Những ban đêm thành cột mốc tháng năm/ Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng/ Đêm thao thức đón chờ ánh sáng/ Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời. (Đêm trắng - Nguyễn Văn Thạc)
Gửi thư    Bản in

Hoàng Thanh Hương, từ “Lời cầu hôn của rừng” qua “Mùa gió hát”

Inrasara - 29-05-2014 09:47:42 AM

Tập thơ Lời cầu hôn của rừng của Hoàng Thanh Hương đoạt giải thưởng Hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2008. Đây là tập thơ vừa phải, không có bài/ đoạn thơ nào có thể mang ra chê được; nhưng ở đó tuyệt không lộ diện giọng riêng, độc đáo để có thể gọi là “làm lay động con tim người đọc” – như lâu nay ta thường mong mỏi thế. Các đoạn thơ tình như:

Thả vào đêm nỗi buồn

 … Nhưng càng quên nỗi nhớ lại càng đầy.

Hay: Tháng bảy trời ngâu/ chẳng còn mong bầy chim bắc cầu Ô thước/ … Tím rợp chiều cỏ đắng đồng xa thì sến hết chịu nổi! Mấy bài như thế lẽ ra chỉ cần vài câu đã đủ, nhưng tác giả cứ kéo dài ra, kéo dài đến chán ngắt! Thi thoảng ta bắt gặp bài thơ ngắn đọc được. “Hương” là ví dụ:

Thì cứ mặc mùa mưa

Lê thê kéo qua ngày chẵn lẻ

Mình có hẹn ai đâu mà sợ trễ

Thèm một bàn tay kéo cánh cửa gầy.

Hoặc khi nhà thơ chịu rời bỏ sự quen tay dễ dãi, để ngẫu hứng ghi nhanh cảm nghĩ thật của mình, không cần kì khu câu chữ, cho dẫu không “hay” nhưng thơ có một điều gì đó dễ tìm thấy sự đồng cảm của người đọc:

Bất giác nhớ lại

thuở mẹ cha giật gấu vá vai

tất bật sớm chiều đủ ngày hai bữa

cả nhà xanh xao những ngày sau lũ

vậy mà vui.

 

Bây giờ ngồi xe hơi

ăn cơm nhà hàng, uống rượu tây

ngủ phòng lạnh, xúng xính áo quần hợp mốt

vậy mà trống rỗng.

Nữa:

Hằng ngày ta chăm chút cuộc sống của mình

bằng những nụ cười

bằng sự bằng lòng với những gì đang có

bằng những sẻ chia có thể

bằng tình yêu dành trọn vẹn cho người

và thôi nghĩ về những thứ xa vời.

                        (“Bão đêm”)

Đơn giản vậy thôi. Bởi dẫu sao qua đó ta mơ hồ nhìn thấy bóng dáng một giọng thơ. Hoàng Thanh Hương với “Tượng mồ ngồi lặng câm/ Bóng chiều lay lắt. Và tượng mồ ngồi nhớ/ nhớ một người hoá gió/ bay về đỉnh Chư Hdrung”. Cuối cùng là Hoàng Thanh Hương trọn vẹn hơn với “Buôn xa”:

Buôn xa

em gùi gió mưa về

hoang dại chiều ơi tóc nâu mắt nâu

gót trần cỏ cứa

dã quỳ tàn trong gió

thảng thốt tiếng chim kêu bầy

thảng thốt tiếng gió lạc

bên tai vấn vít lời ướm hỏi

em chưa muốn bắt anh về

gầm sàn nhà em chưa đầy củi

áo chăn em dệt chưa nhiều

em chưa thuộc hết lời amí dạy

người có thương em thì đợi.

 

Buôn xa

khói nhà sàn xòe hoa

khói thơm mùi ngô non

khói thơm mùi mía già

khói giục bước chân em thoăn thoắt

tiếng chiêng ngân nga

tiếng chiêng gọi người đi xa

nhớ kịp về mùa cơm mới.

 

Buôn xa

gót trần cỏ cứa

mưa mù giăng giăng

em gùi cả gió mưa về

chiều ơi chiều hoang dại

ướt cả vào giấc ngủ

tóc nâu

mắt nâu...

buôn xa.

 

Rồi, từ Lời cầu hôn của rừng bước sang Mùa gió hát, Hoàng Thanh Hương đã rất khác. Dù vẫn còn đó đề tài cũ: “Viết ở khu nhà mồ”, “Krông Pa ngày tôi mơ” hay “Ia Pa mùa gió”… nhưng khi thi sĩ này đối mặt với thế giới “phẳng”, nhận nhiều tiện ích từ nó và chịu đựng bao nỗi nó mang lại, giọng thơ Hoàng Thanh Hương trở nên chông chênh hơn, ẩn chứa nhiều bất trắc hơn. Ở đó, “buôn xa” thôi còn là chốn cho những đứa con đi xa hoài nhớ, ngôi nhà không còn là nơi thanh bình cho những linh hồn tha hương về trú ngụ. Khi “rừng thôi màu thiên thanh/ đêm oi óc tiếng gió qua đồi trống”:

Làng chỉ toàn người già

Ngồi hoài tưởng

Thời rừng xanh mênh mông

Đêm mang tác, sói tru, côn trùng rả rích

Đêm chiêng mừng cơm mới thâu canh

Đêm cỏ êm môi em men say

Mùi cỏ cháy mùi hồng hoang

Còn lại gì sáng mai

Thời gian nước xiết

Tôi bíu vào đâu đêm nay?

(“Dấu hiệu”, Mùa gió hát)

Thi sĩ không biết bấu víu vào đâu. Khắp xung quanh trở nên trống vắng, trồng vắng giữa thiên nhiên và hoang lạnh trong hồn người. Rừng Tây Nguyên thôi còn là thiên đường của muông thú; đất Tây Nguyên bạt ngàn đã bị sa mạc hóa; tình người ngày càng bị sa mạc hóa. Như cơn bão lửa vừa đi qua thổi bay cây và lá, chim muông, hoang thú và những con sông, bỏ lại hàng ngàn ngôi nhà trơ trốc, chỏng chơ. Tây Nguyên làm sa mạc nhanh, nhanh đến không kịp thở, như thể muốn xua đuổi đứa con rừng núi cuối cùng còn sót lại rời bỏ buôn plây. Đi, đi miết.

bây giờ mùa khô

những đứa con của làng rủ nhau ra phố

làng nắng chang chang, làng mù bụi đỏ

cuối ngày bên mé cửa

bỏng ngực mẹ chờ, bỏng ngực anh...

(“Viết giữa mùa khô”, Mùa gió hát)

Từ đó, nhà thơ làm lang thang. Và thơ đi hoang. Chính từ cuộc đi hoang này mà thơ tình cờ bắt gặp bản thể của mình. Rằng thơ là sự thể bất định, bất định như chính cuộc đời. Không lạ, khi ở Mùa gió hát, người đọc không còn đụng phải những câu thơ “sến”, mấy tứ thơ nhàm cũ cùng bao bài thơ vừa phải - dễ đọc, dễ cảm như ở Lời cầu hôn của rừng trước đó. Ở đây, người đọc khó tính có thể nhặt ra bao nhiêu là hạt sạn. Thế nhưng chính những hạt sạn, mấy cú vấp kia lóe lên hi vọng. Sự thể cho thấy Hoàng Thanh Hương đã dám từ bỏ mấy e dè với an toàn đầy nhàm chán. Để bước đầu mở ra cuộc khai phá, khởi động lại những bước đi đầu tiên của hành trình sáng tạo đích thực.

em - pha lê tâm hồn

ngây thơ những nghĩ suy nhân thế

muốn yêu thương là vũ khí

chống lại những nhỏ nhen, đố kị tầm thường

em – đóa xuyến chi mọc ven đường

miên man tỏa hương, miên man hát

em – cô dế nhỏ dưới trăng

hát hoài bài ca tuổi thơ giấc mơ công chúa

(“Miên man”, Mùa gió hát)

 

 

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Các tin mới hơn

Nhân vật  

Nhà thơ Hữu Thỉnh: “Cỏ bao phen phải làm lại từ đầu”

VanVN.Net - Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh không phải là người gây được ấn tượng sớm. Hầu như phần lớn thành tựu trong sáng tác của ông đều xuất hiện sau năm 1975. Song, Hữu Thỉnh lại ...