt
tiếng chiêng ngân nga
tiếng chiêng gọi người đi xa
nhớ kịp về mùa cơm mới.
Buôn xa
gót trần cỏ cứa
mưa mù giăng giăng
em gùi cả gió mưa về
chiều ơi chiều hoang dại
ướt cả vào giấc ngủ
tóc nâu
mắt nâu...
buôn xa.
Rồi, từ Lời cầu hôn của rừng bước sang Mùa gió hát, Hoàng Thanh Hương đã rất khác. Dù vẫn còn đó đề tài cũ: “Viết ở khu nhà mồ”, “Krông Pa ngày tôi mơ” hay “Ia Pa mùa gió”… nhưng khi thi sĩ này đối mặt với thế giới “phẳng”, nhận nhiều tiện ích từ nó và chịu đựng bao nỗi nó mang lại, giọng thơ Hoàng Thanh Hương trở nên chông chênh hơn, ẩn chứa nhiều bất trắc hơn. Ở đó, “buôn xa” thôi còn là chốn cho những đứa con đi xa hoài nhớ, ngôi nhà không còn là nơi thanh bình cho những linh hồn tha hương về trú ngụ. Khi “rừng thôi màu thiên thanh/ đêm oi óc tiếng gió qua đồi trống”:
Làng chỉ toàn người già
Ngồi hoài tưởng
Thời rừng xanh mênh mông
Đêm mang tác, sói tru, côn trùng rả rích
Đêm chiêng mừng cơm mới thâu canh
Đêm cỏ êm môi em men say
Mùi cỏ cháy mùi hồng hoang
…
Còn lại gì sáng mai
Thời gian nước xiết
Tôi bíu vào đâu đêm nay?
(“Dấu hiệu”, Mùa gió hát)
Thi sĩ không biết bấu víu vào đâu. Khắp xung quanh trở nên trống vắng, trồng vắng giữa thiên nhiên và hoang lạnh trong hồn người. Rừng Tây Nguyên thôi còn là thiên đường của muông thú; đất Tây Nguyên bạt ngàn đã bị sa mạc hóa; tình người ngày càng bị sa mạc hóa. Như cơn bão lửa vừa đi qua thổi bay cây và lá, chim muông, hoang thú và những con sông, bỏ lại hàng ngàn ngôi nhà trơ trốc, chỏng chơ. Tây Nguyên làm sa mạc nhanh, nhanh đến không kịp thở, như thể muốn xua đuổi đứa con rừng núi cuối cùng còn sót lại rời bỏ buôn plây. Đi, đi miết.
bây giờ mùa khô
những đứa con của làng rủ nhau ra phố
làng nắng chang chang, làng mù bụi đỏ
cuối ngày bên mé cửa
bỏng ngực mẹ chờ, bỏng ngực anh...
(“Viết giữa mùa khô”, Mùa gió hát)
Từ đó, nhà thơ làm lang thang. Và thơ đi hoang. Chính từ cuộc đi hoang này mà thơ tình cờ bắt gặp bản thể của mình. Rằng thơ là sự thể bất định, bất định như chính cuộc đời. Không lạ, khi ở Mùa gió hát, người đọc không còn đụng phải những câu thơ “sến”, mấy tứ thơ nhàm cũ cùng bao bài thơ vừa phải - dễ đọc, dễ cảm như ở Lời cầu hôn của rừng trước đó. Ở đây, người đọc khó tính có thể nhặt ra bao nhiêu là hạt sạn. Thế nhưng chính những hạt sạn, mấy cú vấp kia lóe lên hi vọng. Sự thể cho thấy Hoàng Thanh Hương đã dám từ bỏ mấy e dè với an toàn đầy nhàm chán. Để bước đầu mở ra cuộc khai phá, khởi động lại những bước đi đầu tiên của hành trình sáng tạo đích thực.
em - pha lê tâm hồn
ngây thơ những nghĩ suy nhân thế
muốn yêu thương là vũ khí
chống lại những nhỏ nhen, đố kị tầm thường
em – đóa xuyến chi mọc ven đường
miên man tỏa hương, miên man hát
em – cô dế nhỏ dưới trăng
hát hoài bài ca tuổi thơ giấc mơ công chúa
(“Miên man”, Mùa gió hát)
VanVN.Net – Ngày 15/5/2014, tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội), Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội ...
VanVN.Net - Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh không phải là người gây được ấn tượng sớm. Hầu như phần lớn thành tựu trong sáng tác của ông đều xuất hiện sau năm 1975. Song, Hữu Thỉnh lại ...
VanVN.Net – Sáng 26/5/2014, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội), lễ ra mắt Trung tâm dịch văn học Việt Nam đã được tổ chức trọng thể. Đến dự buổi ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn